Bản án số 61/2025/DS-PT ngày 13/05/2025 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 61/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 61/2025/DS-PT ngày 13/05/2025 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hải Dương
Số hiệu: 61/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 13/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Phạm Văn H khởi kiện tranh chấp thừa kế đối với ông Phạm Văn Th
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HẢI DƯƠNG
Bản án số: 61/2025/DS-PT
Ngày: 13 - 5 - 2025
V/v: Tranh chấp thừa kế tài sản
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
ỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Trần Hữu Hiệu
Các Thẩm phán: Ông Bùi Đăng Huy, bà Phạm Thúy Hằng
- Thư ký phiên toà: Bà Phạm Hồng Quỳnh - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Hải Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Văn Tưởng - Kiểm sát viên.
Ngày 13 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương, xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 143/2024/TLPT-DS ngày 10 tháng
12 năm 2024 về tranh chấp thừa kế tài sản; do Bản án dân s thẩm số
06/2024/DS-ST ngày 18 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Bình
Giang, tỉnh Hải Dương bị kháng cáo; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc
thẩm số 33/2025/QĐ-PT ngày 08 tháng 4 năm 2025, Quyết định hoãn phiên tòa
số 47/2025/QĐ-PT ngày 08 tháng 4 năm 2025, Thông báo thay đổi thời gian t
xử số 273/TB-TA ngày 21 tháng 4 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Phạm Quang H, sinh năm 1955
Địa chỉ: Khu T, thị trấn K, huyện B, tỉnh Hải Dương; có mặt
- Bị đơn: Ông Phạm Văn T, sinh năm 1963
Địa chỉ: Khu T, thị trấn K, huyện B, tỉnh Hải Dương; có mặt
- Người có quyền lợi, nghĩa v liên quan:
+ Bà Phạm Thị D, sinh năm 1960
Địa chỉ: Khu T, thị trấn K, huyện B, tỉnh Hải Dương; có mặt
+ Bà Phạm Thị T1, sinh năm 1971
Địa chỉ: Khu T, thị trấn K, huyện B, tỉnh Hải Dương; có mặt.
+ Bà Chu Thị D1, sinh năm 1964
Địa chỉ: Khu T, thị trấn K, huyện B, tỉnh Hải Dương; có mặt
2
+ Anh Phạm Văn H1, sinh năm 1991
Địa chỉ: Khu T, thị trấn K, huyện B, tỉnh Hải Dương; có mặt
+ Ông Phạm Văn Đ, sinh năm 1954 và bà Dương Thị V, sinh năm 1956
Địa chỉ: Khu T, thị trấn K, huyện B, tỉnh Hải Dương; mặt ông Đ, vắng
mặt bà V.
+ Ủy ban nhân dân thị trấn K, huyện B, tỉnh Hải Dương.
Người đại diện theo pháp luật: Chủ tịch UBND thị trấn K, huyện B, tỉnh
Hải Dương; có đề nghị xét xử vắng mặt.
- Người kháng cáo: Bị đơn Phạm Văn T người quyền lợi liên quan
Phạm Văn H1.
- Bản án sơ thẩm không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Nguyên đơn Phạm Quang H trình bày:
Cụ Phạm Văn M (tên gọi khác Phạm Văn Bốn H2) chết ngày 22/5/2004 và
cụ Chu Thị D2 chết ngày 02/2/2012 không để lại di chúc. Những người thừa kế
của cụ M và cụ D2 gồm 03 người con đẻ Phạm Quang H, Phạm Văn T, Phạm
Thị D 01 người con nuôi là Phạm Thị Tuyết . Bố mẹ đcủa cụ M cụ D2 đều
chết trước hai cụ từ lâu. Tài sản cụ M cụ D2 để lại ông H đề nghị Toà án
phân chia bao gồm:
Thửa đất số 400 tờ bản đồ số 02 có diện tích 389,3m
2
gồm 300m
2
đất ở và
89,3m
2
đất vườn tại ngõ L, khu T, thị trấn K, huyện B, tỉnh Hải Dương đã được
UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 12/12/2002.
Tài sản trên đất gồm: 01 ngôi nhà ngói ba gian xây dựng từ năm 1974; tầng
1 của ngôi nhà 02 gian xây dựng năm 1974 (năm 1991 vợ chồng ông T, bà D xây
dựng thêm tầng 2 tại ngôi nhà); 01 nhà bếp xây dựng năm 1991; 01 dãy nhà ngang,
chuồng gà, sân gạch đỏ và 01 cây nhãn.
Số tiền 260.000.000đồng bao gồm khoản tiền do UBND huyện B thu hồi
đất ruộng và bồi thường cho cM và cụ D2 là 102.024.000đồng và khoản tiền do
chủ đầu tư hỗ trợ để đẩy nhanh tiến độ bàn giao đất là 157.976.000đồng. Số tiền
này hiện do ông H nhận và phân chia cho ông H, bà T1 và bà Phạm Thị D.
Khoảng tháng 06/2020, anh H1 là con ông T, bà Chu Thị D1 khi tiến hành
làm nhà trên phần đất của ông T, Chu Thị D1 tiếp giáp với đất của cụ M, cụ
D2 để lại, đã phá dỡ bức tường ngăn cách diện tích đất của hai cụ để lại với diện
tích đất của gia đình ông T, Chu Thị D1 xây cổng ra phía bên ngoài tiếp
giáp đường, lấn chiếm vào phần diện tích là ngõ đi chung và một phần diện tích
đất của bố mẹ ông để lại. Ông H và các chị em đã có đơn đề nghị UBND thị trấn
K ngăn chặn việc xây dựng nhưng anh H1 vẫn cố tình xây dựng.
3
Nguyên đơn khởi kiện và đề nghị Tòa án phân chia khối tài sản của cụ M
và cụ D2 để lại nêu trên theo pháp luật. Đề nghị phân chia cho ông T về một bên
phân chia cho ông H cùng chị em khác chung về phía còn lại để sử dụng chung.
Ngoài tài sản nêu trên, cụ M và cụ D2 còn đlại 01 thửa ruộng một số
đồ dùng sinh hoạt nhưng ông H không yêu cầu Toà án phân chia, những tài sản
này anh chị em sẽ tự thoả thuận, giải quyết sau.
2. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc lập ông Phạm
Văn Đ trình bày:
Năm 1957, bố mẹ ông Đ có cho cụ D2, cụ M mượn mt phần diện tích đất
khoảng hơn 6m
2
tiếp giáp đất của hai gia đình (do lúc đó c D2, cụ M đã xây bếp,
đào giếng vào đất của bố mẹ ông), khi nào bố mẹ ông Đình C thì phải trả lại. Bố
mẹ ông Đ chết để lại thửa đất cho ông Đ Dương Thị V và đã được UBDN
huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N059302 ngày 12/12/2002
đối với thửa đất số 417 tờ bản đồ 02 diện tích 971,1m2 tại khu T, thị trấn K, huyện
B, tỉnh Hải Dương nhưng chưa bao gồm phần diện tích hơn 6m
2
này. Khi biết ông
H u cầu chia thừa kế đối với thửa đất do cụ D2, cụ M để lại, ông Đ đã sang trao
đổi với những người thừa kế của cụ H2, cụ D2 ông H, D1, T1 và ông T
về việc cho gia đình ông Đ lấy lại phần đất mà các cụ cho mượn. Ông H, bà D1,
T1 và ông T đều đồng ý nên ngày 20, 21/8/2023 ông Đ đã sang đo đạc, lấy lại
phần diện tích đất này xây tường để ngăn cách giữa hai bên. Kết quả đo đạc
xác định phần diện tích ông Đ đã xây tường và lấy lại là 6,1m
2
đất vườn. Ông
Đ đnghị những người thừa kế của cụ D2, cụ M tách phần diện tích đất 6,1m
2
đất
vườn này để nhập vào thửa đất số 417 mang tên vợ chồng ông Đ hiện nay.
3. Bị đơn Phạm Văn T trình bày:
Cụ Phạm Văn M (tên gọi khác Phạm Văn Bốn H2) chết năm 2004 mẹ
ông là cụ Chu Thị D2 chết năm 2012 đều không để lại di chúc. Cụ M cụ D2
06 người con đgồm ông Phạm Quang H, ông Phạm Văn T Phạm Thị D,
01 người chị bị tai nạn chết khi còn nhỏ 02 người sinh đôi đã chết khi sinh,
ngoài ra hai cụ còn nhận nuôi 01 người con là bà Phạm Thị T1 nhưng không đăng
ký nhận nuôi con nuôi với chính quyền địa phương nên ông T chưa công nhận
T1 là con nuôi hợp pháp của hai cụ. Tài sản cụ M và cụ D2 để lại gồm nhà, đất tại
khu T do ông T đang ở, mảnh ruộng tại khu Đ và khu M thuộc khu T, thị trấn K,
huyện B, tỉnh Hải Dương một số đồ dùng sinh hoạt như đồng hồ, mâm đồng,
xoong do ông H quản lý. Ông T xác định ông T ở cùng với bố mẹ, trước khi chết
bố mẹ đã i miệng giao tài sản cho vợ chồng ông T quản nên ông T không
đồng ý phân chia thừa kế tài sản của cụ M, cụ D2 đề nghị giữ nguyên khối tài
sản nhà, đất đlàm nơi thời cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ các anh chị em khi
qua đời. Đối với số tiền bồi thường ruộng khu Đồng Bùi 260.000.000đồng, ông T
không đồng ý với giá trị đền nêu trên đề nghị xem xét giá ruộng theo giá
hiện nay.
Về yêu cầu của ông Phạm Văn Đ: Ông T không đồng ý với việc ông Đ xây
dựng bức tường gạch ba banh và xác định không có việc bố mẹ ông Đ bố mẹ
ông cho mượn đất vì không có giấy tờ chứng minh.
4
4. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác trình bày:
4.1. Bà Chu Thị D1 (vợ ông T) trình bày: Chu Thị D1 kết hôn với ông
T về sinh sống cùng với gia đình cụ M, cụ D2 từ đó cho đến nay. Cụ M, cụ D2
chết đều không để lại di chúc. Tài sản của hai cụ để lại bao gồm thửa đất tại ngõ
L, khu T, thị trấn K, huyện B, tỉnh Hải Dương căn nhà, một số tài sản, công
trình khác trên đất như ông H đã trình bày. Quá trình chung sống bà D1 và ông T
có xây dựng thêm tầng 2 của căn nhà 02 tầng của cụ M và cụ D2 để vợ chồng bà
sinh hoạt. Khi chia công điền năm 1988 thì bà có được ông T2 - Chủ tịch UBND
xã T thời kỳ đó giải thích: Con trưởng hoặc con út thì không được tách khẩu, sau
này ông bà mất thì người cùng với ông sẽ thành chủ hộ trong đất với ông
bà và khi trước khi cụ D2 chết có nói giao diện tích đất trên cho ông T trông nom
nên bà D1 không đồng ý phân chia di sản do cụ D2, cụ M để lại.
Đối với khoản tiền bồi thường khu Đồng B: không đồng ý với mức
đền bù, hỗ trợ và cho rằng ông H đã tự ý thỏa thuận số tiền hỗ trợ với chủ đầu tư
không bàn bạc với các anh em trong gia đình nên yêu cầu phân chia
ruộng khu Đ theo giá trị đất hiện tại chkhông phân chia theo giá trị Nhà
nước đã bồi thường và chủ đầu tư hỗ trợ cho ông H là 260.000.000đồng.
Về yêu cầu của ông Phạm Văn Đ: Khoảng tháng 8/2023 ông Đ sang trao
đổi với gia đình bà về việc xin lại phần diện tích đất 6,1m
2
mà từ thời xưa bố mẹ
ông Đ cho cụ M, cụ D2 mượn. Gia đình bao gồm cả chồng là ông T ban đầu
cũng đồng ý cho ông Đ lấy lại phần diện tích đất 6,1m
2
này cho ông Đ xây
tường ngăn cách tuy nhiên sau này gia đình bà thay đổi quan điểm và không đồng
ý với yêu cầu của ông Đ nữa.
4.2. Anh Phạm Văn H1 (con trai ông T) trình bày: Hiện anh H1 đang sinh
sống trên thửa đất số 411 (đất của bố mẹ anh) giáp ranh với thửa đất số 400 của
cụ M và cụ D2 hiện đang yêu cầu phân chia thừa kế. Năm 2019-2020, anh có xây
dựng căn nhà và một số công trình trên thửa đất số 411, để khoảng sân của gia
đình vuông vức, anh phá bức tường, căn bếp, chuồng ngăn cách giữa diện
tích đất của gia đình anh, ngõ và đất của cụ M, cụ D2 để láng xi măng, xây cổng
lát đá hoa. Phần diện tích đất anh lát đá hoa vào đất của cụ D2, c M
20,3m
2
xây cổng, lát đá hoa vào phần đất của ngõ là 11m
2
. Khi xây dựng
xin giấy phép xây dựng khi xây dựng xong thì UBND thị trấn ông H mới
ý kiến. Do đó nếu địa phương yêu cầu thu hồi, khôi phục lại ngõ đi, anh H1
cũng đồng ý phá dỡ trụ cổng, cổng trả lại ngõ đi cho địa phương tuy nhiên anh H1
yêu cầu bồi thường cho anh phần diện tích đã lát đá hoa.
4.3. Bà Phạm Thị D trình bày: Thống nhất về thời điểm cụ M, cụ D2 chết,
diện, hàng thừa kế và di sản thừa kế của hai cụ có yêu cầu Tòa án giải quyết như
ông H trình bày. Bà D đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông H và đề nghị Tòa án
phân chia tài sản tha kế của cụ M, cụ D2 cho ông H chùng vào một phía
để sau này xây dựng nhà thờ.
4.4. Bà Phạm Thị T1 trình bày: Bà T1 được cụ M, cụ D2 nhận nuôi từ khi
sinh ra vào năm 1971 nhưng không đăng ký việc nuôi con nuôi với chính quyền
địa phương. T1 với cụ M cụ D2, được các cụ nuôi ỡng đến khi lấy
5
chồng về ở nhà chồng. Bà T1 từ chối nhận phần di sản là nhà, đất tại thửa đất số
400 tờ bản đồ số 02 ngõ L, khu T. Tuy nhiên T1 đề nghị xem xét việc sinh
sống từ nhỏ với cụ D2, cụ M cho đến lớn, có công sức trong việc duy trì, tôn tạo
khối tài sản. Sau khi lấy chồng bà về sinh sống cùng gia đình nhà chồng nhưng ở
gần nhà bố mẹ nuôi nên vẫn thường xuyên đến thăm nom, chăm sóc bố mẹ
nuôi thường ngày và khi bố mẹ nuôi đau yếu, bà cũng tham gia tổ chức đám ma,
xây dựng m cho cụ D2, cụ M nên bà T1 đề nghị Toà án cho bà được hưởng một
phần công sức được trích từ số tiền bồi thường ruộng 260.000.000đồng (số tiền
này hiện bà đang quản lý 85.000.000đ do ông H phân chia cho). Ngoài ý kiến nêu
trên, bà T1 không yêu cầu Tòa án phân chia tài sản nào khác.
4.5. Bà Dương Thị V (vợ ông Đ) trình bày thống nhất ý kiến ông Đ.
4.6. Kết quả xác minh và ý kiến của UBND thị trấn K: Phần diện tích ngõ
đi chung đi vào thửa đất số 400 tờ bản đồ số 02 tại khu T do UBND thị trấn K
quản lý. Năm 2020, gia đình ông T, Chu Thị D1, anh H1 xây dựng trụ cổng
lắp cổng sắt lấn chiếm vào đường giao thông do UBND thị trấn K quản lý,
UBND thị trấn K đã yêu cầu gia đình ông T, Chu Thị D1 phải tiến hành tự tháo
dỡ phần công trình nằm trên đường giao thông, hoàn trả lại mặt bằng làm lối đi
chung của địa phương nhưng đến nay gia đình ông T, bà Chu Thị D1 không chấp
hành. UBND thị trấn K đề nghị Toà án buộc gia đình ông T, bà D1 anh H1
phải tháo dỡ phần công trình bao gồm cổng, trụ cổng đã xây dựng trên lối đi chung
để trả lại nguyên trạng ban đầu theo Sơ đồ địa chính năm 2001.
Cụ Phạm Văn M còn tên gọi khác cụ Phạm Văn Bốn H2 cụ Chu
Thị D2 chết đi để lại khối di sản là thửa đất số 400 tờ bản đồ s02 tại ngõ L, khu
T, thị trấn K, huyện B, tỉnh Hải Dương đã được UBND huyện B cấp Giấy
chứng nhận quyền s dụng đất ngày 12/12/2002 diện tích 389,3m
2
. Kiểm tra
lại diện tích trên bản đồ địa chính 2001 do UBND thị trấn K quản xác định diện
tích là 393,4m
2
lệch 4,1m
2
so với Giấy chứng nhận đã cấp, nguyên nhân là do sai
số khi tính toán năm 2001. Qua kiểm tra lại hiện trạng, xác định diện tích hiện nay
là 394,4m
2
, tăng 01m
2
so với kết quả tính toán lại diện tích trên Giấy chứng nhận
quyền sử dụng. Qua xác minh thửa đất ranh giới ổn định, các hộ giáp ranh
không tranh chấp mốc giới do đó sự chênh lệch về diện tích của thửa đất nêu
trên là sai số khi đo đạc, tính toán lại diện tích.
Về việc nhận nuôi con nuôi: UBND thị trấn K hiện không còn lưu giữ tài
liệu, thông tin gì về việc khai sinh của bà Phạm Thị T1 không có thể hiện nội
dung cụ Phạm Văn Bốn H2 cụ Chu Thị D2 thực hiện việc đăng ký nhận nuôi
con nuôi đối với bà Phạm Thị Tuyết . Tuy nhiên, trong hệ thống quản lý thông tin
về dân quốc gia do Công an thị trấn K quản thông tin về cha mẹ của
Phạm Thị T1 là cụ Phạm Văn M cụ Chu Thị D2. Theo người trong họ của cụ
M, cụ D2 xác định việc bà Phạm Thị T1 được cụ M, c D2 nhận làm con nuôi và
sinh sống với các cụ từ khi còn nhỏ. T1 đến năm 21 tuổi đi lấy chồng không
tiếp tục chung sống với cha mẹ nuôi nhưng vẫn về thăm nom chăm sóc các cụ,
khi việc như cụ M, cụ D2 ốm đau, bệnh tật T1 cũng đều mặt chăm sóc
6
các cụ, khi các cụ chết thì đứng ra cùng các anh chị em khác tổ chức đám ma và
xây dựng mộ cho các cụ.
Tại Bản án dân sự thẩm số 06/2024/DS-ST ngày 18/6/2024, Tòa án nhân
dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc chia di sản thừa kế
của cụ M và cụ D2 theo quy định pháp luật.
2. Công nhận sự tự nguyện của ông H, Phạm Thị D vviệc tách trả lại
ông Đ 6,1m
2
loại đất vườn từ thửa số 400 tờ bản đồ số 02 phần diện tích đất chia
cho ông H, D để nhập vào vào thửa đất số 417 tờ bản đồ s02 mang tên ông
Đ, bà V.
3. Xác định người được hưởng thừa kế của cụ M cụ D2 bao gồm: Ông
H, ông T và bà Phạm Thị D.
4. Xác định di sản cụ M và cụ D2 để lại cần phân chia bao gồm:
+ Thửa đất s400 tờ bản đồ số 02 tại ngõ L, khu T, thị trấn K, huyện B,
tỉnh Hải Dương diện tích đất 394,4 m
2
bao gồm 300m
2
đất trị giá
900.000.000đồng 94,4m
2
đất trồng cây lâu năm trị giá 141.600.000đồng.
Tổng cộng giá trị đất 1.041.600.000đồng.
+ Về tài sản xây dựng trên đất: 01 căn nhà cấp 04 ba gian 01 tầng xây dựng
năm 1974 diện tích 42,1m
2
có trị giá 8.841.000đồng; tầng 1 của căn nhà 02 tầng
xây dựng năm 1974 diện tích 25,9m
2
trị giá 23.795.625đồng; 01 căn nhà ngang
xây dựng năm 1974 diện tích 10,4m
2
trị g364.000đồng; 01 căn bếp xây dựng
năm 1991 diện tích 24,4m
2
trị giá 1.089.000đồng; 01 khu chuồng nuôi diện
tích 23,5m
2
trị giá 587.000đồng; sân lát gạch đỏ diện tích 49,6m
2
trị giá
496.000đồng; mái fibro xi măng 7,1m
2
trị giá 142.000đồng; mái proximăng 8,2m
2
trị giá 200.000đồng và 01 cây nhãn đường kính gốc 70cm trị giá 2.400.000đồng.
Tổng cộng giá trị tài sản trên đất là 37.923.625đồng.
+ Số tiền bồi thường do thu hồi ruộng 260.000.000đồng.
Tổng cộng giá trị khối tài sản: 1.339.523.625đồng.
5. Về lối đi chung:
- Buộc ông T, Chu Thị D1, anh H1 phải tháo dỡ trụ cổng và cánh cổng
nằm trên phần ngõ đi chung, khôi phục lại hiện trạng, trả lại phần ngõ đi chung
cho UBND thị trấn K (phần ngõ đi được giới hạn bởi các điểm A1, B1, B2, B3,
B4, B11, B10, B9, B7, B8 đến A1).
- Tách một phần diện tích là 17,3m
2
đất vườn ca thửa đất số 400 tờ bản đ
số 02 trị giá 25.950.000đồng làm lối đi chung (Phần ngõ đi được giới hạn bởi các
điểm B2, B3, B4, B11, B10, B9, B8 đến B2).
6. Về trích trả công sức:
- Xác định trị gphần công sức của ông T, Chu Thị D1 trị giá
234.127.472đồng;
7
- Xác định trị giá phần công sức bà T1 có trị giá 65.000.000đồng;
7. Trị giá di sản còn lại cần phân chia là: 1.014.446.153đồng. Phân chia di
sản theo kỷ phần, một kỷ phần thừa kế được hưởng là: 338.148.717đồng.
8. Phân chia trên thực tế:
Giao cho ông Đ, V sử dụng diện tích đất 6,1m
2
của thửa số 400 tờ bản
đồ số 02 để nhập vào thửa đất s417 tờ bản đồ số 02 (Phần diện tích giao cho ông
Đ, bà V được giới hạn bởi các điểm A13, C1, A11, A12 đến A13).
Giao cho ông H Phạm Thị D được quyền sử dụng chung: 132,7m
2
đất
ở; 71m
2
đất vườn ã trừ đi 6,1m
2
tách trả cho ông Đ) và tài sản trên đất bao gồm:
01 căn bếp cũ xây dựng năm 1991 diện tích 24,4m
2
; sân lát gạch đỏ và phần mái
broximăng 8,2m
2
. Tổng cộng trị gtài sản là 506.394.00(Phần diện tích đất
giao cho ông H, bà Phạm Thị D sau khi trừ đi 6,1m
2
được giới hạn bởi các điểm
B7, B9, B10, B11, B12, A9, A10, A 11, C1, A14 đến B7).
Giao cho ông T được quyền sử dụng: 167,3m
2
đất ở và tài sản trên đất bao
gồm: 01 căn nhà cấp 04 ba gian 01 tầng xây dựng năm 1974 diện tích 42,1m
2
;
tầng 1 của căn nhà 02 tầng xây dựng năm 1974 diện tích 25,9m
2
; 01 căn nhà ngang
xây dựng năm 1974 diện tích 10,4m
2
; 01 khu chuồng nuôi diện tích 23,5m
2
;
mái broximăng 7,1m
2
và 01 cây nhãn đường kính gốc 70cm. Tổng cộng giá trị tài
sản 572.276.189đồng (Phần diện tích giao cho ông T được giới hạn bởi các
điểm B4, B11, B12, A8, A7, A6, A5, A4, B6, B5 đến B4).
9. Về thanh toán chênh lệch tài sản:
- Bà T1 có trách nhiệm trả lại ông H số tiền đã nhận là 20.000.000đồng.
- Ông H có trách nhiệm trả cho ông T số tiền chênh lệch tài sản
20.000.000đồng + 7.123.282đồng = 27.123.282đồng; Phạm Thị D trách
nhiệm trả ông T số tiền chênh lệch tài sản là 7.123.282đồng.
- Ông H và bà Phạm Thị D được quyền sử dụng tài sản trên phần diện tích
đất được chia bao gồm 01 sân tông; 01 cây roi, 02 cây mít giống, 02 cây mít
đường kính gốc 10cm, 02 cây na, 01 cây xoan, 01 cây đu đủ, 01 cây đào, 01 cây
thiết mộc lan và trả tiền chênh lệch tài sản cho ông Phạm Văn T, Chu Thị D1
số tiền là 4.303.000đồng (mỗi người 2.151.500đồng).
- Những người thừa kế (ông H, ông T, bà Phạm Thị D) trách nhiệm trả
anh H1 số tiền 1.776.250đồng chi phí lát đá hoa (mỗi người 592.083đồng).
Ngoài ra bản án còn quyết định về lãi chậm thi hành án, chi phí tố tụng, án
phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 29/7/2024, ông T kháng cáo với các nội dung: (1) không chấp nhận
chia thừa kế cho bà T1 xác định bà T1 không phải là con nuôi của cụ M cụ
D2; (2) yêu cầu Tòa án phải trích trả công sức của ông T trong việc chăm sóc cụ
M cụ D2 tổng số tiền 2.232.000.000đồng; (3) tăng giá trị công sức tôn tạo di
sản cho ông T.
8
Ngày 07/8/2024, anh H1 kháng cáo với các nội dung: (1) không đồng ý phá
dỡ trụ cổng cánh cổng; (2) tăng giá trị công sức tôn tạo di sản cho ông T,
Chu Thị D1.
Tại phiên tòa:
Ông H, bà Phạm Thị D, bà T1, ông Đ đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ông T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Anh H1 đồng ý việc tháo dỡ trụ cổng,
cánh cổng, nhận thức được việc anh H1 không quyền kháng cáo ng giá trị
công sức tôn tạo di sản của ông T, bà D nên anh H1 thay đổi nội dung kháng cáo
xác định chỉ kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét việc định giá tại cấp
thẩm xác định giá trị 20,3m
2
sân lát gạch hoa do anh H1 xây dựng là quá thấp so
với thực tế, không kháng cáo nội dung nào khác.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp
luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm và đề nghị Hội đồng
xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn người quyền lợi liên quan,
giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
Kháng o của ông T anh H1 trong thời hạn luật định nên được chấp
nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Tại phiên tòa, anh H1 đã thay đổi nội dung kháng cáo chỉ đề nghị xem xét
việc định giá tài sản đối với 20,3m
2
sân lát gạch hoa do anh H1 xây dựng nên Hội
đồng xét xử chỉ xem xét nội dung kháng cáo này của anh H1.
[2] Về diện và hàng thừa kế:
Các đương sự trình bày thống nhất cụ M cụ D2 chết không để lại di chúc
nên di sản của các cụ được chia theo pháp luật. Cụ M và cụ D2 kết hôn sinh được
06 người con nhưng 03 con đã chết từ nhỏ, còn 03 con đẻ là ông H, ông T và bà
Phạm Thị D. Tài liệu hộ tịch lưu tại UBND thị trấn K không có thông tin về việc
đăng ký nhận con nuôi giữa cụ M, cụ D2 và bà T1. Tuy nhiên các đương sự trình
bày thống nhất và phù hợp với thông tin UBND thị trấn K cung cấp, bà T1 được
cụ M, cụ D2 nuôi từ khi còn nhỏ (năm 1971), T1 cùng hai cụ đến năm 21
tuổi kết hôn về nhà chồng. Từ khi được nuôi đến khi cụ M, cụ D2 chết,
T1 thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của con đối với bố mẹ và ngược lại cụ M và c
D2 thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của cha mẹ đối với con là bà T1 theo quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình cũng như trách nhiệm đạo đức. Do vậy, có căn cứ xác
định T1 con nuôi của cụ M cụ D2 trên thực tế. Cấp thẩm xác định
những người thừa kế di sản của cụ M và cụ D2 theo pháp luật gồm ông H, ông T,
Phạm Thị D và T1 n cứ. Ông T kháng cáo cho rằng T1 không
phải là con nuôi của cụ M và cụ D2, không thuộc diện thừa kế tài sản của các cụ
là không có căn cứ chấp nhận.
[3] Xác định di sản:
9
3.1. Về quyền sử dụng đất: Các đương sự thống nhất quyền sử dụng thửa
đất số 400, tờ bản đồ s02 tại khu T, thị trấn K, huyện B được UBND huyện B
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 12/12/2002 mang tên cụ M cụ
D2 di sản của cụ M và cD2. Diện tích thực tế thửa đất là 394,4m
2
tăng 5,1m
2
so với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo xác định của quan quản lý Nhà
nước về đất đai đây là do sai số đo đạc, tính toán. Cấp sơ thẩm xác định diện tích
đất di sản của cụ M và cụ D2 theo diện tích thực tế sở. Việc xem xét thẩm
định tại chcủa cấp thẩm được thực hiện công khai, các đương sự đều tham
gia nhất trí với ranh giới quyền sử dụng đất của cụ M cụ D2, tại phiên tòa
phúc thẩm vợ chồng ông T cho rằng diện tích 5,1m
2
đất dôi dư nêu trên là đất của
vợ chồng ông T không thuộc di sản thừa kế là không có căn cứ.
3.2. Về tài sản xây dựng trên đất: Các đương sự trình bày thống nhất di sản
của cụ M cụ D2 gồm 01 căn nhà cấp 04 ba gian 01 tầng xây dựng năm 1974
diện tích 42,1m
2
; tầng 1 của căn nhà 02 tầng xây dựng năm 1974 diện tích 25,9m
2
;
01 căn nhà ngang xây dựng năm 1974 diện tích 10,4m
2
; 01 căn bếp cũ xây dựng
năm 1991 diện tích 24,4m
2
; 01 khu chuồng nuôi gà diện tích 23,5m
2
; sân lát gạch
đỏ diện tích 49,6m
2
; mái fibro xi ng 7,1m
2
; i broximăng 8,2m
2
01 cây
nhãn đường kính gốc 70cm; các công trình vật kiến trúc cây trồng khác trên
đất tài sản của ông T, bà Chu Thị D1 anh H1 xây dựng, trồng trên đất nên
đây là tình tiết không phải chứng minh.
3.3. Việc định giá tài sản đang tranh chấp trong vụ án được thực hiện theo
đúng trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Quá trình chuẩn bị xét
xử sơ thẩm các đương sự không có khiếu nại về trình tự, thủ tục và kết quả định
giá nên kết quả định giá do Hội đồng định giá tại cấp thẩm kết luận căn cứ
để giải quyết vụ án. Ông T, anh H1 kháng cáo về giá tài sản trong vụ án là không
có căn cứ chấp nhận.
3.4. Về số tiền 260.000.000đồng đây tiền Nhà nước bồi thường chủ
đầu Công ty TNHH T3 hỗ trợ đẩy nhanh tiết độ khi thu hồi thửa ruộng số
357/7 tờ bản đồ số 3 diện tích 468m
2
tại khu Đ của c M và cụ D2 vào năm 2015.
Do khi thực hiện thủ tục bồi thường, cụ M, cụ D2 đã chết nên Hội đồng giải phóng
mặt bằng đã bàn giao số tiền trên cho ông H vợ Chu Thị D3 nhận theo
Biên bản trả tiền ngày 23/3/2016. Thực tế ông H đã chia cho Phạm Thị D
T1 mỗi người 85.000.000đồng, ông H quản 90.000.000đồng. Thực tế diện
tích đất trên đây của cụ M cụ D2 đã được thu hồi đsử dụng mục đích khác,
những người thừa kế của hai cụ không khiếu nại về việc bồi thường. Cấp
thẩm xác định số tiền 260.000.000đồng nhận bồi thường thu hồi đất là di sản của
cụ M cụ D2 căn cứ. Ông T kháng cáo yêu cầu xác định giá trị quyền sử
dụng đất ở giai đoạn hiện nay là di sản của cụ M, cụ D2 là không có căn cứ chấp
nhận.
[4] Về việc phân chia thừa kế:
4.1. Về trích trả công sức quản lý di sản:
Từ khi vchồng ông T kết hôn đã cùng với cụ M, cụ D2 được sử dụng
đất của các cụ làm nơi sinh sống, được hưởng lợi hoa lợi từ đất. Ktừ khi cụ M
10
cụ D2 chết, vợ chồng ông T công sức quản toàn bộ di sản quyền sử
dụng đất tài sản gắn liền với đất của các cụ. Cấp thẩm trích trả công sức
quản di sản cho vợ chồng ông T, Chu Thị D1 tương đương 234.127.472đồng
(tương đương 2/3 xuất thừa kế) phù hợp, đảm bảo quyền lợi của các bên. Kháng
cáo của ông T về nội dung này không được chấp nhận.
Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam qua các thời kỳ đều quy định nghĩa
vụ của các con phải chăm sóc, cấp dưỡng cho cha mẹ khi cha mẹ lớn tuổi, không
còn khả năng lao động. Quy định này của Luật Hôn nhân gia đình được luật
hóa từ quy phạm đạo đức, truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam. Việc ông
T kháng cáo yêu cầu đòi trích trả công sức, chi phí chăm sóc cụ M và cụ D2 với
tổng số tiền hơn 02 tỉ đồng, lớn hơn cả giá trị di sản các cụ để lại là trái quy định
của Luật Hôn nhân gia đình, không phù hợp với đạo đức hội nên không
được chấp nhận.
4.2. Về việc chia thừa kế cho bà T1:
Như trên đã phân tích, T1 được quyền thừa kế di sản của cụ M, cụ D2
như ông T. Tại cấp thẩm, T1 tự nguyện từ chối nhận di sản quyền sử dụng
đất tài sản gắn liền với đất của cụ M cụ D2, chỉ yêu cầu được hưởng một
phần tiền từ việc bồi thường đất nông nghiệp của các cụ vì thực tế ông H đã chia
cho bà T1 85.000.000đồng. Cấp sơ thẩm chia cho bà T1 65.000.000đồng bằng ¼
số tiền bồi thường thu hồi đất của cụ M, cụ D2 đúng bằng phần T1 được
hưởng theo quy định của pháp luật. Ông T kháng cáo không đồng ý chia thừa kế
cho bà T1 là không có căn cứ chấp nhận.
4.3. Trong vụ án này cấp thẩm đã xác định đúng di sản, những người
được hưởng di sản, trích trả ng sức quản di sản, chia di sản cho ông T,
Chu Thị D1 hưởng phần quyền sử dụng đất có nhà ở của hai cụ và của vợ chồng
ông T đảm bảo ổn định cuộc sống, chia cho ông H, bà Phạm Thị Dương P quyền
sử dụng đất còn lại phù hợp nguyện vọng của đương sự. Đối với phần đất đã
trả ông Đ, nay ông T không đồng ý cấp sơ thẩm đã chấp nhận sự tự nguyện của
ông H, Phạm Thị D về việc trừ trả đất ông Đ vào phần đất ông H, Phạm Thị
D được chia phù hợp với nguyện vọng, sự tự nguyện của đương sự. Khi chia
đất cấp sơ thẩm đã trích đất làm lối đi chung cho hai bên, buộc các bên trả anh H1
giá trị phần gạch hoa lát trên lối đi, buộc vchồng ông T và anh H1 tháo dỡ trụ
cổng, cánh cổng để đảm bảo quyền sdụng lối đi chung của ông H, bà Phạm Thị
D là phù hợp.
Với các nhận định trên, Hội đồng xét xthấy toàn bộ kháng cáo của ông T
và anh H1 không có căn cứ chấp nhận, cần ginguyên bản án sơ thẩm.
[5] Về án phí: Ông T kháng cáo không được chấp nhận nhưng là người trên
60 tuổi nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm. Anh H1 phải chịu án phí dân sự
phúc thẩm theo quy định tại Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
[6] Các quyết định khác của bản án thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị Hội đồng xét xử không xét.
11
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
1. Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của ông Phạm Văn T và anh Phạm
Văn H1. Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 06/2024/DS-ST ngày 18/6/2024
của Tòa án nhân dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
2. Miễn án pdân sự phúc thẩm cho ông Phạm Văn T. Buộc anh Phạm
Văn H1 phải chịu 300.000đồng án phí dân sự phúc thẩm, được đối trừ vào số tiền
300.000đồng anh H1 đã nộp tạm ứng án phí theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí,
lệ phí Tòa án số 0005002 ngày 07/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Bình Giang, anh H1 đã nộp đủ án phí.
3. Bn án phúc thm có hiu lc pháp lut k t ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án n sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thinh án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tnh Hải Dương;
- Các đương sự;
- TAND huyn Bình Giang;
- Chi cc THADS huyn Bình Giang;
- Lưu: HS, THS, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN - CH TO PHIÊN T
Trn Hu Hiu
Tải về
Bản án số 61/2025/DS-PT Bản án số 61/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 61/2025/DS-PT Bản án số 61/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất