Bản án số 250/2025/DS-PT ngày 24/04/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 250/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 250/2025/DS-PT ngày 24/04/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Dương
Số hiệu: 250/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: 1. Không chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐKNVKS-DS ngày 23/12/2024 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương. 2. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Phạm Văn D. 3. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 237/2024/DS-ST ngày 25/11/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 250/2025/DS-PT
Ngày 24-4-2025
V/v Tranh chấp tài sản chung hộ
gia đình và tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Lê Hoàng Vương.
Bà Nguyễn Thị Duyên Hằng;
Bà Đinh Thị Mộng Tuyết.
- Thư phiên tòa: Ông Đặng Hùng Cường - Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên
tòa: Ông Lê Trung Kiên Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 19/2025/TLPT-DS ngày
02/01/2025 về việc: “Tranh chấp tài sản chung hộ gia đình tranh chấp hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 237/2024/DS-ST ngày 25/11/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo, kháng
nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 160/2025/QĐ-PT ngày
28/02/2025, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 225/2025/QĐ-PT ngày
28/3/2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Đặng Thị T, sinh năm 1946; địa chỉ: số A đường Đ,
phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
- B đơn: Ông Phạm Văn D, sinh năm 1979; địa chỉ: số A đường Đ,
phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1967; địa chỉ: sB đường Đ, tA, khu
phố A, phường H, thành phố B, tỉnh Bình Dương; có mặt.
2
2. Nguyễn Thị M, sinh năm 1967; địa chỉ: khu phố D, phường H,
thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Nguyễn Thị M: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1992; địa chỉ: khu phố D, phường
H, thành phố T, tỉnh Bình Dương, người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy
quyền ngày 31/10/2024); có mặt.
- Vin Kim sát kháng ngh: Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh
Bình Dương.
- Người kháng cáo: bị đơn ông Phạm Văn D.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung bản án sơ thẩm:
- Nguyên đơn bà Đặng Thị T trình bày:
Đặng Thị T ông Phạm Văn N (sinh năm 1935, đã chết năm 1991
theo Trích lục khai tử số 726/TLKT-BS do Ủy ban nhân dân phường H cấp ngày
13/10/2020) vợ chồng một con nuôi ông Phạm Văn D, sinh năm
1979. Ngày 17/01/2000, hộ bà T được cấp quyền sử dụng đất diện tích 16.864m²
thuộc các thửa đất số 18, 35, 36, 53, tờ bản đồ số 16 tọa lạc tại phường H, thành
phố B, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N486340,
số vào sổ cấp GCN: 00376 QSDD/40/QĐ-UB do Ủy ban nhân dân huyện (nay
thành phố) Bến Cát cấp. Ngày 25/4/2001, hộ T đã chuyển nhượng một
phần quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn Đ, theo đó quyền sử dụng đất
thuộc các thửa đất số 36, 53 chiều ngang 10m, chiều dài 69m, tổng diện tích
khoảng 690m², với giá chuyển nhượng là 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng)
bằng giấy tay. Sau khi chuyển nhượng cho ông Đ, hộ bà T vẫn tiếp tục sinh sống
và quản lý phần diện tích đất còn lại. Đến năm 2023, do địa giới hành chính thay
đổi, phần đất của hgia đình bà T được cấp nằm hai địa phương khác nhau,
theo đề nghị và hướng dẫn của cơ quan đăng ký đất đai, T đã đăng ký thủ tục
cấp đổi quyền sử dụng đất nói trên thành các thửa đất khác nhau với thông tin
như sau:
- Cấp đổi diện tích 92,8m² theo Giấy chứng nhận quyền s dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DL 112401, số vào sổ cấp
GCN: CN17571 thuộc thửa đất số 1074, tờ bản đồ số 16 tọa lạc tại phường H,
thành phố B, tỉnh Bình Dương do Chi nhánh Văn phòng Đ1 (nay thành phố)
Bến Cát cấp đổi ngày 06/6/2023.
- Cấp đổi diện tích 3.313m² theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DI 594549, số vào sổ cấp
GCN: CN 11193 thuộc thửa đất số 164, tờ bản đồ số 02 tọa lạc tại phường H,
thành phố T, tỉnh Bình Dương do Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai thành
phố T cấp ngày 06/7/2023.
3
- Cấp đổi diện tích 5.911,2m² theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DI 594550, số vào sổ cấp
GCN: CN 11194 thuộc thửa đất số 425, tờ bản đồ số 02 tọa lạc tại phường H,
thành phố T, tỉnh Bình Dương do Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai thành
phố T cấp ngày 06/7/2023. Diện tích đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất GCN: 00376 QSDD/40/QĐ-UB còn lại sau khi cấp đổi bán cho ông
Nguyễn Văn Đ tạm tính là 6.289m².
Sau khi thực hiện việc cấp đổi trên, do T muốn chuyển nhượng quyền
sử dụng đất nên đã đề nghị ông Phạm Văn D cùng thỏa thuận về việc phân chia
tài sản chung quyền sử dụng đất của hộ gia đình, nhằm xác định phần
quyền sử dụng đất riêng của mỗi thành viên. Tuy nhiên, ông D đã nhiều lần t
chối đề nghị thỏa thuận phân chia tài sản chung của T. Cho nên, T đã nộp
đơn đnghị hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân phường H, thành
phố T. Ngày 12/10/2023, Ủy ban nhân dân phường H đã tiến hành tổ chức buổi
hòa giải; tại buổi hòa giải, ông D đã không đồng ý với phương án phân chia tài
sản chung theo đó mỗi thành viên (bà T ông D) được hưởng ½ quyền sử
dụng đất nên ông D đã tự ý rời khỏi buổi hòa giải.
Nay, nguyên đơn bà T khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Nhận bằng hiện vật ½ quyền sử dụng đất đối với phần đất tọa lạc tại
phường H, thành phố B, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số DL 112401, số vào
sổ cấp GCN: CN17571 do Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai thành phố B
cấp ngày 06/6/2023 mang tên hộ bà Đặng Thị T.
- Nhận bằng hiện vật ½ quyền sử dụng đất đối với phần đất tọa lạc tại
phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sdụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DI 594549, số vào sổ
cấp GCN: CN11193 do Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai thành phố T cấp
ngày 06/7/2023 mang tên hộ bà Đặng Thị T.
- Nhận bằng hiện vật ½ quyền sử dụng đất đối với phần đất tọa lạc tại
phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sdụng
đất, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số
DI 594550, số vào sổ cấp GCN: CN11194 do Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất
đai thành phố T cấp ngày 06/7/2023 mang tên hộ bà Đặng Thị T.
- Nhận bằng hiện vật ½ quyền sử dụng đất đối với phần đất tọa lạc tại
phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sdụng
đất số vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00376QSDĐ/40/QĐ-
UB do Ủy ban nhân dân tỉnh B cấp ngày 17/01/2000 mang tên hộ Đặng Thị
T.
Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn T thay đổi yêu cầu khởi kiện,
cụ thể: yêu cầu nhận ½ tài sản chung, cụ thể bà T yêu cầu được nhận phần đất và
tài sản trên đất thuộc thửa đất số 164, tờ bản đồ số 02 và phần đất thuộc thửa đất
số 425, tờ bản đồ số 02 tọa lạc tại phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Các
4
phần đất và tài sản trên đất còn lại sgiao cho ông Phạm Văn D quản lý, s
dụng. Đối với phần đất tranh chấp thuộc thửa đất số 46, 47 (thửa đất số 36 cũ),
tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương ngày
01/11/2024 bà Đặng Thị T có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện.
- Bị đơn ông Phạm Văn D trình bày:
Thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn T về nhân thân quyền
sử dụng đất đang thuộc quyền sử dụng chung của hộ bà T.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì bị đơn không đồng ý,
quyền sử dụng đất đang tranh chấp có nguồn gốc là di sản của tổ tiên, ông bà; do
đó, ông nguyện vọng bảo toàn khối tài sản này để phục vụ mục đích thờ
cúng, tiếp tục sử dụng đất vào mục đích canh tác để phụng dưỡng cho nguyên
đơn.
Đối với yêu cầu độc lập của ông Đ về việc ông Đ có mua của gia đình ông
D một phần diện tích đất (thuộc các thửa đất số 36, 53) chiều ngang 10m, chiều
dài 69m, tổng diện tích khoảng 690m², với giá chuyển nhượng 20.000.000
đồng (hai mươi triệu đồng) bằng giấy tay theo “Giấy bán đất ngày 25/4/2001” và
ông Đ quản lý, sử dụng cho đến nay. Ông D thống nhất giao phần đất trên cho
ông Đ quản lý, sử dụng.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Đ trình bày:
Năm 2001, ông Đ nhận chuyển nhượng từ nguyên đơn bà T một phần
diện tích đất (thuộc các thửa đất số 36, 53) chiều ngang 10m, chiều dài 69m,
tổng diện tích khoảng 690m², với giá chuyển nhượng 20.000.000 đồng (hai
mươi triệu đồng) theo “Giấy bán đất ngày 25/4/2001”.
Sau khi nhận chuyển nhượng, ông Đ đã trực tiếp quản lý, sử dụng n
định, liên tục phần đất nói trên. Theo kết quả đo đạc thực tế hiện nay, phần diện
tích đất ông Đ đang quản lý, sử dụng 711.3m², được xác định thuộc thửa đất
số 48 (có nguồn gốc từ thửa 53 cũ), tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại phường H, thành
phố T, tỉnh Bình Dương. Do đó, ông Đ yêu cầu Tòa án: công nhận việc chuyển
nhượng giữa ông ĐT; công nhận phần đất diện tích 711.3m
2
trên cho ông
Đ.
Đối với yêu cầu khởi kiện giữa T và ông D thì ông Đ không có ý kiến.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị M trình bày:
M cho rằng một phần diện tích đất đã quản sử dụng ổn
định, liên tục từ trước đến nay đã bị cấp chồng lấn vào giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất của hộ T. Theo bản vẽ đo đạc thực tế, phần diện tích đất M
đang quản lý, sử dụng bị cấp chồng lấn 366.2m². Do đó, M yêu cầu độc
lập, đề nghị Tòa án giải quyết: công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp cho
đối với phần diện tích 366.2m² nêu trên; bà M tự nguyện trích trừ một phần diện
tích đất làm lối đi chung cuối thửa đất, kích thước 3m x 12.62m (tương
đương 37.8m²). Như vậy, diện tích đất bà M yêu cầu Tòa án công nhận
5
quyền sử dụng đất là: 328.4m². Ngày 01/11/2024, M đơn xin rút yêu cầu
độc lập.
Tại Bản án dân sự thẩm số 237/2024/DS-ST ngày 25/11/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Đặng Thị T về
việc tranh chấp tài sản chung hộ gia đình đối với bị đơn ông Nguyễn Văn D1.
1.1. Giao cho ông Nguyễn Văn D1 quyền sử dụng đất diện tích 4.158,2m
2
(đất trồng cây lâu năm) thuộc thửa đất số 48 (thửa 53 cũ), tờ bản đồ số 2, tọa lạc
tại phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương và toàn bộ tài sản trên đất cho ông
Nguyễn Văn D1 quản lý, sử dụng, có vị trí tứ cận như sau:
+ Phía Bc giáp phần đất bà Nguyn Th M.
+ Phía Nam giáp đất ông Nguyễn Văn Đ.
+ Phía Tây giáp đường bê tông.
+ Phía Đông giáp đất ông Trn Văn L.
(Ký hiệu “A” kèm theo sơ đồ bn v).
1.2. Giao cho ông Nguyễn Văn D1 quyền sử dụng đất diện tích 92.8m
2
(đất trồng cây lâu năm), thuộc thửa đất số 1074, tờ bản đồ số 16, tọa lạc tại
phường H, thành phố B, tỉnh Bình Dương toàn bộ tài sản trên đất cho ông
Nguyễn Văn D1 quản lý, sử dụng, có vị trí tứ cận như sau:
+ Phía Bc giáp thửa đất s 164.
+ Phía Nam giáp thửa đất s 425.
+ Phía Tây giáp thửa đất s 735.
(Có sơ đồ bn vm theo).
Ông Phạm Văn D quyền liên hệ với quan nhà nước thẩm quyền
để thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp
luật.
1.3. Giao cho Đặng Thị T quyền sử dụng đất diện tích 3.313m
2
(đất
trồng cây lâu năm) thuộc thửa đất số 164, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại phường H,
thành phố T, tỉnh Bình Dương toàn bộ tài sản trên đất cho Đặng Thị T
quản lý, sử dụng, có vị trí tứ cận như sau:
+ Phía Bc giáp phần đất ông Nguyễn Văn P.
+ Phía Nam giáp đất bà Nguyn Th M.
+ Phía Tây giáp đất ông Nguyễn Văn S.
+ Phía Đông giáp đất lối đi.
(Có sơ đồ bn vm theo).
1.4. Giao cho Đặng Thị T quyền sử dụng đất diện tích 5.911,2m
2
(đất
trồng cây lâu năm) thuộc thửa đất số 425, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại phường H,
6
thành phố T, tỉnh Bình Dương toàn bộ tài sản trên đất cho Đặng Thị T
quản lý, sử dụng, có vị trí tứ cận như sau:
+ Phía Bc giáp phn đất bà Đặng Th T, ông Hunh Hu N1.
+ Phía Nam giáp đất bà Đặng Th T.
+ Phía Tây giáp đất bà Ngô Th T1.
+ Phía Đông giáp đất đường đất.
(Có sơ đồ bn vm theo).
Đặng Thị T quyền liên hệ với quan nhà nước thẩm quyền để
thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất theo quy định pháp
luật.
2. Cân đối giá trị tài sản được chia được nhận: Buc Đặng Th T
phi bi hoàn giá tr cho ông Nguyễn Văn D1 s tin 10.662.450 đồng.
Kể từ ngày Bản án hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp quan thi
hành án quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày đơn
yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả
cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền,
hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải
thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự
năm 2015.
3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Nguyễn Văn Đ về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất.
3.1. Công nhận hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Nguyễn Văn Đ với
Đặng Thị T đối với quyền sử dụng đất diện ch 711.3m
2
, thuộc một phần thửa
đất số 48 (thửa 53 cũ), tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại phường H, thành phố T, tỉnh
Bình Dương.
3.2. Ông Nguyễn Văn Đ được quyền quản lý, sdụng đối với quyền sử
dụng đất tài sản trên đất đối với diện tích đất 711.3m
2
, thuộc một phần thửa
đất số 48 (thửa 53 cũ), tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại phường H, thành phố T, tỉnh
Bình Dương có vị trí tứ cận như sau:
+ Phía Bc giáp phần đất bà Đặng Th T, ông Hunh Hu N1.
+ Phía Nam giáp đất bà Đặng Th T.
+ Phía Tây giáp đất bà Ngô Th T1.
+ Phía Đông giáp đất đường đất.
(Ký hiệu “B” kèm theo sơ đồ bn v).
Ông Nguyễn Văn Đ quyền liên hệ với quan nhà nước thẩm
quyền để thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy
định pháp luật.
7
4. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Đặng Thị T về
việc tranh chấp tài sản chung hộ gia đình đối với phần đất tranh chấp thuộc thửa
đất số 36 cũ, t bản đồ số 02, tọa lạc tại phường H, thành phố T, tỉnh Bình
Dương với bị đơn ông Nguyễn Văn D1.
5. Đình chỉ yêu cầu độc lập của Nguyễn Thị M đối với phần đất tranh
chấp thuộc thửa đất số số 36, tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại phường H, thành phố T,
tỉnh Bình Dương.
Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng
cáo của đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 23/12/2024 Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân
dân tỉnh Bình Dương kháng nghị toàn bộ bản án sơ thẩm theo Quyết định kháng
nghị phúc thẩm số 01/QĐKN-VKS-DS. Ngày 05/12/2024 của bị đơn ông Phạm
Văn D kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị
đơn giữ nguyên kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án.
Đại din Vin Kim sát nhân dân tnh Bình Dương phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực
hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
- Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm xác minh, thu thập chứng cứ chưa đầy
đủ, không đưa hết những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố
tụng trong vụ án, xét xử tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn Đặng Thị T chấp nhận yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan ông Nguyễn Văn Đ chưa đủ sở, xâm phạm đến quyền lợi
ích hợp pháp của bị đơn ông Phạm Văn D. Do đó, kháng cáo của bị đơn là có cơ
sở chấp nhận, Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐKN-VKS-DS ngày
23/12/2024 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương
sở. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, chấp nhận Quyết định
kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐKN-VKS-DS ngày 23/12/2024 của Viện trưởng
Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương. Hủy toàn bộ Bản án dân sự thẩm
số 237/2024/DS-ST ngày 25/11/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu
Một. Giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết theo quy định.
Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ trong hồ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của các
đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình
Dương, kháng cáo của bị đơn ông Phạm Văn D nộp trong thời hạn, có nội dung,
8
hình thức phù hợp với quy định của pháp luật nên đủ điều kiện để thụ lý xét
xử theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Nguyên đơn bà T yêu cầu phân chia tài sản chung hộ gia đình gồm các
thửa đất số 48, 58, 164, 425, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại phường H, thành phT,
tỉnh Bình Dương thửa đất số 1074, tờ bản đsố 16, tọa lạc tại phường H,
thành phố B, tỉnh Bình Dương vì cho rằng đây tài sản chung hộ gia đình. Bị
đơn ông D thừa nhận tài sản đang tranh chấp của hộ T, nhưng không đồng
ý đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, muốn giphần đất đthờ ng
ông bà. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đ yêu cầu Tòa án công nhận
việc chuyển nhượng đất với nguyên đơn T theo “Giấy bán đất ngày
25/4/2001” công nhận quyền sử dụng cho ông đối với diện tích 711.3m² tọa
lạc tại thửa 48, tờ bản đồ số 2, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
[3] Xét, về nguồn gốc các thửa đất đang tranh chấp: nguyên đơn và bị đơn
thống nhất:
Ngày 17/01/2000, hộ bà T được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số 00376 QSDĐ/40/QĐ-UB do Ủy ban nhân dân huyện (nay thành phố) Bến
Cát đối với diện tích 16,864m
2
thuộc các thửa 18, 35, 36, 53, tờ bản đồ số 16,
tọa lạc tại xã H, huyện B, tỉnh Bình Dương.
Ngày 25/4/2001, nguyên đơn T chuyển nhượng cho ông Đ theo
“Giấy bán đất ngày 25/4/2001” một phần thửa đất số 53, tờ bản đồ số 16. Hiện
nay, ông Đ người đang quản lý, sử dụng thửa đất trên; đồng thời, nguyên đơn
và bị đơn đều thống nhất không tranh chấp với ông Đ.
Đến năm 2023, nguyên đơn bà T thực hiện việc cấp đổi quyền sử dụng đất
như sau:
- Cấp đổi diện tích 92,8m² (thuộc 01 phần thửa đất số 18, tờ bản đồ số 16)
thành thửa đất số 1074, tờ bản đồ số 16, tọa lạc tại phường H, thành phố B, tỉnh
Bình Dương.
- Cấp đổi diện tích 5.911,2m² (thuộc phần còn lại thửa đất số 18, tờ bản
đồ số 16) thành thửa đất số 425, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại phường H, thành phố
T, tỉnh Bình Dương.
- Cấp đổi diện tích 3.313m² (trước đây thửa số 35, tờ bản đồ số 16)
thành thửa đất số 164, tbản đồ số 2, tọa lạc tại phường H, thành phố T, tỉnh
Bình Dương.
[4] Quá trình tố tụng tại cấp thẩm, nguyên đơn bđơn đều thống
nhất: các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất đang tranh
chấp đều được cấp và đứng tên hộ T. Nguyên đơn bà T cho rằng nguyên đơn
ông N (chết năm 1991) vchồng 01 người con chung bị đơn ông
D. Bị đơn ông D thừa nhận tình tiết trên nên đây tình tiết không phải chứng
minh quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại Công văn số 275/CATP-
QLHC ngày 24/9/2024 của Công an thành phố T (bút lục số 251) thì thời điểm
từ ngày 01/12/1985 hộ T, sinh năm 1946 làm chủ hộ gồm ông Phan Văn
9
D2, sinh năm 1979; như vậy, tại thời điểm các giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất được cấp cho hộ T gồm 02 người T (chủ hộ), ông D2 (con nuôi,
là thành viên hộ). Nguyên đơn bà T khởi kiện yêu cầu chia đôi tài sản tranh chấp
tài sản chung hộ gia đình, bị đơn không đồng ý đối với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn và cho rằng ông muốn giữ lại phần đất này để thờ cúng ông bà, chứ
không đồng ý chia. Tòa án cấp phúc thẩm xét thấy, do nguyên đơn bị đơn
hai thành viên duy nhất của hộ tại thời điểm được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với các thửa đất, nên cả hai người đều có quyền ngang nhau đối với
khối tài sản chung này và đều có quyền yêu cầu Tòa án phân chia tài sản đó theo
quy định của pháp luật. Việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chia đôi tài sản
tranh chấp việc thực hiện quyền hợp pháp của mình đối với tài sản chung của
hộ gia đình. Mặc dù, bị đơn không đồng ý chia đối với tài sản chung của hộ; tuy
nhiên, đây quyền yêu cầu chia tài sản chung của nguyên đơn. Đồng thời, tại
Tòa án cấp phúc thẩm, nguyên đơn bà T cho rằng bị đơn ông D2 không có chăm
sóc, phụng dưỡng cho T nên nguyên đơn đã chuyển sang nơi khác sinh sống,
không còn ở chung bị đơn khoảng 04 năm 07 tháng đến nay; nguyên đơn không
đồng ý với lời trình bày của bị đơn về việc bị đơn muốn tiếp tục phụng dưỡng
nguyên đơn không đồng ý chia. Do đó, Tòa án cấp thẩm chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn là đúng luật định.
[5] Nguyên đơn T chỉ yêu cầu chia đôi tài sản tranh chấp mỗi
người), không yêu cầu Tòa án xem xét nguồn gốc hay công sức đóng góp.
Các đương sự đã thống nhất về kết quả đo đạc và định giá tài sản. Tòa án cấp sơ
thẩm đã ghi nhận tổng giá trị quyền sử dụng đất và tài sản trên đất như sau:
- Thửa đất số 48, tờ bản đồ số 2 tọa lạc tại phường H, thành phố T:
21.272.739.100 đồng.
- Thửa đất số 164, tờ bản đồ số 2 tọa lạc tại phường H, thành phố T:
7.688.444.000 đồng.
- Thửa đất số 425, tờ bản đồ số 2 tọa lạc tại phường H, thành phố T:
13.710.000.000 đồng.
- Thửa đất số 1074, tbản đồ số 16 tọa lạc tại phường H, thành phố B:
104.380.000 đồng.
[6] Đối thửa đất số 48, hiện căn nhà do bđơn ông D2 đang trực tiếp
quản lý, sdụng sinh sống. Nguyên đơn T thống nhất để bị đơn ông D2
tiếp tục quản lý, sử dụng căn nhà này, một phần vì lý do thuận tiện cho việc thờ
cúng. Đối với thửa đất số 1074, sau khi cân đối giá trị phần đất nguyên đơn bà T
ông D2 nhận được tTòa án cấp thẩm giao phần đất trên cho ông D2
quản phần đất toàn bộ tài sản trên đất. Đối với thửa đất còn lại thửa 164
425, Tòa án cấp thẩm giao cho nguyên đơn T quyền quản lý, sử dụng
đối với phần quyền sử dụng đất còn lại và tài sản trên đất. Tòa án cấp phúc thẩm
xét thấy, việc phân chia tài sản tài sản chung của hgia đình tại cấp thẩm
phù hợp với nhu cầu sử dụng thực tế của đương sự nên có căn cứ chấp nhận.
10
[7] Về việc cân đối giá trị, Tòa án cấp thẩm xác định nguyên đơn T
nhận tài sản trị giá 21.398.444.000 đồng, còn bị đơn ông D2 nhận tài sản trị giá
21.377.119.100 đồng. Do phần tài sản nguyên đơn T nhận cao hơn
21.324.900 đồng, Tòa án thẩm buộc nguyên đơn T bồi hoàn cho bị đơn
ông D2 tiền chênh lệch là 10.662.450 đồng để đảm bảo công bằng là phù hợp.
[8] Xét yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đ:
tại Tòa án cấp sơ thẩm, ông Đ đề nghị Tòa án công nhận hiệu lực của Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo “Giấy bán đất ngày 25/4/2001” giữa ông
Đ và nguyên đơn bà T, đồng thời công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích
711.3m², thuộc thửa đất số 48, tờ bản đồ số 2, phường H, thành phố T. Tòa án
cấp phúc thẩm xét thấy, việc chuyển nhượng được lập thành văn bản; ông Đ đã
thanh toán đủ tiền, nhận đất quản lý, sử dụng liên tục, ổn định tnăm 2001
đến nay; nguyên đơn bà T và bị đơn ông D2 đều thừa nhận và thống nhất về việc
chuyển nhượng phần đất này cho ông Đ xác định không tranh chấp. Do đó,
Tòa án cấp thẩm chấp nhận yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất trên
căn cứ.
[9] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình
Dương, Tòa án cấp phúc thẩm nhận thấy:
[9.1] Giữa nguyên đơn bà T và bị đơn ông D2 hiện đang tranh chấp về tài
sản chung của hộ gia đình, cụ thể tài sản họ đang quản lý, sử dụng trên
thực tế. Cả nguyên đơn bị đơn đều thống nhất sử dụng kết quả đo đạc thực tế
để làm cơ sở yêu cầu Tòa án phân chia, không tranh chấp về nguồn gốc phần dôi
dư này với nhau. Căn cứ vào Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án cấp sơ thẩm
không xem xét, giải quyết tôn trọng nguyên tắc tự định đoạt của đương sự,
đúng luật định.
[9.2] Tại cấp thẩm, Tòa án đã tiến hành xác minh tại Ủy ban nhân dân
phường H ngày 19/11/2024 (bút lục số 265) làm rõ đất không có tranh chấp. Tòa
án cấp phúc thẩm nhận thấy, việc đưa Ủy ban nhân dân thành phố T, tỉnh Bình
Dương vào tham gia vụ án với tư cách tố tụng người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong vụ án không cần thiết, làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án,
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
[9.3] Nđã phân tích tại tiểu mục [8], việc công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho ông Đ căn cứ vững chắc: bởi lẽ, các đương
sự thừa nhận và thống nhất về việc nguyên đơn T đã chuyển nhượng quyền
sử dụng đất cho ông Đ, đã nhận đủ tiền, đã giao đất, ông Đ sử dụng ổn định từ
năm 2001 đến nay, ông Đ yêu cầu Tòa án công nhận hiệu lực của hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nguyên đơn và bị đơn không yêu cầu Tòa án
tuyên hiệu do vi phạm hình thức, việc chuyển nhượng không vi phạm điều
cấm của pháp luật đất đai. Cho nên, Tòa án cấp thẩm công nhận quyền sử
dụng đất diện tích 711.3m² cho ông Đ là phù hợp, đúng tinh thần của Nghị quyết
số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán a án nhân
dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự,
hôn nhân và gia đình.
11
[10] Như vậy, Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát
nhân dân tỉnh Bình Dương là không có căn cứ chấp nhận.
[11] Bị đơn ông D2 kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ
chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình nên kháng cáo không được chấp
nhận.
[12] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tại
phiên tòa là không phù hợp nên không chấp nhận.
[13] Về án phí dân sự phúc thẩm: người kháng cáo phải chịu theo luật
định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ Điều 148; Điều 296, khoản 1 Điều 308; Điều 313 Bộ luật Tố
tụng dân sự.
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐKN-
VKS-DS ngày 23/12/2024 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình
Dương.
2. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Phạm Văn D.
3. Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 237/2024/DS-ST ngày
25/11/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
4. Về án phí dân sự phúc thẩm: bị đơn ông Phạm Văn D phải chịu số tiền
300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba
trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tm ng án phí, l phí
Tòa án 0008725 ngày 11 tháng 12 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành ph Th Du Mt;
- TAND thành ph Th Du Mt;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Hoàng Vương
12
Tải về
Bản án số 250/2025/DS-PT Bản án số 250/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 250/2025/DS-PT Bản án số 250/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất