Bản án số 59/2025/DS-PT ngày 09/05/2025 của TAND tỉnh Bạc Liêu về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 59/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 59/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 59/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 59/2025/DS-PT ngày 09/05/2025 của TAND tỉnh Bạc Liêu về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bạc Liêu |
Số hiệu: | 59/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 09/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | T/c Hợp đồng chuyển nhượng đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH B
Bản án số 59/2025/DS-PT
Ngày 09-5-2025
V/v tranh chấp Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH B
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phùng Văn Định
Các Thẩm phán: Bà Giang Thị Cẩm Thúy
Ông Trương Thanh Dũng
- Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thùy Linh – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh B.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh B tham gia phiên tòa: Bà Huỳnh
Diễm Lệ - Kiểm sát viên.
Ngày 09 tháng 5 năm 2025, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B xét xử phúc
thẩm công khai vụ án thụ lý số: 44/2025/TLPT-DS ngày 19 tháng 3 năm 2025 về
tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 119/2024/DS-ST ngày 25 tháng 12 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh B bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 44/2025/QĐ-PT ngày 01
tháng 04 năm 2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Quốc V, sinh năm 1950. Địa chỉ: Ấp D, xã Đ,
huyện Đ, tỉnh B. (Có mặt)
2. Bị đơn: Bà Trần Thị L, sinh năm 1979. Địa chỉ: Ấp D, xã Đ, huyện Đ,
tỉnh B. (Có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Nguyễn Kim Đ, sinh năm 1956. Địa chỉ: Ấp D, xã Đ, huyện Đ, tỉnh
B. (Vắng mặt).
3.2. Ông Nguyễn Đồng T, sinh năm 1960. Địa chỉ: Ấp D, xã Đ, huyện Đ,
tỉnh B. (Vắng mặt).
3.3. Bà Nguyễn Kim A, sinh năm 1963. Địa chỉ: Ấp D, xã Đ, huyện Đ, tỉnh
B. (Vắng mặt).
3.4. Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1976. Địa chỉ: Ấp H2, xã Lo, huyện Đ,
tỉnh B. (Vắng mặt).
3.5. Bà Nguyễn Kim H. Địa chỉ: Ấp D, xã Đ, huyện Đ, tỉnh B. (Vắng mặt)
3.6. Ông Nguyễn Văn V. Địa chỉ: Ấp D, xã Đ, huyện Đ, tỉnh B. (Vắng mặt).
2
3.7. Ông Nguyễn Thanh T. Địa chỉ: Ấp B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh B. (Vắng
mặt).
3.8. Ông Nguyễn Tấn L, sinh năm 1972. Địa chỉ: Ấp T, xã V, huyện Phú T,
tỉnh C. (Vắng mặt).
3.9. Em Nguyễn Minh T, sinh năm 2006. Địa chỉ: Ấp D, xã Đ, huyện Đ, tỉnh
B. (Vắng mặt).
3.10. Em Nguyễn Minh K, sinh năm 2012. Địa chỉ: Ấp D, xã Đ, huyện Đ,
tỉnh B. (Vắng mặt).
Người đại diện theo pháp luật của em Nguyễn Minh T và em Nguyễn Minh
K: Bà Trần Thị L, sinh năm 1979. Địa chỉ: Ấp D, xã Đ, huyện Đ, tỉnh B (mẹ ruột).
(Có mặt).
3.11. Bà Trần Mộng H, sinh năm 1986. Địa chỉ: Ấp H1, xã L, huyện Đ, tỉnh
B. (Có mặt).
3.12. Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh B. Địa chỉ: Ấp G, xã Đ, huyện Đ, tỉnh
B. Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần T K – Chức vụ: Chủ tịch Ủy ban nhân
dân huyện Đ, tỉnh B. (Vắng mặt).
3.13. Ông Nguyễn Đồng T. Địa chỉ: Địa chỉ: Ấp T, xã V, huyện Phú T, tỉnh
C (đã chết). Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông T:
- Bà Phạm Xuân D, sinh năm 1958. Địa chỉ: Ấp T, xã Việt Khái, huyện Phú
T, tỉnh C. (Vắng mặt)
- Ông Nguyễn Việt K, sinh năm 1980. Địa chỉ: Ấp T, xã V, huyện P, tỉnh C.
(Vắng mặt).
- Ông Nguyễn Việt Kh, sinh năm 1982. Địa chỉ: Ấp D, xã Đ, huyện Đ, tỉnh
B. (Vắng mặt).
- Ông Nguyễn Trung T, sinh năm 1984. Địa chỉ: Ấp C, xã Cái Đ, huyện Phú
T, tỉnh C. (Vắng mặt).
- Bà Nguyễn Kim L, sinh năm 1993. Địa chỉ: Ấp T, xã V, huyện Phú T, tỉnh
C. (Vắng mặt).
4. Người kháng cáo: bà Trần Thị L là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
– Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông
Nguyễn Quốc V trình bày:
Vào ngày 29/05/2005, ông Nguyễn Quốc V có nhận chuyển nhượng của ông
Nguyễn Văn D (đã chết) và bà Châu Thị T (đã chết) phần đất tọa lạc Ấp D, xã Đ,
huyện Đ, tỉnh B, có tứ cạnh: Hướng Đông giáp ông Lê Văn Thắng chạy thẳng
xuống sông; Hướng Tây giáp ông Nguyễn Văn Xuyên chạy thẳng xuống sông;
Hướng Nam giáp sông Kinh Tư đi Khâu; Hướng Bắc giáp lộ Kinh Tư đi Khâu, số
tiền chuyển nhượng đất là 110.000.000đ (một trăm mười triệu đồng), việc chuyển
nhượng có làm “giấy nhượng đất” ngày 29/05/2005, có ông Nguyễn Văn D, bà
Châu Thị T, ông Nguyễn Văn U (đã chết), ông Nguyễn Văn L ký tên, có bàn cận,
kế cận ông Nguyễn Văn X, ông Giang Văn H, ông Nguyễn Văn N chứng kiến ký
3
tên, có xác nhận của Trưởng Ấp là ông Vương Kiên G. Diện tích phần đất chuyển
nhượng theo đo đạc thực tế ngày 14/06/2023 là 4768,4m² (chưa trừ chỉ giới quy
hoạch giao thông), ông V đã thanh toán đủ số tiền chuyển nhượng cho ông D, bà T
và được bàn giao phần đất, sử dụng cho đến nay. Sau đó ông D, bà T nói bản gốc
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã thế chấp vay tiền Ngân hàng sẽ chuộc về để
làm thủ tục chuyển quyền cho ông V, sau khi ông D chết các anh em của ông
Nguyễn Văn U đã ký giấy ủy quyền phần đất của ông D, bà T cho ông U (phần đất
đối diện với phần đất tranh chấp, hiện gia đình ông U, bà L đang xây dựng nhà ở)
nhưng ông U làm bằng khoán (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) luôn phần đất
giáp với mé sông mà ông D, bà T đã chuyển nhượng cho ông V.
Năm 2019, khi Nhà nước có chủ trương xây dựng đường Giá Rai – Gành
Hào đi ngã ba Khâu, đường Kinh Tư – Khâu thì ông Nguyễn Quốc V được nhận
tiền bồi thường, khi đó ông Nguyễn Văn U còn sống không có ý kiến gì và cũng
được nhận tiền bồi thường phần đất đối diện với phần đất tranh chấp, hiện bà L
đang ở.
Năm 2021 ông Nguyễn Văn U thế chấp phần đất trên (phần đất đang tranh
chấp) để vay vốn tại Ngân hàng và không có khả năng thanh toán bị Ngân hàng
khởi kiện tại Tòa án, khi đó Tòa án có mời ông Nguyễn Quốc V, ông Nguyễn Văn
Luận (anh ruột ông Nguyễn Văn U) với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan, tại cuộc giải quyết tại Tòa án và khi Tòa án tiến hành thẩm định tại chỗ
phần đất thế chấp thì ông U, bà L thừa nhận việc chuyển nhượng đất ngày
29/05/2005 giữa ông V và ông D, bà T. Khi đó ông U hứa thế chấp phần đất đang
ở để vay tiền trả Ngân hàng để lấy bằng khoán về giao lại cho ông V, Ngân hàng
đồng ý nên Ngân hàng rU yêu cầu khởi kiện, ông V có yêu cầu độc lập đối với ông
U cũng rU đơn yêu cầu. Tuy nhiên, sau đó khi ông U trả tiền Ngân hàng lấy bằng
khoản về thì ông U không giao cho ông V mà đi vay tiền bên ngoài, cụ thể là vay
tiền của bà Trần Mộng H, còn vay cụ thể số tiền bao nhiên thì ông V không biết.
Vì vậy, ông V yêu cầu Tòa án giải quyết công nhận việc chuyển nhượng đất
ngày 29/05/2005 giữa ông Nguyễn Quốc V và ông Nguyễn Văn D, bà Châu Thị T,
yêu cầu bà Trần Thị L có nghĩa vụ giao trả diện tích đất theo đo thực tế ngày
14/06/2023 là 4768,4m² (chưa trừ chỉ giới quy hoạch giao thông), đất tọa lạc phần
đất tọa lạc Ấp D, xã Đ, huyện Đ, tỉnh B.
Đối với yêu cầu hủy toàn bộ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ
ông Nguyễn Văn U ngày 01/10/2010 đối với diện tích đất 4768,4m², ông V có
nguyện vọng rút lại yêu cầu này. Ngoài ra ông V không trình bày và yêu cầu gì
thêm.
– Bị đơn bà Trần Thị L trình bày:
Bà L là vợ ông Nguyễn Văn U, ông U đã chết ngày 12/04/2023, ông U là
con ruột của ông Nguyễn Văn D (đã chết năm 2009) và bà Châu Thị T (đã chết
năm 2018).
Bà L là con dâu U của ông Nguyễn Văn D, bà Châu Thị T, về sống chung
cùng ông Nguyễn Văn U trong gia đình từ năm 2006, đến ngày 12/04/2023 thì ông
4
U chết, giữa bà L và ông U có 02 người con chung tên Nguyễn Minh T, sinh ngày
17/06/2006 và Nguyễn Minh Kh, sinh ngày 29/03/2012, hiện các con đang sống
với bà L.
Nguồn gốc phần đất đang tranh chấp giữa ông Nguyễn Quốc V và bà Trần
Thị L là của ông Nguyễn Văn D, bà Châu Thị T chết để lại cho ông Nguyễn Văn
U, bà Trần Thị L, hiện trạng phần đất là đất nuôi trồng thủy sản, do bà L quản lý sử
dụng, diện tích phần đất tranh chấp theo đo đạc thực tế ngày 14/06/2023 là
4768,4m² (chưa trừ chỉ giới quy hoạch giao thông), phần đất tọa lạc Ấp D, xã Đ,
huyện Đ, tỉnh B, sau khi ông D, bà T chết thì phần đất chuyển quyền sang cho ông
Nguyễn Văn U đứng tên, hiện bản gốc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi ông
U còn sống đã cầm cố cho bà Trần Mộng H, địa chỉ Ấp Hòa 1, xã L, huyện Đ, tỉnh
B với số tiền là 170.000.000đ, số tiền này bà L nghe bà H nói lại.
Từ khi bà L về làm dâu sống chung trong gia đình thì không có nghe nói gì
về việc có hay không việc chuyển nhượng đất đối với diện tích 4768,4m² giữa ông
Nguyễn Quốc V và ông Nguyễn Văn D, bà Châu Thị T, ông Nguyễn Văn U.
Vì vậy, việc ông Nguyễn Quốc V có đơn yêu cầu khởi kiện đối với bà Trần
Thị L đối với phần đất diện tích khoảng 4768,4m², đất tọa lạc Ấp D, xã Đ, huyện
Đ, tỉnh B với lý do ông V cho rằng trước đây ông V đã nhận chuyển nhượng của
ông Nguyễn Văn D, bà Châu Thị T đối với phần đất trên từ năm 2005 là bà L
không biết gì, nên không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của ông V, yêu cầu Tòa án
giải quyết theo quy định của pháp luật. Ngoài ra bà L không trình bày và yêu cầu
gì thêm.
– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Minh T trình bày: Chị
T thống nhất với nội dung bà Trần Thị L trình bày, không bổ sung và yêu cầu gì
thêm.
– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Mộng H trình bày: năm
2022, ông Nguyễn Văn U có vay tiền của bà nhiều lần với số tiền vay tổng cộng là
310.000.000 đồng, khi vay ông U có giao cho bà 01 bản gốc Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BB 101725 đứng tên hộ ông Nguyễn Văn U. Đối với số tiền
vay nêu trên bà không yêu cầu giải quyết trong vụ án này.
Từ nội dung nêu trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 119/2024/DS-ST ngày
25 tháng 12 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh B đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Quốc V đối với bà Trần
Thị L về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
2. Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 29/05/2005
giữa ông Nguyễn Quốc V và ông Nguyễn Văn D, bà Châu Thị T đối với diện tích
đất 4768,4m² (trong đó có 242,3m² thuộc chỉ giới quy hoạch giao thông), thuộc
thửa số 20, tờ bản đồ số 73, phần đất tọa lạc Ấp D, xã Đ, huyện Đ, tỉnh B, được Ủy
ban nhân dân huyện Đ cấp cho ông Nguyễn Văn U ngày 01/09/2010, phần đất có
vị trí, tứ cạnh như sau:
Hướng Đông giáp Lê Văn Thắng, Trần Văn Hòa, cạnh dài 111,72m;

5
Hướng Tây giáp Nguyễn Văn Xuyên, cạnh dài 106,6m;
Hướng Nam giáp sông Kênh Tư – Khâu, cạnh dài 43,10m;
Hướng Bắc giáp đường Long Điền Đông – Long Điền Tây, cạnh dài
46,10m.
Buộc bà Trần Thị L có nghĩa vụ giao cho ông Nguyễn Quốc V diện tích đất
4768,4m² (trong đó có 242,3m² thuộc chỉ giới quy hoạch giao thông), thuộc thửa số
20, tờ bản đồ số 73, phần đất tọa lạc Ấp D, xã Đ, huyện Đ, tỉnh B, được Ủy ban
nhân dân huyện Đ cấp cho ông Nguyễn Văn U ngày 01/09/2010.
Ông Nguyễn Quốc V có quyền và nghĩa vụ đến cơ quan chuyên môn có
thẩm quyền kê khai đăng ký quyền sử dụng đất theo quyết định của Tòa án.
3. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Quốc V đối với bà Trần Thị
L về việc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Nguyễn
Văn U đối với diện tích đất 4768,4m².
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng và quyền
kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 07 tháng 01 năm 2025, bị đơn bà Trần Thị L kháng cáo yêu cầu Tòa
án cấp phúc thẩm xét xử lại theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B phát biểu ý kiến:
+ Về thủ tục tố tụng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý
vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét
xử, Thư ký và các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự.
+ Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của bà L, giữ nguyên
Bản dân sự sơ thẩm số 119/2024/DS-ST ngày 25 tháng 12 năm 2024 của Tòa án
nhân dân huyện Đ, tỉnh B
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu toàn bộ các tài liệu chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ án đã
được thẩm tra tại phiên tòa, nghe ý kiến tranh luận của các đương sự và ý kiến phát
biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B, sau khi thảo luận, nghị án, Hội
đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Xét đơn kháng cáo của bà Trần Thị L nộp trong hạn luật định
và nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đúng quy định. Căn cứ Điều 273 và Điều
276 của Bộ luật Tố tụng dân sự, được chấp nhận xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về nội dung vụ án:
6
Xét đơn kháng cáo của bị đơn bà Trần Thị L, Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1] Nguyên đơn ông V và bị đơn bà L đều xác định nguồn gốc đất tranh
chấp là của ông Nguyễn Văn D và bà Châu Thị T. Ông V cho rằng diện tích đất
này ông D và bà T đã chuyển nhượng cho ông từ ngày 29/5/2005, bà L xác định
không biết việc chuyển nhượng giữa ông V và ông D, bà T, đất này ông D, bà T đã
giao cho vợ chồng ông U và bà L quản lý, sử dụng từ năm 2006 đến nay.
[2.2] Tại biên bản ghi lời khai ngày 10/12/2021, ông Nguyễn Văn Luận là
con ruột ông Nguyễn Văn D và bà Châu Thị T thừa nhận có việc chuyển nhượng
đất ngày 29/05/2005 giữa ông Nguyễn Quốc V và ông Nguyễn Văn D, bà Châu
Thị T khi cha mẹ ông còn sống, chữ trong giấy nhượng đất là đúng chữ ký của ông
D, bà T và đúng chữ ký của ông Luận (bút lục 125).
Lời trình bày của ông Luận phù hợp với lời trình bày của ông Nguyễn Văn
N và ông Giang Văn H, cả ông N và ông H đều xác định có trực tiếp chứng kiến
việc chuyển nhượng đất giữa ông V với vợ chồng ông D, bà T và có ký tên tại mục
“Bàn cận, Kế cận” (bút lục 43, 44).
[2.3] Hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài
sản giữa nguyên đơn Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt với bị đơn ông Nguyễn
Văn U, bà Trần Thị L, tại biên bản đo đạc, thẩm định đất ngày 12/7/2021, ông U
và bà L xác định: “Thửa đất số 20, tờ bản đồ số 73 có diện tích 4.768,4m
2
đã
chuyển nhượng cho ông Nguyễn Quốc V, ấp D, xã Đ, Đ, B, chuyển nhượng năm
2004, lúc cha tôi còn sống đã chuyển nhượng cho ông V nhưng chưa tách Giấy
chứng nhận QSDĐ sang cho ông V, hiện còn đứng tên tôi trong Giấy chứng nhận
QSDĐ, khi chuyển nhượng trước khi thế chấp cho ngân hàng” (bút lục 123, 124).
Từ những căn cứ nêu trên và theo chính sự thừa nhận của ông U, bà L, có cơ
sở xác định giữa ông V và ông D, bà T có việc thỏa thuận chuyển nhượng đất xảy
ra trên thực tế như Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định.
[2.4] Xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (Giấy nhượng đất) đề
ngày 29/5/2005, là giấy viết tay nên chưa đúng về mặt hình thức nhưng các bên đã
thanh toán đầy đủ tiền chuyển nhượng, ông V đã được giao đất thể hiện ở việc khi
Nhà nước tiến hành thu hồi một phần diện tích đất này thì ông V là người được
nhận tiền bồi thường, ông U và bà L biết được (do ông U cũng được bồi thường
đối với phần diện tích đất của ông U) nhưng không có ý kiến gì. Đồng thời, tại
Giấy xác nhận đề ngày 20/5/2024, ông Trần Văn D, bà Lưu Thị B, ông Phạm Văn
Kh, bà Dương Thị B, bà Phạm Thị L, bà Lưu Thị H xác định đất tranh chấp ông V
đã quản lý, sử dụng trên 15 năm, hàng năm ông V đều cho các ông bà đốn các cây
mắm trên đất. Do các bên đã thực hiện được trên 2/3 nghĩa vụ nên Tòa án cấp sơ
thẩm công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông V và ông D,
bà T là có căn cứ.
[2.5] Hiện trạng đất tranh chấp hiện nay là đất trống, không xây dựng công
trình gì. Khi Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ, cả ông V và bà L đều
xác định đất này do mình quản lý, sử dụng. Tại phiên tòa hôm nay, bà L xác định
7
đất này hiện nay bà đang quản lý nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc bà L trả lại đất cho
ông V là phù hợp.
[2.6] Đối với việc bà Trần Thị L có đơn yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định
chữ ký của ông Nguyễn Văn U và những người đã ký trong giấy nhượng đất với ông
Nguyễn Quốc V, xét yêu cầu này của bà L là không cần thiết vì việc chuyển nhượng
đất là giữa ông Nguyễn Quốc V với ông Nguyễn Văn D, bà Châu Thị T, chứ không
phải giữa ông V nhận chuyển nhượng đất của ông U và tại thời điểm chuyển nhượng
đất, phần đất này thuộc quyền sử dụng của ông D, bà T, việc ông Nguyễn Văn U,
ông Nguyễn Văn Luận ký tên trong giấy nhượng đất ngày 29/05/2005 là chỉ chứng
kiến cùng với những người khác như ông Nguyễn Văn Xuyên, ông Giang Văn H,
ông Nguyễn Văn N, có xác nhận của Trưởng Ấp D là ông Vương Kiên G. Hơn nữa
chính ông Nguyễn Văn Luận là con ruột ông Nguyễn Văn D, bà Châu Thị T thừa
nhận việc chuyển nhượng đất ngày 29/05/2005 giữa ông Nguyễn Quốc V và ông
Nguyễn Văn D, bà Châu Thị T khi cha mẹ ông còn sống, chữ ký trong giấy
nhượng đất ngày 29/05/2005 là đúng chữ ký của ông D, bà T và đúng chữ ký của
ông Luận nên yêu cầu này của bà L không được chấp nhận.
[3] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có cơ sở
chấp nhận kháng cáo của bà L, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số
119/2024/DSST ngày 25/12/2024 của Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh B.
[4] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên Hội đồng
xét xử chấp nhận.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: do kháng cáo không được chấp nhận nên bà
L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bà Trần Thị L. Giữ nguyên Bản án dân sự
sơ thẩm số 119/2024/DS-ST ngày 25 tháng 12 năm 2024 của Tòa án nhân dân
huyện Đ, tỉnh B.
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39,
Điều 217, Điều 227, Điều 228, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Điều 129, 500, 615 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 100, Điều 203 Luật đất đai
năm 2013 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Quốc V đối với bà Trần
Thị L về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 29/05/2005
giữa ông Nguyễn Quốc V và ông Nguyễn Văn D, bà Châu Thị T đối với diện tích
đất 4768,4m² (trong đó có 242,3m² thuộc chỉ giới quy hoạch giao thông), thuộc
8
thửa số 20, tờ bản đồ số 73, phần đất tọa lạc Ấp D, xã Đ, huyện Đ, tỉnh B, được Ủy
ban nhân dân huyện Đ cấp cho ông Nguyễn Văn U ngày 01/09/2010, phần đất có
vị trí, tứ cạnh như sau:
Hướng Đông giáp Lê Văn Thắng, Trần Văn Hòa, cạnh dài 111,72m;
Hướng Tây giáp Nguyễn Văn Xuyên, cạnh dài 106,6m;
Hướng Nam giáp sông Kênh Tư – Khâu, cạnh dài 43,10m;
Hướng Bắc giáp đường Long Điền Đông – Long Điền Tây, cạnh dài
46,10m.
Buộc bà Trần Thị L có nghĩa vụ giao cho ông Nguyễn Quốc V diện tích đất
4768,4m² (trong đó có 242,3m² thuộc chỉ giới quy hoạch giao thông), thuộc thửa số
20, tờ bản đồ số 73, phần đất tọa lạc Ấp D, xã Đ, huyện Đ, tỉnh B, được Ủy ban
nhân dân huyện Đ cấp cho ông Nguyễn Văn U ngày 01/09/2010.
Ông Nguyễn Quốc V có quyền và nghĩa vụ đến cơ quan chuyên môn có
thẩm quyền kê khai đăng ký quyền sử dụng đất theo quyết định của Tòa án.
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Quốc V đối với bà Trần Thị
L về việc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Nguyễn
Văn U đối với diện tích đất 4768,4m².
3. Chi phí thẩm định tại chỗ, định giá tài sản ông Nguyễn Quốc V đã dự nộp
3.208.122 đồng, đã chi phí hết, buộc bà Trần Thị L có nghĩa vụ hoàn lại ông
Nguyễn Quốc V số tiền 3.208.122 đồng.
4. Về án phí:
4.1. Án phí dân sự sơ thẩm: bà Trần Thị L phải chịu 300.000 đồng.
Số tiền dự nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng của ông Nguyễn Quốc V ngày
08/05/2023, lai thu số 0000170, tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, được
chuyển hoàn lại cho ông V.
4.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Buộc bà Trần Thị L phải chịu 300.000 đồng;
bà L đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu số
0010915 ngày 07/01/2025 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh B nên
được chuyển thu án phí.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TANDCC tại TP.HCM;
- Viện KSND tỉnh B;
- Đương sự;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
9
- Chi cục THADS huyện Đ;
- VKSND huyện Đ;
- TAND huyện Đ;
- Lưu: HSVA; THCTP.
Phùng Văn Định
10
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm