Bản án số 261/2025/DS-PT ngày 06/05/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 261/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 261/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 261/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 261/2025/DS-PT ngày 06/05/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 261/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 06/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Chí T. 2. Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 68/2023/DS-ST ngày 08 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 261/2025/DS-PT
Ngày 06 - 5 -2025
V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và đòi tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Sỹ Trứ
Các Thẩm phán: Bà Huỳnh Thị Thanh Tuyền
Ông Nguyễn Trung Dũng
- Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Hồng Thái – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa: Bà
Trần Thị Phước – Kiểm sát viên.
Ngày 06 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 380/2023/TLPT-DS ngày 19 tháng 10 năm
2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và đòi tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 68/2023/DS-ST ngày 08 tháng 8 năm 2023 của Tòa
án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 363/2023/QĐ-PT ngày
26/10/2023 và Thông báo mở lại phiên tòa số 19/2025/TB-TA ngày 19 tháng 3 năm
2025 và Thông báo mở lại phiên tòa số 28/2025/TB-TA ngày 15 tháng 4 năm 2025, giữa
các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Hồ Văn H, sinh năm 1967; địa chỉ: tổ C, khu phố E, phường
U, thành phố T, tỉnh Bình Dương; tạm trú: Nhà nghỉ T2, thửa đất số 140, tờ bản đồ số
42 thuộc tổ C, khu phố E, phường U, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có đơn yêu cầu
vắng mặt.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Chí T, sinh năm 1964; địa chỉ: tổ B, ấp A, xã T, huyện C,
Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Huỳnh Thanh X, là
Luật sư Công ty L thuộc Đoàn Luật sư tỉnh B, có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Trần Thị D, sinh năm 1965; địa chỉ: tổ B, ấp A, xã T, huyện C, Thành phố
Hồ Chí Minh, có yêu cầu vắng mặt.
2
2. Ông Đỗ Thanh S, sinh năm 1961; địa chỉ: số A đường Đ, phường T, thành phố
T, Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt.
3. Bà Nguyễn Thảo N, sinh năm 1989; địa chỉ: tổ B, ấp A, xã T, huyện C, Thành
phố Hồ Chí Minh, có yêu cầu vắng mặt.
4. Văn phòng C2 (nay là Văn phòng C3); địa chỉ: A Đại lộ B, khu phố D, phường
H, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Người đại diện hợp pháp theo pháp luật: Ông Nguyễn
Văn H1, chức vụ: Trưởng Văn phòng, có yêu cầu xét xử vắng mặt.
5. Ông Trần Xuân C, sinh năm 1958; địa chỉ: tổ E, khu phố E, phường U, thành
phố T, tỉnh Bình Dương, có yêu cầu xét xử vắng mặt.
6. Bà Huỳnh Thị Xuân T1, sinh năm 1975, địa chỉ: 1 khu phố K, phường T, thành
phố T, tỉnh Bình Dương, có mặt.
- Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Chí T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung bản án sơ thẩm:
Theo đơn khởi kiện nộp tại Tòa án ngày 02/4/2019, các lời khai trong quá trình
giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, ông Nguyễn Chí T trình bày:
Ông Nguyễn Chí T là chủ sử dụng phần đất có diện tích 1.386,6m
2
thuộc thửa
đất số 1647, tờ bản đồ số 42 tại khu phố E, phường U, thị xã (nay là thành phố ), tỉnh
Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS05312 do Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 22/3/2017. Nguồn gốc phần đất này là do ông T
nhận chuyển nhượng vào năm 2012 và được Ủy ban nhân dân huyện (nay là thành phố)
Tân Uyên cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CH01522 ngày 02/10/2012.
Ngày 22/3/2017, sau khi làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà
Bùi Thị Tuyết P thì Chi nhánh Văn phòng Đ (nay là thành phố) Tân Uyên đã thu hồi
bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH01522 nêu trên và đề nghị Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh B cấp mới lại cho ông T diện tích đất còn lại là 1.386,6m
2
thuộc thửa đất số 1647 (thửa mới tách ra từ thửa 140), tờ bản đồ số 42 tại khu phố E,
phường U theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS05312 nêu trên.
Sau đó ông T phát hiện ông Hồ Văn H (tên thường gọi là H2) chiếm dụng trái
pháp luật 36 căn nhà nghỉ và phần đất có diện tích 1.386,6m
2
thuộc thửa đất số 1647 của
ông T. Ông T hoàn toàn không chuyển nhượng hay tặng cho gì tài sản này cho ông H.
Sau nhiều lần yêu cầu nhưng ông H vẫn không trả lại tài sản cho ông T nên ông T đã
làm đơn yêu cầu Ủy ban nhân dân phường U hòa giải, việc hòa giải không tiến hành
được do ông H không đến làm việc. Nhận thấy hành vi của ông H là trái pháp luật, xâm
phạm quyền và lợi ích hợp pháp của ông T nên ông T khởi kiện đến Tòa án yêu cầu ông
Hồ văn H phải trả lại cho ông Nguyễn Chí T phần đất diện tích 1.386,6m
2
thuộc thửa
đất số 1647, tờ bản đồ số 42 tại khu phố E, phường U, thành phố T, tỉnh Bình Dương
cùng tài sản trên đất là 36 căn phòng của nhà nghỉ.
Sau khi đo đạc, diện tích đất thực tế có thay đổi theo hướng giảm so với yêu cầu
khởi kiện nên nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện cụ thể là buộc ông Hồ Văn H phải
trả lại cho ông Nguyễn Chí T diện tích đất đo đạc thực tế theo bản vẽ ngày 10/2/2020
của Chi nhánh Văn phòng Đ (nay là thành phố) Tân Uyên là 1.381,3m
2
thuộc thửa đất
số 1647, tờ bản đồ số 42 tại khu phố E, phường U, thành phố T, tỉnh Bình Dương và tài
3
sản gắn liền với đất là 36 căn nhà nghỉ với diện tích là 424,9m
2
và các công trình phụ
gồm: nhà ở 74,2m
2
, sân bê tông 831,9m
2
, mái che 49,5m
2
, trụ cổng chính 0,8m
2
. Ông T
xác định chỉ tranh chấp với ông H về việc đòi lại tài sản bị chiếm giữ, không xác định
mối quan hệ tranh chấp nào khác.
Ngày 15/3/2022, ông Nguyễn Chí T có đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện.
- Tại đơn phản tố ngày 26/02/2020, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án
và tại phiên tòa sơ thẩm, ông Hồ Văn H trình bày:
Ông Hồ Văn H có nhu cầu nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên thông
qua ông Trần Xuân C, ông H biết ông Đỗ Thanh S có chuyển nhượng quyền sử dụng
đất nên ông H đã gặp và trao đổi với ông S. Ông S cho ông H xem thửa đất cùng các
giấy tờ liên quan, lúc này thửa đất 140, tờ bản đồ số 42 đứng tên ông Nguyễn Chí T
nhưng ông T đã ủy quyền bằng hợp đồng ủy quyền ngày 03/8/2013 cho ông Đỗ Thanh
S toàn quyền chuyển nhượng đối với thửa đất nêu trên và giấy ủy quyền của bà Nguyễn
Thảo N về việc ủy quyền cho ông S toàn quyền quyết định về tài sản đang kinh doanh
nhà nghỉ trên đất. Ông S cũng đưa bản chính hợp đồng ủy quyền cho ông H kiểm tra
nên ông H đồng ý nhận chuyển nhượng.
Sau khi tìm hiểu về tình trạng diện tích đất nhận chuyển nhượng, ông H đồng ý
nhận chuyển nhượng diện tích đất là 2.300m
2
cùng với căn nhà đang kinh doanh nhà
nghỉ, có 26 phòng xây thô trên đất với giá là 1.800.000.000 đồng, tuy nhiên do ông C
không lấy tiền môi giới nên ông H đồng ý giá ông C kê lên để lấy tiền chênh lệch là
300.000.000 đồng, tổng giá trị đất chuyển nhượng là 2.100.000.000 đồng, trong đó giá
ông S bán cho ông H là 1.800.000.000 đồng, còn 300.000.000 đồng ông C lấy (đây là
tiền chênh lệch do ông C môi giới). Thực hiện hợp đồng, ông S và ông H ký thỏa thuận
đặt cọc theo “Giấy nhận tiền đặt cọc và chuyển nhượng quyền sử dụng đất” lập ngày
04/8/2013, việc chuyển nhượng được thanh toán thành 03 lần: lần 1 vào ngày 05/8/2013
nhận cọc 100.000.000 đồng, lần 2 nhận 700.000.000 đồng, lần 3 sau khi lập thủ tục
chuyển nhượng tại phòng công chứng thì thanh toán hết số tiền còn lại là 1.000.000.000
đồng. Ông H đã đặt cọc cho ông S số tiền 100.000.000 đồng theo giấy nhận tiền cọc
ngày 04/8/2013 và 700.000.000 đồng theo giấy nhận cọc ngày 06/8/2013; thanh toán
cho ông C 80.000.000 đồng theo biên nhận giao nhận ngày 05/8/2013; thanh toán
5.000.000 đồng theo biên nhận ngày 05/11/2013.
Ngoài ra, theo nội dung thỏa thuận đặt cọc, hai bên sẽ bàn giao tài sản khi nhận
cọc lần thứ 2, vì vậy ngày 06/8/2013, ông S lập biên bản bàn giao đất và toàn bộ tài sản
trên đất cho ông H, theo nội dung biên bản này, ông S đã bàn giao tài sản trên đất cho
ông H bao gồm: 26 căn nhà nghỉ xây thô chưa hoàn thiện; 81m
2
nhà trệt xây thô, lầu nhà
nuôi yến; hàng rào đã bị sạt đổ chiều dài 12m, có hai cổng, sân đổ chưa hết, không điện
nước; cửa đang sơn gia công chưa lấy nên chủ cơ sở đem bán nên ông Hai C1 lại
26.000.000 đồng; bàn giao cho ông H sử dụng được quyền sử dụng và hoàn thiện công
trình và bảo quản tài sản này là của ông H; biên bản bàn giao này không xác định diện
tích cụ thể nhưng nội dung là bàn giao tài sản theo biên bản đặt cọc.
Sau khi thanh toán, hai bên tiến hành đo đạc tách thửa nhưng ông S không thực
hiện được, ông H không biết lý do cụ thể mà chỉ nghe ông S nói lại là do chính quyền
địa phương nghi vấn phân lô bán nền, Ủy ban nhân dân phường U và Ủy ban nhân dân
thị xã (nay là thành phố) Tân Uyên không cho tách thửa và có thông báo bằng Bảng cấm
phân lô bán nền cho toàn bộ thửa đất. Sự việc kéo dài cho đến nay ông S cũng không
liên lạc với ông H để giải quyết vấn đề. Ông H nhận đất, tài sản trên đất sử dụng đến
4
nay không ai có ý kiến gì. Sau khi nhận quyền sử dụng đất và tài sản trên đất, ông H tiến
hành xây dựng hoàn thiện những căn nhà nghỉ và nhà ở trên đất như hiện trạng hiện nay,
chi phí hoàn thiện công trình khoảng gần 4.000.000.000 đồng, ông H không ký hợp đồng
xây dựng mà chỉ thuê thợ làm công, ông H tự mua vật tư nhưng thời gian lâu nên không
còn lưu giữ hóa đơn chứng từ, việc thi công và hoàn thiện trong năm 2013.
Ông H không đồng ý với yêu cầu kiện của nguyên đơn, đồng thời có yêu cầu
phản tố yêu cầu công nhận cho ông H được quyền sử dụng diện tích đất 1.381,3m
2
theo
hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng đất giữa ông H và ông S thuộc thửa đất số 1647, tờ
bản đồ số 42 tại khu phố E, phường U, thành phố T, tỉnh Bình Dương và tài sản gắn liền
với đất là 26 căn nhà nghỉ với diện tích là 424,9m
2
, và các công trình phụ gồm: nhà ở
74,2m
2
, sân bê tông 831,9m
2
, mái che 49,5m
2
, trụ cổng chính 0,8m
2
. Đây là diện tích
đất tương ứng với số tiền ông H thanh toán cho ông S. Ông H vẫn giữ nguyên yêu cầu
phản tố.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị D trình bày: Bà D thống
nhất ý kiến trình bày của ông Nguyễn Chí T, không bổ sung gì thêm và có đơn yêu cầu
giải quyết vụ án vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Thanh S trình bày: Tháng
8/2013, ông S nhận chuyển nhượng thửa đất số 140, tờ bản đồ số 42 tại phường U từ
ông Nguyễn Chí T và bà Trần Thị D; do ông T đã xây dựng công trình trái phép trên đất
nên không làm thủ tục sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được mà phải lập
hợp đồng ủy quyền. Sau đó, ông S đã ký hợp đồng cam kết chuyển nhượng một phần
thửa đất nêu trên được xây riêng biệt nhà nghỉ T2 1 cho ông Hồ Văn H với giá
1.800.000.000 đồng, ông H đã thanh toán 800.000.000 đồng và cam kết khi tách thửa sẽ
thanh toán số tiền còn lại cho ông S tương ứng với diện tích đất còn lại.
Khi ông S giao dịch với ông T thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa
đất nêu trên đang thế chấp vay Ngân hàng N1 - Chi nhánh T3. Ông S đã trực tiếp thanh
toán cho ngân hàng 2.100.000.000 đồng để lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ra
và thanh toán cho ông T 3.600.000.000 đồng.
Việc chuyển nhượng giữa ông S và ông H là hợp pháp, trong thời gian hợp đồng
ủy quyền giữa ông T với ông S có hiệu lực, do việc tách thửa có nhiều khó khăn nên đến
nay ông H chưa thanh toán đủ tiền cho ông S. Ông S nhận thấy việc ông T tranh chấp
với ông H là không đúng. Do thời gian kéo dài không tách thửa được, năm 2017 ông T
hứa sẽ thực hiện thủ tục giấy tờ cho ông S nên ông S đã giao lại bản chính giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho ông T có sự chứng kiến của ông Trần Xuân C nhưng ông T
không thực hiện đúng lời hứa mà lại chuyển nhượng một phần thửa đất nêu trên cho
người khác. Ông S yêu cầu Tòa án chấp nhận thỏa thuận giao dịch chuyển nhượng giữa
ông S với ông H và có đơn yêu cầu giải quyết vụ án vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thảo N trình bày: Bà N
thống nhất ý kiến trình bày của ông Nguyễn Chí T, không bổ sung gì thêm, không có
yêu cầu độc lập trong vụ án này và có đơn yêu cầu giải quyết vụ án vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Xuân C trình bày: Tháng
8/2013, ông C môi giới cho ông S chuyển nhượng quyền sử dụng đất hơn 2.000m
2
đất
cùng 26 căn nhà nghỉ chưa hoàn thiện, một nhà nuôi yến cho ông H với giá
1.800.000.000 đồng. Ông H đã thanh toán 800.000 đồng, số tiền còn lại ông H sẽ thanh
toán khi nào hai bên làm thủ tục tách thửa. Ông C không rõ việc chuyển nhượng giữa
5
ông T với ông S. Ngoài ra, ông C có chứng kiến ông S trả tiền cho Ngân hàng N1 - Chi
nhánh T3 để lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông T ra giao cho ông S giữ.
Sau đó một thời gian dài không làm thủ tục được nên ông S giao lại bản chính giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T để làm thủ tục tách thửa nhưng ông T không
thực hiện mà lại chuyển nhượng hơn 1.000m
2
đất cho người khác. Ông C đề nghị giải
quyết vụ án theo quy định pháp luật và có đơn yêu cầu giải quyết vụ án vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng Công chứng Sở Sao trình
bày tại Công văn số 265/VPCCSS ngày 27/5/2020: Ngày 03/8/2013, Công chứng viên
Văn phòng C2 có chứng nhận Hợp đồng ủy quyền số 006572, quyển số 07TP/CC-
SCC/HĐGD. Ngày 08/12/2016, công chứng viên Văn phòng C2 có chứng nhận: Hợp
đồng hủy bỏ Hợp đồng ủy quyền số 006572 nêu trên theo số công chứng 011925, quyển
số 12TP/CC-SCC/HĐGD và Hợp đồng ủy quyền số 011926, quyển số 12TP/CC-
SCC/HĐGD. Công chứng viên đã tiến hành kiểm tra thành phần hồ sơ yêu cầu công
chứng và xét thấy hồ sơ của ông Nguyễn Chí T cung cấp là đầy đủ, hợp pháp nên tiếp
nhận và tiến hành thụ lý hồ sơ đúng quy định pháp luật. Thông qua việc ghi nhận nội
dung thỏa thuận, công chứng viên xác định ông Nguyễn Chí T, bà Trần Thị D, ông Đỗ
Thanh S, ông Trần Xuân C có năng lực hành vi dân sự phù hợp quy định pháp luật, việc
giao kết hoàn toàn tự nguyện, minh mẫn, sáng suốt, không có dấu hiệu bị đe dọa, cưỡng
ép. Nội dung, mục đích thỏa thuận của các bên không vi phạm pháp luật, không trái đạo
đức xã hội; công chứng viên đã giải thích quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp cho các
bên, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc giao kết hợp đồng; hợp đồng được soạn thảo
theo thỏa thuận của các bên, các bên đã đọc lại nội dung hợp đồng và đồng ý điểm chỉ,
ký tên vào hợp đồng trước mặt công chứng viên ngay tại Văn phòng Công chứng Sở
Sao. Tại thời điểm công chứng, Văn phòng C2 không nhận được bất kỳ văn bản nào của
cơ quan có thẩm quyền đề nghị ngăn chặn hoặc tạm đình chỉ thực hiện các quyền của
người sử dụng đất và tài sản, do đó tài sản đủ điều kiện giao dịch theo quy định pháp
luật. Công chứng viên đã thực hiện việc công chứng các hợp đồng nêu trên đúng trình
tự, thủ tục theo quy định pháp luật. Đối với yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Chí T,
Văn phòng C2 đề nghị Tòa án căn cứ các quy định của pháp luật để giải quyết.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 68/2023/DS-ST ngày 08 tháng 8 năm 2023 của Tòa
án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hồ Văn H đối với bị đơn
ông Nguyễn Chí T về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
như sau:
1.1 Công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với nội
dung tại “Giấy nhận tiền đặt cọc v/v đặt cọc và chuyển nhượng đất” ngày 04/8/2013
giữa ông Đỗ Thanh S (người được ủy quyền) và ông Hồ Văn H về việc chuyển nhượng
quyền sử dụng diện tích đất 1.381,3m
2
là một phần của thửa đất số 140, tờ bản đồ số 42
tại khu phố E, phường U, thị xã (nay là thành phố ), tỉnh Bình Dương (nay là thửa đất
số 1647, tờ bản đồ 42 tại khu phố E, phường U, thị xã (nay là thành phố ), tỉnh Bình
Dương) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS05312 do Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh B cấp cho ông Nguyễn Chí T ngày 22/3/2017.
1.2 Ông Hồ Văn H được quyền sử dụng diện tích đất 1.381,3m
2
là một phần của
thửa đất số 140, tờ bản đồ số 42 tại khu phố E, phường U, thị xã (nay là thành phố ),
tỉnh Bình Dương (nay là thửa đất số 1647, tờ bản đồ 42 tại khu phố E, phường U, thị xã
(nay là thành phố ), tỉnh Bình Dương) và được sở hữu các tài sản trên đất gồm: Nhà ở
6
diện tích: 74,2m
2
; nhà nghỉ D1: 295,2m
2
; mái che, nền bê tông diện tích: 403,7m
2
; sân
bê tông diện tích 134,4m
2
; nhà tiền chế nền bê tông diện tích 473m
2
; trụ cổng diện tích
0,8m
2
(ký hiệu A trên sơ đồ bản vẽ kèm theo).
1.3 Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn ông Hồ Văn H về việc ông H có trách
nhiệm chịu các khoản thuế liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
theo quy định của pháp luật.
1.4 Ông Hồ Văn H được quyền thực hiện các thủ tục để được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất nhận chuyển nhượng diện tích đo đạc thực tế
1.381,3m
2
thuộc thửa đất số 1647, tờ bản đồ 42 tại khu phố E, phường U, thị xã (nay là
thành phố ), tỉnh Bình Dương sau khi thực hiện xong nghĩa vụ các khoản thuế liên quan
đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số vào sổ CS05312 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp cho ông
Nguyễn Chí T ngày 22/3/2017 để điều chỉnh cấp lại cho ông Hồ Văn H theo quy định
pháp luật.
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Chí T đối với ông Hồ Văn H về
việc đòi tài sản là diện tích đất 1.381,3m
2
thuộc thửa đất số 1647, tờ bản đồ 42 tại khu
phố E, phường U, thị xã (nay là thành phố ), tỉnh Bình Dương và các tài sản trên đất.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo
của các đương sự.
Sau khi có bản án sơ thẩm, ngày 14/8/2023 bị đơn ông Nguyễn Chí T có đơn
kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Thanh
S xác định quyền sử dụng đất tranh chấp diện tích đất 1.381,3m
2
thuộc thửa đất số 1647,
tờ bản đồ 42 tại khu phố E, phường U, thị xã (nay là thành phố ), tỉnh Bình Dương và
các tài sản trên đất có nguồn gốc là ông S nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Chí T
dưới hình thức ủy quyền toàn phần. Ông S đã giao trả hết tiền cho ông T. Ngày
04/8/2013, ông S chuyển nhượng cho ông H một phần đất diện tích 2.300m
2
với giá
1.800.000.000 đồng. Ông H đã giao cho ông S 800.000.000 đồng, ông S đã giao cho
ông H quản lý đất và tài sản gắn liền với đất từ năm 2013 và thỏa thuận sau khi lập thủ
tục chuyển nhượng tại phòng công chứng thì thanh toán hết số tiền còn lại là
1.000.000.000 đồng. Tuy nhiên, do tài sản xây dựng không phép nên chưa tiến hành thủ
tục tách thửa được, hiện nay ông H chỉ quản lý diện tích đất 1.381,3m
2
và tài sản trên
đất; phần diện tích hơn 1.000m
2
là đất trống thì ông S và ông T đã tách thành thửa khác
và đã chuyển nhượng cho người khác. Ông S yêu cầu hủy bản án sơ thẩm để làm rõ
trách nhiệm của các bên.
Quá trình tố tụng tại cấp phúc thẩm bị đơn ông Nguyễn Chí T có đơn yêu cầu
trưng cầu giám định chữ ký ông T trong bản thỏa thuận giữa ông T, ông S và ông H
ngày 05/4/2017, yêu cầu định giá lại tài sản là quyền sử dụng đất nhưng không nộp tạm
ứng chi phí tố tụng.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày: Theo thỏa thuận
thì ông S chỉ nhận đặt cọc của ông H số tiền 800.000.000 đồng để nhận chuyển nhượng
diện tích đất 2.300m
2
, không có căn cứ đây là tiền chuyển nhượng diện tích đất
1.381,3m
2
như nhận định tại Bản án sơ thẩm. Mặt khác, Giấy chứng nhận quyền sử dụng
7
đất số vào sổ CS05312 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp cho ông Nguyễn
Chí T đã được ông Hồ Văn H cầm cố cho bà T1 để vay 2.500.000.000 đồng nhưng Tòa
án sơ thẩm không đưa bà T1 tham gia tố tụng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
nên đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm.
Tại cấp phúc thẩm, bà Huỳnh Thị Xuân T1 nộp đơn yêu cầu ngăn chặn việc cấp
giấy chứng nhận quyền sửa đất mới và yêu cầu được tham gia tố tụng với lý do Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS05312 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
B cấp cho ông Nguyễn Chí T ngày 22/3/2017 đã được ông Hồ Văn H cầm cố cho bà T1
để vay 2.500.000.000 đồng.
Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng tại Tòa án cấp
phúc thẩm đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện, ông Nguyễn Chí T, bà
Trần Thị D ủy quyền toàn phần cho ông Đỗ Thanh S toàn bộ diện tích đất thửa 140, tờ
bản đồ số 42 tọa lạc tại khu phố E, phường U, thành phố T, tỉnh Bình Dương do Ủy ban
nhân dân huyện (nay là thành phố) Tân Uyên cấp cho ông Nguyễn Chí T ngày
02/10/2012 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH01522; bà Nguyễn Thảo N
ủy quyền cho ông S quản lý Nhà nghỉ T2 tọa lạc trên khu đất. Trên sơ sở ủy quyền này,
ông S đã chuyển nhượng cho ông H diện tích đất 2.300m
2
với giá 1.800.000.000 đồng,
việc chuyển nhượng bằng “Giấy nhận tiền đặt cọc v/v đặt cọc và chuyển nhượng đất”.
Ông H đã thanh toán cho ông S 800.000.000 đồng và quản lý diện tích đất 1.381,3m
2
và
tài sản gắn liền với đất từ năm 2013. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm công nhận hợp đồng là
đúng quy định của pháp luật. Ông T kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ
chứng minh. Tại cấp phúc thẩm, bà Huỳnh Thị Xuân T1 cho rằng năm 2021, ông H có
vay bà T1 2.500.000.000 đồng và có cầm cố Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào
sổ CS05312 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp cho ông Nguyễn Chí T, xét
giao dịch vay này không liên quan đến việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
H và ông T, nếu có tranh chấp thì giải quyết ở vụ án khác. Kiểm sát viên đề nghị Hội
đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm
tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của đương sự,
ý kiến của Kiểm sát viên,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Bị đơn ông Nguyễn Chí T kháng cáo trong thời hạn luật định nên Tòa án
nhân dân tỉnh Bình Dương thụ lý theo quy định của pháp luật.
[1.2] Nguyên đơn ông Hồ Văn H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần
Thị D, bà Nguyễn Thảo N, ông Trần Xuân C, Văn phòng C2 (nay là Văn phòng C3) có
yêu cầu vắng mặt, nên căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt
họ.
[1.3] Ông Nguyễn Chí T khởi kiện ông Hồ Văn H về việc yêu cầu ông H trả lại
quyền sử dụng đất diện tích là 1.381,3m
2
thuộc thửa đất số 1647, tờ bản đồ số 42 tọa lạc
tại khu phố E, phường U, thị xã (nay là thành phố ), tỉnh Bình Dương. Ông Hồ Văn H
8
có yêu cầu phản tố yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
ông Nguyễn Chí T (ủy quyền cho ông Đỗ Thanh S) và ông Hồ Văn H ngày 04/8/2013.
Ngày 15/3/2022, nguyên đơn Nguyễn Chí T có đơn xin rút yêu cầu khởi kiện về việc
tranh chấp quyền sử dụng đất và đòi tài sản đối với bị đơn ông Hồ Văn H. Ông Hồ Văn
H vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố nên Toà án cấp sơ thẩm ban hành Thông báo số
19/TB-TLVA ngày 17/3/2022 về việc thay đổi địa vị tố tụng, xác định nguyên đơn ông
Hồ Văn H, bị đơn ông Nguyễn Chí T và đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu đã rút
của ông Nguyễn Chí T là đúng quy định của pháp luật.
[1.4] Tại cấp phúc thẩm, bị đơn ông Nguyễn Chí T có đơn yêu cầu trưng cầu
giám định chữ ký ông T trong bản thỏa thuận giữa ông T, ông S và ông H ngày
05/4/2017, yêu cầu định giá lại tài sản tranh chấp là nguyền sử dụng đất nhưng không
nộp tạm ứng chi phí tố tụng là từ bỏ nghĩa vụ chứng minh nên Hội đồng xét xử không
có căn cứ chấp nhận yêu cầu của ông T.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Quyền sử dụng đất diện tích đo đạc thực tế 1.381,3m
2
(theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là 1.386,6m
2
) thuộc một phần của thửa đất số 140, tờ bản đồ số 42
tọa lạc tại khu phố E, phường U, thành phố T, tỉnh Bình Dương do Ủy ban nhân dân
huyện (nay là thành phố) Tân Uyên cấp cho ông Nguyễn Chí T ngày 02/10/2012 theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH01522. Tài sản gắn liền với đất là Cơ sở kinh
doanh nhà nghỉ T2 gồm 26 phòng với diện tích là 424,9m
2
và các công trình phụ gồm:
nhà ở 74,2m
2
, sân bê tông 831,9m
2
, mái che 49,5m
2
, trụ cổng chính 0,8m
2
do hộ kinh
doanh bà Nguyễn Thảo N đứng tên kinh doanh theo Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh
doanh số 46E80136132 do Ủy ban nhân dân huyện (nay là thành phố) Tân Uyên cấp
ngày 25/10/2012. Phần đất tranh chấp và tài sản trên đất hiện tại do ông Hồ Văn H quản
lý, sử dụng. Ông H cho rằng phần đất tranh chấp và tài sản trên đất là của ông H nhận
chuyển nhượng của ông Nguyễn Chí T (ông Nguyễn Chí T ủy quyền cho ông Đỗ Thanh
S thực hiện) theo “Giấy nhận tiền đặt cọc v/v đặt cọc và chuyển nhượng đất” ngày
04/8/2013, “biên bản bàn giao tài sản” ngày 06/8/2013. Ông Hồ Văn H yêu cầu công
nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và công nhận quyền sở
hữu tài sản trên đất. Bị đơn ông Nguyễn Chí T không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn vì cho rằng, hợp đồng ủy quyền giữa ông T và ông S chỉ để đảm bảo cho
việc vay tiền nên ông T không đồng ý việc ông S chuyển nhượng đất cho ông H.
[2.2] Theo tài liệu chứng cứ trong hồ sơ thể hiện: Ngày 03/8/2013, ông Nguyễn
Chí T và vợ là bà Trần Thị D ký hợp đồng ủy quyền toàn phần cho ông Đỗ Thanh S
được toàn quyền định đoạt quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đối với diện
tích đất 8.098m
2
thuộc thửa 140, tờ bản đồ 42 tọa lạc tại thị trấn U, huyện T (nay là
phường U, thành phố T) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở
và tài sản gắn liền với đất số 263506, số vào sổ CH01522 do Ủy ban nhân dân huyện T
cấp ngày 02/10/2012, hợp đồng ủy quyền được Văn phòng C2; cùng ngày 03/8/2013,
bà Nguyễn Thảo N là chủ Cơ sở kinh doanh nhà nghỉ T2 tọa lạc trên thửa đất trên ký
hợp đồng ủy quyền toàn phần cho ông Đỗ Thanh S được toàn quyền định đoạt Cơ sở
kinh doanh nhà nghỉ T2, hợp đồng ủy quyền được Văn phòng C2 ngày 03/8/2013.
Ngày 04/8/2013, ông Đỗ Thanh S nhân danh đại diện cho ông Nguyễn Chí T và
bà Trần Thị D, bà Nguyễn Thảo N chuyển nhượng cho ông Hồ Văn H diện tích đất
khoảng 2.300m
2
là một phần của thửa đất số 140, tờ bản đồ 42 theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số CH01522 và tài sản trên đất gồm 26 phòng nghỉ xây thô, 01 nhà
9
quản lý ở dưới, ở trên nuôi yến, hàng rào xung quanh sạt đổ 12m; sân cán bê tông 30%
của sân, không điện…, việc chuyển nhượng có làm văn bản là “Giấy nhận tiền đặt cọc
v/v đặt cọc và chuyển nhượng đất” ghi ngày 04/8/2013. Các bên có thỏa thuận: việc bàn
giao tài sản sau khi chồng tiền lần 2 và ông Hồ Văn H được tiếp tục xây dựng để hoàn
thiện công trình và sử dụng kể từ ngày bàn giao.
Ngày 04/8/2013, ông H đã thanh toán cho ông S số tiền 100.000.000 đồng; ngày
06/8/2013, ông H thanh toán tiếp 700.000.000 đồng.
Ngày 06/8/2013, ông S lập biên bản bàn giao tài sản cho ông Hồ Văn H gồm: 26
căn nhà nghỉ xây thô chưa hoàn thiện, chưa có cửa; 81m
2
nhà trệt xây thô, lầu nhà nuôi
yến; hàng bao bao quanh, bị sạt đổ 12m, có 02 cổng sân chưa đổ hết, không điện nước;
ông H bỏ tiền lấy cửa là 26.000.000 đồng. Sau khi nhận bàn giao tài sản, ông H tiến
hành sửa chữa, hoàn thiện nhà nghỉ, các công trình phụ để kinh doanh. Năm 2020, do
nhà nghỉ kinh doanh không hiệu quả, ông H tháo dỡ 08 phòng diện tích 129,7m
2
để xây
dựng lại nhà kho và sửa chữa lại một số hạng mục khác. Theo Mảnh trích lục địa chính
có đo đạc chỉnh lý số 401 ngày 23/5/2022 của Chi nhánh Văn phòng Đ (nay là thành
phố) T, diện tích cụ thể các công trình xây dựng trên diện tích đất tranh chấp như sau:
nhà ở diện tích: 74,2m
2
; nhà nghỉ D1: 295,2m
2
; mái che, nền bê tông diện tích: 403,7m
2
;
sân bê tông diện tích 134,4m
2
; nhà tiền chế, nền bê tông diện tích 473m
2
; trụ cổng diện
tích 0,8m
2
. Theo Chứng thư thẩm định giá số 11/2023/BDV-CT ngày 01/3/2023 của
Công ty Cổ phần T4 thì giá trị lắp đặt thiết bị, sửa chữa hoàn thiện các công trình nhà
nghỉ là 456.507.000 đồng.
Bản án sơ thẩm nhận định cho rằng, theo thỏa thuận chuyển nhượng giữa ông Đỗ
Thanh S và ông Hồ Văn H thì diện tích đất chuyển nhượng là 2.300m
2
với giá
1.800.000.000 đồng, tương ứng với 782.608 đồng/m
2
, ông H đã thanh toán 800.000.000
đồng, tương ứng với 1.022m
2
, diện tích đất ông H đang quản lý sử dụng có diện tích đo
đạc thực tế là 1.381,3m
2
, số tiền chưa thanh toán tương ứng với diện tích 359,3m
2
(1.381,3m
2
– 1.022m
2
). Giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông H và ông
T (do ông S đại diện) được lập thành văn bản, mặc dù chưa được công chứng, chứng
thực, tuy nhiên thực tế ông S (đại diện ông T) đã nhận trên 2/3 số tiền chuyển nhượng
đất và ông H đã nhận đất sử dụng ổn định từ năm 2013 đến nay nên Tòa án cấp sơ thẩm
công nhận hiệu lực của hợp đồng theo khoản 1 Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 đối
với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với nội dung tại “Giấy nhận tiền đặt
cọc v/v đặt cọc và chuyển nhượng đất” ngày 04/8/2013 giữa ông Đỗ Thanh S (người
được ủy quyền) và ông Hồ Văn H đối với quyền sử dụng diện tích đất 1.381,3m
2
là một
phần của thửa đất số 140, tờ bản đồ số 42 tọa lạc tại khu phố E, phường U, thành phố T,
tỉnh Bình Dương và giao toàn bộ quyền sử dụng diện tích đất 1.381,3m
2
và tài sản dắn
liền với đất cho ông Hồ Văn H toàn quyền quản lý, sử dụng, sở hữu nhưng Tòa án cấp
sơ thẩm không buộc ông H phải thanh toán số tiền còn lại tương ứng với diện tích quyền
sử dụng đất 359,3m
2
là giải quyết vụ án chưa triệt để.
Tại cấp phúc thẩm, ông S cung cấp Bản thỏa thuận ghi ngày 05/4/2017 và Giấy
nhận tiền ghi ngày 08/12/2016, giữa ông Nguyễn Chí T, ông Đỗ Thanh S, ông Hồ Văn
H và ông Trần Xuân C. Theo nội dung thỏa thuận các giấy tờ này thì ông ông Nguyễn
Chí T đã trả lại cho Đỗ Thanh S số tiền 4.200.000.000 đồng để hủy xóa hợp đồng ủy
quyền đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 263506 tại thị trấn U. Ông T còn
nợ ông S 500.000.000 đồng, ông H nợ ông S 500.000.000 đồng. Số tiền còn lại theo
thỏa thuận chuyển nhượng sẽ giao trực tiếp cho ông T khi các bên ra công chứng giấy
10
tờ. Như vậy có căn cứ xác định việc ông S (nhân danh ông T) thỏa thuận chuyển nhượng
cho ông H diện tích đất 2.300m
2
với giá 1.800.000.000 đồng (tương ứng với 782.608
đồng/m
2
) là có thật và sau khi khấu trừ số tiền ông H đã thanh toán cho ông S, số tiền
còn lại ông H phải thanh toán cho T.
Các tình tiết này phát sinh tại cấp phúc thẩm nên Tòa án cấp sơ thẩm chưa có căn
cứ để xác định ai là người được hưởng đối với giá trị tương ứng diện tích quyền sử dụng
đất 359,3m
2
, chưa có căn cứ để xem xét thỏa thuận của đương sự theo Bản thỏa thuận
ghi ngày 05/4/2017 và Giấy nhận tiền ghi ngày 08/12/2016 để hướng dẫn họ thực hiện
thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật.
Mặt khác, quyền sử dụng diện tích đất 1.381,3m
2
mà ông H đang quản lý nay
thuộc thửa 1647, tờ bản đồ số 42 tại khu phố E, phường U, thành phố T, tỉnh Bình Dương
đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp cho ông Nguyễn Chí T theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS05312 ngày 22/3/2017. Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất này ông Hồ Văn H đã cầm cố cho bà Huỳnh Thị Xuân T1, nơi cư trú:
khu phố K, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương ngày 24/9/2021 để vay
2.500.000.000 đồng nhưng quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm các đương sự không cung
cấp thông tin cho Tòa án sự việc này nên quyền lợi của bà T1 chưa được xem xét tại cấp
sơ thẩm.
[2.3] Xét tại phiên tòa phúc thẩm phát sinh tình tiết mới, các tình tiết này ảnh
hưởng quyền lợi của các bên đương sự nhưng chưa được xem xét tại phiên tòa sơ thẩm
nên để đảm bảo quyền lợi của các đương sự, đảm bảo chế độ hai cấp xét xử, cần thiết
phải hủy bản án sơ thẩm và giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ
tục chung.
[3] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tại phiên tòa là
không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận. Kháng cáo của bị đơn là có cơ
sở chấp nhận.
[4] Án phí dân sự phúc thẩm: Yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Chí T được
chấp nhận nên ông T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, trả cho ông T tạm ứng
án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ Điều 148, khoản 3 Điều 308, Điều 310, Điều 313 của Bộ luật Tố tụng
dân sự;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án,
1. Chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Chí T.
2. Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 68/2023/DS-ST ngày 08 tháng 8 năm 2023 của
Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương
giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Người kháng cáo không phải chịu án phí dân sự
phúc thẩm. Trả cho ông Nguyễn Chí T số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng
11
án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008013 ngày 24/8/2023
của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành phố Tân Uyên;
- TAND thành phố Tân Uyên;
- Các đương sự;
- Tổ Hành chính Tư pháp;
- Lưu: Hồ sơ, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Sỹ Trứ
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm