Bản án số 326/2025/DS-PT ngày 18/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 326/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 326/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 326/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 326/2025/DS-PT ngày 18/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 326/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bác kháng cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 326/2025/DS-PT
Ngày 18 tháng 4 năm 2025
“V/v Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, hợp đồng cầm cố
quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Phạm Văn Công
Các thẩm phán: Ông Đặng Văn Ý
Bà Trần Thị Hoà Hiệp
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hồng Nhung - Thư ký Tòa án nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Trí Dũng - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 18 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
758/2024/TLPT-DS ngày 15 tháng 10 năm 2024 về “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 91/2024/DS-ST ngày 04/7/2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh An Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 712/2025/QĐPT-DS
ngày 18 tháng 3 năm 2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Võ Quốc V, sinh năm 1975 – Vắng mặt;
Địa chỉ: Tổ 13, ấp Hưng Hoà, xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An
Giang;
Người đại diện hợp pháp của anh Võ Quốc V: Ông Quách Thanh P, sinh
năm 1977; Địa chỉ: Số 47 Nguyễn Trung Trực, khóm Thượng 2, thị trấn Phú
Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang (Văn bản ủy quyền công chứng ngày
04/4/2025 của Văn phòng công chứng Huỳnh Thị Nào, huyện Phú Tân) – Có
mặt;
2
2. Bị đơn: Anh Võ Chí H, sinh năm 1990 – Có mặt;
Địa chỉ: Tổ 13, ấp Hưng Hoà, xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An
Giang;
Người đại diện hợp pháp của anh Võ Chí H: Ông Nguyễn Văn U, sinh
năm 1983; Địa chỉ: ấp Hưng Thuận, xã Đào Hữu Cảnh, huyện Châu Phú, tỉnh
An Giang (Văn bản ủy quyền ngày 23/12/2022 tại Văn phòng công chứng Lục
Văn Tiến, huyện Phú Tân) – Có mặt;
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Chị Nguyễn Thị Thuý H
1
, sinh năm 1983 – Vắng mặt;
3.2. Trẻ Võ Ngọc Kiều M, sinh năm 2007 – Vắng mặt;
Đều cùng địa chỉ nguyên đơn.
3.3. Cụ Trần Thị Q (L), sinh năm 1919 (chết ngày 14/11/2020 âm lịch) và
cụ Võ Văn P
1
, sinh năm 1919 (chết ngày 09/11/1999 âm lịch);
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cụ Q và cụ P:
3.3.1. Bà Võ Thị N, sinh năm 1938 – Vắng mặt;
Địa chỉ: Số 876, Tổ 12, khóm Phú Hiệp, thị trấn Chợ Vàm, huyện Phú
Tân, tỉnh An Giang;
3.3.2. Ông Võ Văn N
1
(chết năm 2016) và bà Lê Thị C, sinh năm 1939
(chết ngày 31/3/2021);
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông N
1
và bà C:
3.3.2.1. Anh Võ Văn Đ, sinh năm 1969 – Vắng mặt;
3.3.2.2. Anh Võ Văn H
2
, sinh năm 1973 – Vắng mặt;
3.3.2.3. Anh Võ Văn V
1
, sinh năm 1986 – Vắng mặt;
3.3.2.4. Anh Võ Chí H, sinh năm 1990 – Có mặt;
Cùng địa chỉ: Ấp Hưng Hoà, xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An
Giang;
3.3.3. Bà Võ Thị R (chết năm 2021) và ông Nguyễn Văn K (chết năm
2023);
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông K và bà R:
3.3.3.1. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1961 – Vắng mặt;
Địa chỉ: Ấp Tân Đông, xã Mỹ Phú Đông, huyện Thoại Sơn, tỉnh An
Giang;
3
3.3.3.2. Anh Nguyễn Văn H
3
, sinh năm 1964 (chết năm 2015) có vợ là
Nguyễn Thị H
4
, sinh năm 1964 và con là Nguyễn Thị T
1
, sinh năm 1987 cùng
hai con của Nguyễn Thị T
1
là Nguyễn Minh T
2
, sinh năm 2017 và Nguyễn Thị
Thảo N
2
, sinh năm 2009 – Tất cả vắng mặt;
Cùng địa chỉ: Ấp Hưng Hoà, xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An
Giang;
3.3.3.3. Anh Nguyễn Trường S, sinh năm 1965 – Vắng mặt;
Địa chỉ: Tổ 5, ấp Hiệp Trung, xã Hiệp Xương, huyện Phú Tân, tỉnh An
Giang;
3.3.3.4. Chị Nguyễn Thị Kim T
3
, sinh năm 1967 – Vắng mặt;
3.3.3.5. Chị Nguyễn Thị Kim H
5
, sinh năm 1969 – Vắng mặt;
3.3.3.6. Chị Nguyễn Thị Kim T
4
, sinh năm 1971 – Vắng mặt;
3.3.3.7. Chị Nguyễn Thị T
5
, sinh năm 1982 – Vắng mặt;
Cùng địa chỉ: Số 482/4, ấp Tân Đông, xã Mỹ Phú Đông, huyện Thoại
Sơn, tỉnh An Giang;
3.3.3.8. Chị Nguyễn Thị Tuyết M
1
, sinh năm 1986 – Vắng mặt;
Địa chỉ: Số 528, Tổ 12, ấp Vàm Nao, xã Tân Trung, huyện Phú Tân, tỉnh
An Giang;
3.3.4. Ông Võ Văn O, sinh năm 1938 và bà Bùi Thị B, sinh năm 1949 –
Đều vắng mặt;
Cùng địa chỉ: Tổ 13, ấp Hưng Hoà, xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An
Giang;
3.3.5. Ông Võ Văn H
6
(chết) và bà Nguyễn Thị M
2
(chết);
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông H
6
và bà M
2
:
3.3.5.1. Anh Võ Văn T
6
(Võ Minh P
1
), sinh năm 1967 – Vắng mặt;
Địa chỉ: Ấp Hưng Tân, xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang;
Tạm trú: Ấp Phú Hạ, xã Phú Xuân, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang;
3.3.5.2. Anh Võ Tường V
2
, sinh năm 1970 – Vắng mặt;
Địa chỉ: Tổ 1, ấp Tân Phú, xã Mỹ Phú Đông, huyện Thoại Sơn, tỉnh An
Giang;
Tạm trú: Số 42/1/13, khóm Mỹ Lương, thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân,
tỉnh An Giang;
3.3.5.3. Anh Võ Quang S
1
, sinh năm 1975 – Vắng mặt;
4
3.3.5.4. Chị Võ Thị Ánh T
7
(Mỹ D), sinh năm 1974 – Vắng mặt;
Cùng địa chỉ: Tổ 1, ấp Tân Mỹ, xã Mỹ Phú Đông, huyện Thoại Sơn, tỉnh
An Giang;
3.3.5.5. Anh Võ Văn Đăng K, sinh năm 1978 – Vắng mặt;
Địa chỉ: Ấp Tân Đông, xã Mỹ Phú Đông, huyện Thoại Sơn, tỉnh An
Giang;
3.3.6. Bà Võ Thị M
3
, sinh năm 1955 – Vắng mặt;
Địa chỉ: Số 412, Tổ 13, ấp Hưng Thới 1, xã Phú Hưng, huyện Phú Tân,
tỉnh An Giang;
3.3.7. Bà Võ Thị T
8
(THI TAM VO), sinh năm 1964 – Vắng mặt;
ĐKTT: Ấp Hưng Hoà, xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang; Địa
chỉ: Số 4905 Rosebush Road, Misissauga L5M5N2, Ontario Canada;
3.4. Ông Võ Lĩnh S
2
, sinh năm 1973 – Vắng mặt;
3.5. Bà Đặng Thị Minh T
9
, sinh năm 1976 – Vắng mặt;
3.6. Anh Võ Anh K
1
, sinh năm 1996 – Vắng mặt;
3.7. Chị Võ Thị Minh G, sinh năm 1998 – Vắng mặt;
Cùng địa chỉ: Số 390, Tổ 13, ấp Hưng Hoà, xã Phú Hưng, huyện Phú Tân,
tỉnh An Giang;
4. Người kháng cáo: Bị đơn anh Võ Chí H;
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện ngày 25/11/2022 của nguyên đơn anh Võ Quốc V và
người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:
Ngày 01/9/2017, anh Võ Quốc V thoả thuận nhận chuyển nhượng của anh
Võ Chí H quyền sử dụng Thửa đất số 73 và Thửa đất số 74 tổng diện tích 7.300
m
2
, Tờ bản đồ số 54, xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang với giá
360.000.000 đồng. Do Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn đứng tên của
cha anh H là ông Võ Văn N
1
và đang thế chấp Ngân hàng, nên anh V đưa tiền
cho anh H giải chấp, vì ông N
1
mới chết nên sau khi làm thủ tục thừa kế cho anh
H đứng tên thì sẽ làm thủ tục sang tên cho anh V. Thoả thuận chỉ bằng lời nói,
không lập văn bản.
Sau khi thoả thuận, anh H giao đất cho anh V sử dụng, đến ngày
27/11/2017 anh V cùng anh H đến trả tiền Ngân hàng, lấy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất ra và giao cho anh V giữ để làm thủ tục khai nhận thừa kế
5
cho anh H đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để lập thủ tục chuyển
nhượng đất cho anh V theo quy định của pháp luật.
Sau khi nhận đất, anh V thuê làm bờ bao bơm cát lên diện tích 2.700 m
2
(khối lượng 8.100 m
3
cát), còn lại diện tích khoảng 4.600 m
2
thì làm hàng rào
lưới B40 bao quanh và trồng bưởi, cam, dừa.
Ngày 18/6/2018, sau khi làm xong thủ tục thừa kế, anh H được đứng tên
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (anh V đang giữ bản chính) nhưng anh H
không làm thủ tục sang tên cho anh V nên xảy ra tranh chấp.
Anh Võ Quốc V khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết công nhận hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh V với anh H, buộc anh H làm thủ
tục chuyển quyền sử dụng đất cho anh thì anh sẽ hỗ trợ thêm cho anh H
150.000.000 đồng. Trường hợp hợp đồng bị vô hiệu thì yêu cầu buộc anh H phải
trả cho anh V số tiền chuyển nhượng đất 360.000.000 đồng, tiền bơm cát
2.268.000.000 đồng, tiền cây ăn trái 177.750.000 đồng, bồi thường thiệt hại do
chênh lệch giá đất 2.151.200.000 đồng. Tổng cộng 4.956.950.000 đồng thì anh
sẽ trả đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lại cho anh H. Anh không yêu
cầu trả lại anh tiền làm hàng rào lưới B40.
Bị đơn anh Võ Chí H và người đại diện hợp pháp trình bày:
Anh không có chuyển nhượng đất cho anh V, mà chỉ cố đất cho anh V với
giá 360.000.000 đồng để lấy tiền trả nợ Ngân hàng, anh giao đất cho anh V sử
dụng để anh V hưởng huê lợi xem như là tiền lãi, khi nào có tiền anh sẽ trả cho
anh V 360.000.000 đồng và lấy đất lại.
Khi anh V bơm cát thì anh có ngăn cản và báo chính quyền nên anh V chỉ
bơm được một phần diện tích, phần còn lại thì cải tạo sửa liếp trồng cây ăn trái.
Anh H chỉ đồng ý trả lại cho anh V 360.000.000 đồng, không chấp nhận
các yêu cầu khác của anh V và yêu cầu anh V phải khôi phục lại tình trạng ban
đầu của đất để trả lại cho anh.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Thuý H
1
(cũng là đại
diện hợp pháp của Võ Ngọc Kiều M) trình bày: Thống nhất yêu cầu khởi kiện
của anh Võ Quốc V;
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm các anh: Võ Văn Đ, Võ Văn
H
2
, Võ Văn V
1
trình bày: Các anh là con của ông N
1
, bà C (đều đã chết). Phần
đất cha mẹ đã cho anh H thì tuỳ anh H với anh V giải quyết. Riêng căn nhà phủ
thờ của ông bà nội (cụ Q, cụ P
1
) thì Toà án xét xử đất thuộc về ai thì người quản
lý (ông O) sẽ thương lượng, nếu không thương lượng được thì sẽ tranh chấp vụ
án khác, các anh không có yêu cầu gì trong vụ án này.
6
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị N trình bày: Trên đất
tranh chấp có căn nhà phủ thờ của cha mẹ bà là cụ Q và cụ P
1
. Sau này Toà án
xét xử đất thuộc về ai thì người quản lý (ông O) sẽ thương lượng, nếu không
thương lượng được thì sẽ tranh chấp vụ án khác, bà không có yêu cầu gì trong
vụ án này.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: Nguyễn Văn T, Nguyễn
Trường S, Nguyễn Thị Tuyết M
1
trình bày: Các anh chị là con của bà R, ông K
(đều đã chết). Trên đất tranh chấp có căn nhà phủ thờ của ông bà ngoại (cụ Q, cụ
P
1
) thì Toà án xét xử đất thuộc về ai thì người quản lý (ông O) sẽ thương lượng,
nếu không thương lượng được thì sẽ tranh chấp vụ án khác, các anh, chị không
có yêu cầu gì trong vụ án này.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: Nguyễn Thị Kim T
3
, Nguyễn
Thị Kim H
5
, Nguyễn Thị Kim T
4
, Nguyễn Thị T
5
(đều là con của bà R, ông K):
Vắng mặt và không có ý kiến.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị H
4
trình bày: Chị là
vợ của anh Nguyễn Minh H
3
(đã chết), chị có căn nhà vệ sinh trên đất tranh
chấp, Toà án xét xử đất thuộc về ai thì chị sẽ thương lượng, nếu không thương
lượng được thì sẽ tranh chấp vụ án khác, chị không có yêu cầu gì trong vụ án
này.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị T
1
(đồng thời là người
đại diện hợp pháp của Nguyễn Minh T
2
và Nguyễn Thị Thảo N
2
) trình bày:
Thống nhất ý kiến của chị Nguyễn Thị H
4
.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Võ Lĩnh S
2
, chị Đặng Thị
Minh T
9
(cũng là đại diện hợp pháp cho Võ Anh K
1
, Võ Thị Minh G) trình bày:
Anh, chị có căn nhà trên đất tranh chấp, Toà án xét xử đất thuộc về ai thì anh chị
sẽ thương lượng, nếu không thương lượng được thì sẽ tranh chấp vụ án khác,
anh chị không có yêu cầu gì trong vụ án này.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn O, bà Bùi Thị B
trình bày: Ông bà là cha mẹ của anh Võ Quốc V. Trên đất tranh chấp có căn nhà
phủ thờ của cha mẹ (cụ Q, cụ P
1
) thì Toà án xét xử đất thuộc về ai thì ông bà sẽ
thương lượng, nếu không thương lượng được thì sẽ tranh chấp vụ án khác và
không có yêu cầu gì trong vụ án này.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: Võ Văn T
6
(Võ Minh P
1
), Võ
Tường V
2
, Võ Thị Ánh T
7
(Võ Thị Mỹ D) trình bày: Các anh chị là con của ông
Võ Văn H
6
và bà Nguyễn Thị M
2
(đều đã chết). Trên đất tranh chấp có căn nhà
phủ thờ của ông bà nội (cụ Q, cụ P
1
) thì Toà án xét xử đất thuộc về ai thì người
quản lý (ông O) sẽ thương lượng, nếu không thương lượng được thì sẽ tranh
chấp vụ án khác, các anh, chị không có yêu cầu gì trong vụ án này.
7
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: Võ Quang S
1
, Võ Văn Đăng
K (đều là con của ông H
6
, bà M
2
): Vắng mặt và không có ý kiến.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: Võ Thị M
3
, Võ Thị T
8
trình
bày: Các bà là con của cụ Q, cụ P
1
. Trên đất tranh chấp có căn nhà phủ thờ của
cha mẹ, Toà án xét xử đất thuộc về ai thì người quản lý (ông O) sẽ thương
lượng, nếu không thương lượng được thì sẽ tranh chấp vụ án khác, các bà không
có yêu cầu gì trong vụ án này.
Anh Võ Quốc V và anh Võ Chí H thống nhất giá do Hội đồng định giá tài
sản huyện Phú Tân ngày 18/10/2019 và Công ty thẩm định giá Đông Á ngày
01/8/2022. Giá trị quyền sử dụng đất là 2.511.200.000 đồng; Cây trồng trên đất
177.750.000 đồng; giá 1.800 m
3
cát = 1.620.000.000 đồng; Hàng rào lưới B40 là
10.000.000 đồng,
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 91/2024/DS-ST ngày 04/7/2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh An Giang đã quyết định:
Căn cứ khoản 3, 9 Điều 26, Điều 37, điểm a, c khoản 1 Điều 39, Điều
147, khoản 1 Điều 157, khoản 6 Điều 165, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều
273, Điều 278 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 500 Bộ luật dân sự
2015; Điều 203 Luật đất đai 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa
án;
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Võ Quốc V đối với anh Võ Chí H
về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất;
- Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Võ
Quốc V với anh Võ Chí H ngày 01/9/2017, diện tích đất 7.300 m
2
tại thửa số 73
và 74, tờ bản đồ số 54 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS02725, cấp
ngày 18/6/2018 mang tên Võ Chí H, theo sơ đồ hiện trạng do Văn phòng đăng
ký đất đai huyện Phú Tân lập ngày 20/7/2023, anh Võ Quốc V phải đến cơ quan
có thẩm quyền kê khai lại diện tích đất nói trên và nộp lại giấy chứng nhận QSD
đất (bản chính) số CS02725, cấp ngày 18/6/2018 mang tên Võ Chí H.
- Ghi nhận sự tự nguyện của anh Võ Quốc V hỗ trợ thêm cho anh Võ Chí
H 150.000.000 đồng.
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của anh Võ Chí H đối với anh Võ Quốc
V về hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất 01/9/2017;
- Bác yêu cầu anh Võ Chí H đòi anh Võ Quốc V phải trả lại cho anh diện
tích đất 7.300 m
2
tại thửa số 73 và 74, tờ bản đồ số 54 theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất (bản chính) số CS02725, cấp ngày 18/6/2018 mang tên Võ
8
Chí H, theo sơ đồ hiện trạng do Văn phòng đăng ký đất đai huyện Phú Tân lập
ngày 20/7/2023.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng; về án phí dân
sự sơ thẩm; về nghĩa vụ thi hành án; về trách nhiệm do chậm thi hành án và
quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 09/7/2024, bị đơn anh Võ Chí H có đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
Ông Nguyễn Văn U đề nghị xem xét ông Võ Văn N
1
và bà Lê Thị C có 06
người con gồm: Võ Chí H, Võ Văn H
2
, Võ Văn Đ, Võ Văn V
1
, Võ Văn R (chết
năm 1979), Võ Văn V
3
(chết năm 2013, vợ là Nguyễn Thị P
1
và 01 con là Võ
Nhật T
10
), nhưng Bản án sơ thẩm không đưa đầy đủ người thừa kế của ông Võ
Văn N
1
vào tham gia tố tụng là đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; Về nội
dung đất của ông N
1
đứng tên và ông N
1
đã chết nhưng chỉ có anh H thoả thuận
với anh V mà không có ý kiến của các đồng thừa kế của ông N
1
nên thoả thuận
giữa anh H với anh V không có giá trị. Do đó đề nghị hủy Bản án sơ thẩm để xét
xử lại.
Anh Võ Chí H thống nhất ý kiến của ông Nguyễn Văn U và trình bày tại
thời điểm năm 2017, ông N
1
chết thì mẹ và các anh em thống nhất cho anh H
toàn bộ diện tích đất 7.300 m
2
tại thửa số 73 và 74, tờ bản đồ số 54 theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất ông N
1
đứng tên, nên anh mới ủy quyền cho anh
V làm thủ tục thừa kế cho anh đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Anh chỉ cố đất cho anh V chứ không có chuyển nhượng nên khi anh V chặt cây
thì anh có báo cho chính quyền địa phương. Anh yêu cầu anh V trả đất lại cho
anh thì anh sẽ trả lại anh V số tiền mà anh đã nhờ anh V trả cho Ngân hàng là
360.000.000 đồng hoặc yêu cầu huỷ Bản án sơ thẩm để xét xử lại.
Ông Quách Thanh P không đồng ý kháng cáo của anh Võ Chí H vì tất cả
những người thừa kế của ông N
1
, bà C đều đã có văn bản từ chối nhận thừa kế
và xác nhận đã tặng cho kỷ phần thừa kế của mình được hưởng cho ông Võ Chí
H nên ông H có quyền chuyển nhượng đất cho anh Võ Quốc V, nên Toà án cấp
sơ thẩm không vi phạm tố tụng, không vi phạm nội dung như ông U trình bày.
Anh H báo chính quyền là chặt cây ven mương, không phải cây trên đất mà anh
H giao cho anh V quản lý và địa phương cũng có văn bản xác nhận khi đến đất
thì còn nguyên hiện trạng không có thay đổi gì và cũng không có chặt cây. Đề
nghị không chấp nhận kháng cáo của anh H.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có ý
kiến người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy
định của pháp luật tố tụng dân sự; Đơn kháng cáo hợp lệ về hình thức; Về nội
dung đề nghị bác kháng cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
9
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của anh Võ Chí H đảm bảo hình thức, thời hạn, đủ
điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Phiên tòa phúc thẩm được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, các đương sự
vắng mặt đều là những người không có kháng cáo và sự vắng mặt của họ không
vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, nên theo quy định tại Điều
296 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án.
[2] Ông Võ Văn N
1
và bà Lê Thị C có 06 người con gồm: Võ Chí H, Võ
Văn H
2
, Võ Văn Đ, Võ Văn V
1
, Võ Văn R (chết năm 1979, chưa có vợ con), Võ
Văn V
3
(chết năm 2013, vợ là Nguyễn Thị P
1
và con là Võ Nhật T
10
).
Năm 2016, ông Võ Văn N
1
chết, không có di chúc;
Ngày 08/12/2017, bà Lê Thị C và anh Võ Văn H
2
lập “Văn bản phân chia
di sản thừa kế”, được Văn phòng công chứng Lục Văn Tiến công chứng ngày
05/3/2018 có nội dung tặng cho ông Võ Chí H toàn bộ phần thừa kế của họ được
hưởng của ông Võ Văn N
1
đối với diện tích đất do ông Võ Văn N
1
đứng tên
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 282364 ngày 31/12/2002.
Ngày 08/12/2017, chị Nguyễn Thị P
1
và trẻ Võ Nhật T
10
lập “Văn bản từ
chối nhận di sản thừa kế”, được Văn phòng công chứng Lục Văn Tiến công
chứng ngày 05/3/2018 có nội dung từ chối nhận thừa kế của ông Võ Văn N
1
đối
với diện tích đất do ông Võ Văn N
1
đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số W 282364 ngày 31/12/2002.
Ngày 05/3/2018, bà Lê Thị C lập “Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng
đất” có nội dung bà C tặng cho ông Võ Chí H toàn bộ phần đất của bà C trong
diện tích đất do ông Võ Văn N
1
đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
W 282364 ngày 31/12/2002, được Văn phòng công chứng Lục Văn Tiến công
chứng ngày 05/3/2018.
Trong các ngày 12/5/2023, ngày 13/5/2023 và ngày 14/5/2023 thì các anh:
Võ Văn Đ, Võ Văn V
1
, Võ Văn H
2
có văn bản trình bày đồng ý cho anh Võ Chí
H các thửa đất số 73, 74, tờ bản đồ số 54, diện tích 7.300 m
2
, các anh không liên
quan đến phần đất này, xin vắng mặt tại Tòa án (bút lục số 283, 284, 285).
Như vậy, tất cả các thừa kế của ông Võ Văn N
1
đều đã lập văn bản tặng
cho anh Võ Chí H hoặc từ chối nhận thừa kế đối với phần thừa kế của họ được
hưởng từ ông Võ Văn N
1
; đồng thời bà Lê Thị C cũng đã lập hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất của bà cho anh Võ Chí H.
10
Anh Võ Văn R đã chết, không có vợ con nên Bản án sơ thẩm không đưa
anh R vào tham gia tố tụng là phù hợp; Bản án sơ thẩm không đưa người thừa kế
của anh Võ Văn V
3
là chị Nguyễn Thị P
1
và trẻ Võ Nhật T
10
vào tham gia tố
tụng là có thiếu sót, nhưng chị Nguyễn Thị P
1
và trẻ Võ Nhật T
10
đều đã có văn
bản từ chối nhận thừa kế, nên thiếu sót của Bản án sơ thẩm không ảnh hưởng
đến quyền của chị Nguyễn Thị P
1
và trẻ Võ Nhật T
10
; Do đó, không có căn cứ để
chấp nhận kháng cáo của anh Võ Chí H yêu cầu huỷ Bản án sơ thẩm để xét xử
lại vì lý do thiếu người tham gia tố tụng.
[3] Phần đất tranh chấp tổng diện tích 7.805 m
2
đất 2 lúa, cùng Tờ bản đồ
số 02, ấp Hưng Thạnh, xã Phú An, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang có nguồn gốc
của vợ chồng ông Võ Văn N
1
và bà Lê Thị C do ông N
1
đứng tên Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số W 282364, số vào sổ cấp GCN: 01166QSDĐ/cC
ngày 31/12/2002. Vào ngày 28/01/2015, ông N
1
thế chấp số đất trên để vay tiền
Ngân hàng Agribank Chi nhánh Phú Tân. Năm 2016 ông N
1
chết nhưng chưa trả
nợ Ngân hàng. Vào ngày 28/11/2017, anh Võ Chí H đề nghị thì anh Võ Quốc V
đồng ý trả 360.000.000 đồng cho Ngân hàng Agribank Chi nhánh Phú Tân để
giải chấp lấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ra thì bà Lê Thị C và các anh
em của anh H gồm: Võ Văn Đ, Võ Văn H
2
, Võ Văn V
1
lần lượt khai nhận thừa
kế và tặng cho anh H toàn bộ kỷ phần thừa kế đối với diện tích 7.300 m
2
nêu
trên; người thừa kế của anh Võ Văn V
3
là chị Nguyễn Thị P
1
và trẻ Võ Nhật T
10
lập văn bản từ chối nhận thừa kế; Trên cơ sở được các đồng thừa kế của ông N
1
từ chối nhận thừa kế và tặng cho phần thừa kế và bà C lập hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất cho anh Võ Chí H thì anh H lập Hợp đồng ủy quyền được
Văn phòng công chứng Lục Văn Tiến công chứng ngày 06/3/2018, có nội dung
ủy quyền cho anh Võ Quốc V kê khai đăng ký quyền sử dụng đất của anh Võ
Chí H được nhận thừa kế và được tặng cho quyền sử dụng đất, đến ngày
18/6/2018 thì anh Võ Chí H được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
vào sổ cấp GCN: CS02725 Thửa đất số 73, diện tích 2.681 m
2
và Thửa đất số
74, diện tích 4.619 m
2
đều là đất trồng lúa, cùng Tờ bản đồ số 54, xã Phú Hưng,
huyện Phú Tân, tỉnh An Giang và anh V quản lý bản chính giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất này.
[4] Việc thỏa thuận giữa anh V và anh H không lập thành văn bản, anh V
cho rằng anh H chuyển nhượng đất cho anh, còn anh H thì trình bày anh chỉ cầm
cố đất cho anh V, không có chuyển nhượng. Thấy rằng:
Từ tháng 9 năm 2017, anh H đã giao toàn bộ diện tích đất cho anh V quản
lý sử dụng cho đến nay. Trong quá trình sử dụng đất, anh V đã làm hàng rào
lưới B40, cải tạo đất, bơm cát, lên liếp trồng nhiều cây lâu năm … với số tiền
đầu tư nhiều hơn gấp nhiều lần giá trị diện tích đất, nhưng anh H và các anh em
của anh H đều không phản đối. Anh H cho rằng khi anh V cải tạo đất thì anh có
11
trình báo chính quyền địa phương, nhưng Tòa án xác minh vào ngày 25/02/2021
(bút lục 120 -122) thì công an xã Phú Hưng; Trưởng, Phó Ban nhân dân ấp
Hưng Hòa đều xác định anh H có báo anh V chặt cây của anh, nhưng khi đến
hiện trường xem xét thì hiện trạng đất không thay đổi, không có việc chặt cây gì.
Mặt khác, số tiền anh H nhận của anh V 360.000.000 đồng, chia cho diện
tích 7.300 m
2
= 49.315 đồng/m
2
là tương đương với giá trị quyền sử dụng đất
cùng loại đất và vị trí đất tại thời điểm năm 2017 (Theo Quyết định số
45/2014/QĐ-UBND ngày 29/12/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang thì
giá đất trồng cây hàng năm tại địa bàn xã Phú An giai đoạn năm 2015 – 2019:
Giáp đường Tỉnh 954, đường Tỉnh 951, đường huyện, lộ giao thông nông thôn,
đường liên xã, giao thông thủy: Vị trí 1 có giá là 65.000 đồng/m
2
, vị trí 2 có giá
là 52.000 đồng/m
2
; Các khu vực còn lại có giá là 39.000 đồng/m
2
).
Do đó, có căn cứ để xác định thỏa thuận giữa anh H với anh V là thỏa
thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, không phải là cầm cố đất.
[5] Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
“Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì
vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:
1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản
nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực
hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên
hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.
2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy
định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện
ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc
các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong
trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực”.
Tuy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh H với anh V
không lập thành văn bản, không có công chứng, chứng thực là vi phạm điều kiện
về hình thức, nhưng các bên đã thực hiện toàn bộ giao dịch, anh H đã giao toàn
bộ đất cho anh V quản lý và anh H đã nhận đủ số tiền chuyển nhượng quyền sử
dụng đất là 360.000.000 đồng, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã công nhận hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 01/9/2017 giữa anh H với anh V là có
căn cứ, đúng quy định tại Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015.
[6] Anh Võ Chí H không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho yêu
cầu kháng cáo của anh là có căn cứ và hợp pháp, không có chứng cứ làm thay
đổi bản chất vụ án nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của anh Võ Chí
12
H, giữ nguyên Bản án sơ thẩm theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp.
[7] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về chi phí tố tụng; về án phí
dân sự sơ thẩm; về nghĩa vụ thi hành án, trách nhiệm do chậm thi hành án,
không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 27
và Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
2. Không chấp nhận kháng cáo của anh Võ Chí H; Giữ nguyên Bản án
dân sự sơ thẩm số 91/2024/DS-ST ngày 04/7/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh An
Giang;
2.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Võ Quốc V:
- Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Võ
Quốc V với anh Võ Chí H xác lập ngày 01/9/2017:
Công nhận anh Võ Quốc V được quyền sử dụng Thửa đất số 73, diện tích
2.681 m
2
và Thửa đất số 74, diện tích 4.619 m
2
đều là đất trồng lúa, cùng Tờ bản
đồ số 54, xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang do anh Võ Chí H đứng
tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS02725 cấp ngày 18/6/2018 và phải
nộp cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bản chính Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CS02725, cấp ngày 18/6/2018 mang tên Võ Chí H.
Diện tích, kích thước, hình thể, giáp giới được xác định theo Sơ đồ hiện
trạng khu đất do Văn phòng đăng ký đất đai Chi nhánh huyện Phú Tân lập ngày
20/7/2023 (bút lục 250).
Anh Võ Quốc V có quyền và nghĩa vụ kê khai, đăng ký quyền sử dụng
đất được công nhận cho anh tại Bản án này;
- Ghi nhận sự tự nguyện của anh Võ Quốc V hỗ trợ thêm cho anh Võ Chí
H 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng).
2.2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của anh Võ Chí H đòi anh Võ
Quốc V phải trả lại cho anh diện tích đất 7.300 m
2
thuộc Thửa đất số 73 và Thửa
đất số 74, cùng Tờ bản đồ số 54 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
CS02725, cấp ngày 18/6/2018 mang tên Võ Chí H, theo Sơ đồ hiện trạng khu
đất do Văn phòng đăng ký đất đai Chi nhánh Phú Tân lập ngày 20/7/2023.
13
3. Anh Võ Chí H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng (Ba
trăm ngàn đồng) và được khấu trừ tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba
trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu tiền số 0000377 ngày 22/7/2024 của Cục Thi
hành án dân sự tỉnh An Giang.
4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về chi phí tố tụng; về án phí
dân sự sơ thẩm; về nghĩa vụ thi hành án, trách nhiệm do chậm thi hành án,
không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSND cấp cao tại TP.HCM;
- Tòa án nhân dân tỉnh An Giang;
- VKSND tỉnh An Giang;
- Cục THADS tỉnh An Giang;
- Các đương sự;
- Lưu: HS, VP, NTHN.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Văn Công
14
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm