Bản án số 177/2025/DS-PT ngày 23/04/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 177/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 177/2025/DS-PT ngày 23/04/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 177/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyên đơn yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 177/2025/DS-PT
Ngày 23 - 4 - 2025
V/v Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng QSD đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lưu Thị Thu Hường.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Bằng; Ông Nguyễn Sỹ Thành.
- Thư ký phiên tòa: Ông Lê Khắc Anh - Thư ký TAND tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên toà:
Trương Thị Thu Thủy - Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắkxét x
phúc thẩm ng khai vụ án dân sự thụ số: 43/2025/TLPT-DS ngày 06/01/2025
về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”. Do kháng
cáo của bị đơn đối với Bản án dân sự thẩm s59/2024/DS-ST ngày 21/9/2024
của Tòa án nhân dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk. Theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử phúc thẩm số 179/2025/QĐ-DS ngày 06/3/2025 giữa các đương sự:
Nguyên đơn:
+ Ông Nguyễn Phúc L, sinh năm 1966. Nơi trú: Thôn E, C, huyện E, tỉnh
Đắk Lắk. (Vắng mặt)
+ Ông Nguyễn Xuân T. Nơi cư trú: Thôn F, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
(Vắng mặt)
+ Ông Nguyễn Xuân B. Nơi cư trú: Thôn F, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
(Vắng mặt)
Người đại diện theo ủy quyền của ông T, ông B là ông Nguyễn Phúc L. (Vắng
mặt)
Bị đơn: Ông Bùi Văn S, sinh năm 1968, bà Bùi Thị H, sinh năm 1972; Nơi cư
trú: Thôn A, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của ông Bùi Văn S: Ông Bùi Văn C, sinh năm
1985. Địa chỉ: Buôn K, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của Bùi Thị H: Ông Nguyễn Khắc D, sinh
năm 1990. Địa chỉ: Thôn E, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk có mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Ủy ban nhân dân dân thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Thanh H1.(Vắng mặt)
2
- Ông Trần Quang T1. Nơi cư trú: Tổ dân phố D, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk
Lắk. (Vắng mặt)
- Ông Phạm Xuân Đ. Nơi cứ trú: Thôn A, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
(Vắng mặt).
- Chị Bùi Hằng N, anh Bùi Trung T2. Nơi cứ trú: Thôn A, thị trấn E, huyện E,
tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt và có đơn từ chối tham gia tố tụng)
- Chị Bùi Hằng X, sinh ngày 26/8/2006. Nơi cư trú: Thôn A, thị trấn E, huyện
E, tỉnh Đắk Lắk. (Có mặt)
Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn H2.
Địa chỉ: Thôn A, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện, quá trình tố tụng tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền
của nguyên đơn ông Nguyễn Xuân T, ông Nguyễn Xuân B đồng thời
nguyên đơn ông Nguyễn Phúc L trình bày:
Chúng tôi là con của ông Nguyễn Xuân L1 (Sinh năm 1938, chết ngày
16/9/2019) và mẹ là Bùi Thị M (Sinh năm 1942, chết ngày 28/5/1978). Vào khoảng
tháng 4/2003 (AL) ông Nguyễn Xuân L1 nhu cầu mua đất nên đưa tiền nhờ
ông L (là con của ông L1) đứng ra mua đất của ông S H với diện tích đất
1023m
2
(Chiều rộng 11m, chiều dài 93m) là một phần thửa đất có diện tích 5530m
2
của H, ông S được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ số R 429191, tại Thôn A, thị trấn
E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, vị trí thửa đất chuyển nhượng có tứ cận: Phía Đông giáp
nhà anh T3; phía Tây giáp đường đi vào 714; phía Bắc giáp vườn anh H3; phía Nam
giáp ông S bà H, stiền chuyển nhượng 14.800.000 đồng. Ngày 25/08/2003
các bên kết hợp đồng chuyển nhượng chữ chữ viết của H được
BTQ thôn 14 - thị trấn E được UBND thị trấn E xác nhận việc chuyển nhượng.
Ông L1 đã giao đủ tiền cho ông S và bà H, đồng thời bà H và ông S đã giao đất cho
ông L1 sử dụng, sau đó gia đình tôi không có nhu cầu sử dụng đất nên cho H, ông
Sáu M1 lại đất để trồng cỏ nuôi bò, ông S không vào hợp đồng nhưng ông S
người trực tiếp nhận tiền làm giấy tờ sang nhượng đất và sau đó đưa cho ông L
Giấy tờ chuyển nhượng đất.
Vào ngày 31/6/2005 ông S, bà H cần bán đất để mua bò, nên đã đặt vấn đề với
ông L1 để bán tiếp phần diện tích đất 88m
2
(Chiều rộng 01m, chiều dài 88m) trong
thửa đất của H và ông S diện tích 88m
2
này nằm sát với diện tích ông L1 đã
mua vào ngày 25/8/2003. Diện tích 88m
2
có tứ cận: Phía Bắc giáp đất ông L1; phía
Tây giáp đường đi 714; phía Nam giáp đất anh S; phía Đông giáp đất anh C1. Bà H
là người ký viết giấy tờ này và bên phía bà H đã giao đất và ông L1 giao tiền đầy
đủ cho vợ chồng bà H và ông S.
3
Tuy nhiên, sau khi nhận chuyển nhượng đất từ ông S và bà H xong do chưa có
điều kiện để đi làm thủ tục sang tên theo quy định của pháp luật. Gia đình chúng tôi
không có nhu cầu sử dụng nên cho ông S, bà H mượn lại để trồng cỏ nuôi bò.
Khi ông L1 bị bệnh nặng, tôi có yêu cầu bà Bùi Thị H và ông Bùi Văn S cùng
ông L1 đi làm thủ tục chuyển nhượng QSDĐ đối với diện tích đã chuyển nhượng ở
trên, nhưng H không chịu đi làm thủ tục, với do: H không thừa nhận số diện
tích đã chuyển nhượng cho ông L1 là 1023m
2
vào ngày 25/8/2003, bà H chỉ thừa
nhận chuyển nhượng diện tích 88m
2
vào ngày 31/6/2005. Vậy nên, ông L1 không
làm được thủ tục chuyển nhượng QSDĐ.
Vào năm 2019, ông L1 nguyện vọng muốn xây nhà tại phần đất đã nhận
chuyển nhượng nên có đổ gạch ngói để xây nhà, bà H và ông S không có ý kiến gì,
nhưng một thời gian thì ông L1 mất nên không xây nhà được nữa.
Trước lúc chết, ông L1 không để lại di chúc cho các con về di sản thừa kế. Hiện
tại ông L, ông B và ông T những người con của ông L1 thuộc hàng thừa kế thứ
nhất, ông bà nội, ngoại (bố, mẹ của ông L1, bà M) đã chết hết, ông L, ông B và ông
T được hưởng di sản của ông L1, bà M để lại trước lúc chết.
Ông L là người đại diện theo ủy quyền của các hàng thừa kế của ông L1 khởi
kiện, yêu cầu công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày
25/8/2003 và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (lập ngày 31/6/2005, diện
tích 1111m
2
(Chiều rộng 12m, chiều dài 93m) trong thửa đất 89, tờ bản đồ số 11; địa
chỉ thửa đất; Thôn A, thị trấn E, huyện E, giữa ông Nguyễn Xuân L1 với bà Bùi Thị
H và ông i Văn S có hiệu lực pháp luật và đề nghị Tòa án lấy kết quả đo đạc hiện
trạng sử dụng đất để làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án. Đối với cây trồng trên đất
thì chúng tôi sẽ trách nhiệm trả số tiền cây trồng trên đất cho bị đơn bị đơn
phải trách nhiệm hoàn tất thủ tục chuyển nhượng QSD đất theo quy định của pháp
luật.
* Bị đơn tại bản tự khai; biên bản lấy lời khai các biên bản làm việc tại
Tòa án và tại phiên tòa Bùi Thị H trình bày:
Nguồn gốc quyền sử dụng đất số R 429191, thuộc thửa đất số 11, tờ bản đồ số
89, diện tích được cấp là 5530m
2
, tại thôn A, thtrấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, thửa
đất mặc cấp cho hộ Bùi Thị H nhưng thực chất đây tài sản của vợ chồng
được mẹ bà H cho.
Đối với giấy chuyển nhượng đất ngày 25/8/2003 H không biết, H xác
định chtrong giấy chuyển nhượng phía nguyên đơn cung cấp không phải chữ
viết và chữ của H. H không thừa nhận việc mua bán đất này. H cũng
chưa bao giờ nghe ông S nói đã bán đất cho ai, diện tích đất theo như ông L đã
trình bày đã bán cho ông L1 thì H vẫn sử dụng từ thời điểm khai hoang từ
khoảng 1988 cho đến nay.
4
Đối với giấy chuyển nhượng đất lập ngày 31/6/2005 giữa ông Nguyễn
Xuân L1 mà ông L đã cung cấp cho Tòa án, bà H thừa nhận là H có bán cho ông
L diện tích 88m
2
(Chiều rộng 01m, chiều dài 88m) trong thửa đất số 89, tờ bản đồ
số 11 trên. Chữ ký chữ viết là của bà nhưng do ông S là người bắt ép bà H viết giấy
bán đất, bà H viết xong và đưa cho ông S, còn việc nhận tiền thì do ông S nhận. Giá
chuyển nhượng đất là bao nhiêu thì bà H cũng không hề biết. Sau khi bán đất xong
thì không thấy ông L1, ông L sử dụng nên bà H vẫn sử dụng đất từ thời gian đó cho
đến nay. Trong giấy ghi tứ cận, vị trí thửa đất các bên nhận chuyển nhượng 1m đất
trên thực địa ghi cạnh phía bắc giáp với đất của ông L1 ông S bảo H viết
như thế nào thì H viết nthế, thời điểm đó H không biết ông L hay ông
L1 mua bán như thế nào.
Nay nguyên đơn yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất lập ngày 25/8/2003 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (lập ngày
31/6/2005, tổng của hai hợp đồng 1111m
2
(Chiều rộng 12m, chiều dài 93m) trong
thửa đất 89, tờ bản đồ số 11; địa chỉ thửa đất: Thôn A, thị trấn E, huyện E, giữa ông
Nguyễn Xuân L1 với bà Bùi Thị H và ông Bùi Văn S hiệu lực pháp luật thì bà H
không đồng ý với hợp đồng ngày 25/8/2003, H chđồng ý với hợp đồng ngày
31/6/2005 bán với diện tích 88m
2
(Chiều rộng 01m, chiều dài 88m) trong thửa đất
số 89, tờ bản đồ số 11.
Tại bản tự khai các biên bản làm việc tại Tòa án tại phiên tòa bị đơn
ông Bùi Văn S trình bày:
Bùi Thị H là vợ của tôi. Hợp đồng chuyển nhượng ngày 25/8/2003 với diện
tích đất là 1023m
2
(Chiều rộng 11m, chiều dài 93m) như ông L đã cung cấp thì ông
S không đồng ý. Ông S thừa nhận bán cho ông L 10m theo trục đường đi từ E
vào xã E, chiều dài là 88m. Có tứ cận như sau: Phía đông: giáp đất nhà ông S; Phía
tây: giáp đất nhà ông H3, H5; Phía nam: giáp đường đường nhựa; Phía bắc: Giáp
đất nghĩa địa. Đất thuộc thửa đất số 11, tờ bản đồ số 89, trong diện tích được cấp là
5530m
2
, thửa đất tại thôn A, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, cấp cho hộ Bùi Thị
H, (nay là thửa 233, tờ bản đồ số 11). Giá trị chuyển nhượng đất là 1,2tr/m x 10m
= 12.000.000 đồng. Việc mua bán có lập giấy tờ viết tay giữa ông L với ông S, ngày
tháng năm chuyển nhượng đất cho ông L thì ông S không nhớ rõ, hợp đồng chuyển
nhượng 10m đất này hợp đồng khác, ông S giấy chuyển nhượng, không phải
hợp đồng ngày 25/8/2003 ông L đã cung cấp cho tòa án. Tại thời điểm bán
xong thì ông S yêu cầu ông L thực hiện việc sang tên GCNQSĐ nhưng ông L
không làm. Việc chuyển nhượng đất giữa ông S và ông L thì ông S có nói với ông L
là bà H không biết, ông L đồng ý mua được thì ông L mua.
Đến 2022 H mới biết việc ông S bán đất cho ông L, vì ông L ra nhà nói
với H làm thủ tục sang tên GCNQSĐ. Thửa đất trên đứng tên hộ H, nhưng ông
5
S nghĩ mình chồng thì cứ đứng ra bán. Sau khi các bên nhận chuyển nhượng đất
cho nhau xong rồi thì ông S giao cho giấy tờ và giao bìa đất phô tô cho ông L cầm,
ông S đã nhận đủ tiền bán đất từ ông L.
Đối với giấy tờ giấy sang nhượng đất ngày 31/6/2005 H bán 01m đất thì ông
S có biết, việc mua bán giữa ông S và ông L làm việc với nhau, ông S đã nhận đủ số
tiền bán đất, còn 01m đất tgiáp với thửa đất 10m ông S đã bán cho ông L. Ông
S người giao dịch chuyển nhượng đất với ông L chkhông liên quan đến
ông L1 là bố của ông L. Giấy chuyển nhượng này H người viết chứ ông S
không viết.
Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất lập
ngày 25/8/2003 giấy sang nhượng đất ngày 31/6/2005 ông S chỉ thừa nhận bán
11m chứ không phải là theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là 12m.
Tại bản tự khai người quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bùi Hằng N, ông
Bùi Trung T2 trình bày: Chúng tôi com của ông S, H. Chúng tôi xác định thửa
đất số 89, tờ bản đồ số 11, nguồn gốc của thửa đất này là do ông N1 cho mẹ tôi,
tại thời điểm chúng tôi chưa sinh ra. Tôi xác định tài sản này của mẹ tôi không
phải là của chúng tôi.
Tại văn bản trình bày ý kiến người quyền lợi nghĩa vụ liên quan UBND
thị trấn E trình bày: Ngày 29/08/2003 UBND thị trấn E xác nhận việc sang nhượng
quyền sử dụng đất của hộ bà Bùi Thị H. Hiện nay UBND thị trấn E không có cơ sở
để xác định đúng, sai việc sang nhượng, chữ của các bên và ai người mang hợp
đồng đến UBND xã để xác nhận vì: Không có hồ lưu trữ, ông Nguyễn Văn N2
người ký hồ sơ đã chết, cán bộ địa chính đã thay đổi, hiện nay đang công tác tại xã
C, huyện E.
Tại biên bản lấy lời khai ông Phạm Quang T4 trình bày: Tôi được TAND
huyện Ea Kar cung cấp 01 giấy sang nhượng đất vào năm 2003 phần xác nhận
của tôi ông Phạm Văn N3 (đã chết) phó chủ tịch UBND thị trấn xác nhận đóng
dấu. Qua xem xét giấy sang nhượng do đã lâu tôi không nhớ rõ ai là người đưa giấy
đến để xác nhận, còn chữ ký của bà H có phải của bà H hay không thì tôi không
biết. Tuy nhiên, phần xác nhận của tôi thì chỉ căn cứ vào phần xác nhận của Ban tự
quản, tôi cũng kiểm tra xác định đất đã giấy chứng nhận QSD đất không tranh
chấp hay đơn từ gửi ra Ủy ban, không thế chấp tại ngân hàng, tôi cũng chỉ xem
xét đất đủ điều kiện để chuyển nhượng yêu cầu các bên sớm thực hiện việc
chuyển nhượng theo quy định của pháp luật, chứ tôi không phải người lập hồ
chuyển nhượng cho các bên. Mục đích tôi xác nhận đất đủ điều kiện để chuyển
nhượng hay không để các bên thực hiện việc mua bán theo quy định của pháp
luật lập hợp đồng, công chứng chứng thực, chứ không xác nhận nội dung mua bán
tay với nhau.
6
Tại biên bản lấy lời khai ông Phạm Xuân Đ trình bày: Tôi (Đóa) có làm thôn
trưởng thôn 14, thị trấn E vào năm 2003. Vào thời điểm này (tôi không nhớ rõ ngày
tháng) ông Bùi Văn S (chồng H) có đưa cho tôi 01 giấy sang nhượng đất nhờ ban
tự quản thôn xác nhận. Khi tôi xem lại nội dung giấy sang nhượng nội dung “Nay
tôi mảnh vườn, đã được nhà nước cấp quyền sử dụng đất số R429191, diện tích
5530m
2
, nay gia đình tôi sang nhượng lại cho anh Nguyễn Xuân L1 thường ttại
K, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk một mảnh vườn nhà số đo là chiều rộng 11m,
chiều dài là 93m. Sau khi tôi xem giấy sang nhượng có chữ ký của bà Bùi Thị H thì
tôi hỏi tại sao một mình H ký, ông S nói đất cấp cho hộ Bùi Thị H nên
một mình bà H ký. Vì tôi nghĩ có việc mua bán thực sự, ông S cũng là chủ đất và là
chồng của bà H nên tôi cũng không hỏi gì thêm nên đã xác nhận nội dung mua bán
cho các bên thực hiện việc sang tên theo quy định của pháp luật. Việc các bên thực
hiện việc mua bán đất, bàn giao tiền và lập biên bản ở đâu thì tôi không biết, không
chứng kiến, tới nhà tôi xác nhận ch có mình ông S, không có ông L1, bà H, còn
phải chữ của H hay không thì tôi không biết, ông S, bà H việc bán đất
thì tôi chỉ xác nhận theo quy định.
Biên bản lấy lời khai ông Nguyễn Văn H2 trình bày: Giữa ông với các đương
sự trong vụ án không có quan hệ hay mâu thuẫn gì. Vào năm 2000 ông H2 mua
của ông S, bà H diện tích đất là 412m
2
(ngang 5m, dài 84m). Vào khoảng năm 2003
bố mẹ tôi là ông Nguyễn Mạnh H3 có mua thêm 01 diện tích đất 588m
2
(ngang 7m,
dài 84m) giáp phần đất tôi mua. Cũng vào năm 2003, ông Nguyễn Phúc L mua
của ông S, bà H diện tích đất khoảng 10m. Vào khoảng năm 2005 – 2006 tôi có biết
ông L mua thêm 1m chiều ngang giáp phần đất đã mua trước đó. Xác định
việc mua bán đất giữa ông L với ông S, H đúng sự thực. Sau khi mua đất xong
nhưng không có nhu cầu sử dụng nên có cho nhà ông S và bà Hồng M2 để trồng c
nuôi Bò. Phần diện tích đất ông L mua giáp ranh đất của bố mẹ tôi mua, nhưng sau
đó bố mẹ tôi đã chuyển nhượng cho ông Phạm Văn H4 và bà Nguyễn Thị Kim H5.
Ông L có cắm mc ranh giới trên đất. Năm 2019 tôi thấy ông L đổ gạch ngói trên
đất để xây dựng nhà thì các bên phát sinh tranh chấp.
Tại bản án dân sthẩm số: 59/2024/DS ST ngày 21 tháng 9 m 2024
của Toà án nhân dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
- Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Căn cứ các Điều 689, 697, 698 Bộ luật dân sự 2005; Điều 500, 501, 502 Bộ
luật dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 31 Luật đất đai năm 1993; Điều 106 Luật đất
đai năm 2003; Các Điều 166, 167, 188 Luật đất đai năm 2013.
I. Chấp nhận đơn khởi kiện của ông Nguyễn Xuân T, ông Nguyễn Xuân B
ông Nguyễn Phúc L.
7
Tuyên xử: Công nhận hợp đồng chuyển nhượng QSD đất xác lập ngày
29/08/2003, ngày 31/06/2005 giữa ông Nguyễn Xuân L1 với ông Bùi Văn S
Bùi Thị H có diện tích 1111m
2
(diện tích còn lại là 1078.9m
2
)
thuộc một phần thửa
đất số 233, tbản đồ số 11, diện tích 3440m
2
, tại Thôn A, thị trấn E, huyện E, tỉnh
Đắk Lắk có vị trí theo hệ tọa độ VN2000, tứ cận và cạnh dài như sau:
+ Phía Đông: Từ cạnh 1 tọa độ X504643.01, Y1414009.06 đến cạnh 2
tọa độ X504648.81, Y1413998.56 có cạnh dài 12m. (Giáp đường đất)
+ Phía Tây: Từ cạnh 5 có tọa độ X504562.61, Y1413968.45 đến cạnh 6 có tọa
độ X504558.03, Y1413979.54 cạnh dài 12m. (Giáp đường liên xã E đi E)
+ Phía Nam: Từ cạnh 2 có tọa độ X504648.81, Y1413998.56 đến cạnh 5 tọa
độ X504562.61, Y1413968.45 cạnh dài 91.31m. (Giáp thửa đất ông S và bà H)
+ Phía Bắc: Từ cạnh 1 có tọa độ X504643.01, Y1414009.06 đến cạnh 6 có tọa
độ X504558, Y1413979.54 cạnh dài 89.96m. (Giáp thửa đất số 232, tờ bản đồ số 11)
(Kèm theo bản án bản vẽ hoàn công của Công ty cổ phần Đ1 đo đạc hiện
trạng sử dụng đất ngày 27/06/2023)
Buộc hộ gia đình ông Bùi Văn S Bùi Thị H phải thực hiện các thủ tục
hành chính tại quan nhà nước thẩm quyền để thực hiện việc chuyển nhượng
thửa đất trên theo quy định của pháp luật.
Buộc nguyên đơn ông Nguyễn Xuân T, ông Nguyễn Xuân B ông Nguyễn
Phúc L phải trả cho bị đơn ông Bùi Văn S và bà Bùi Thị H giá trị cây trồng trên đất
là 5.541.000 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chí phí tố tụng, án phí và quyền kháng
o của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn Bùi Thị H kháng cáo toàn bộ bản án. Đề
nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn vẫn giữ
nguyên nội dung đơn kháng cáo
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa phát
biểu quan điểm:
Về thtục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Thư
Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; các đương
sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì kháng cáo của bị đơn
không sở để chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử ginguyên quyết định của
Bản án sơ thẩm. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm tuyên bộc bị đơn phải thực hiện các thủ tục
hành chính tại quan nhà nước thẩm quyền để thực hiện việc chuyển nhượng
thửa đất trên theo quy định của pháp luật là không đúng quy định của pháp luật.
8
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu tài liệu trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về nội dung: Ông Nguyễn Phúc L, ông Nguyễn Xuân T ông Nguyễn
Xuân B (là hàng thừa kế thứ nhất của ông Nguyễn Xuân L1) khởi kiện đnghị công
nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 25/8/2003 và Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 31/6/2005 giữa ông Nguyễn Xuân L1
với bà Bùi Thị H ông Bùi Văn S với tổng diện tích chuyển nhượng của cả 02 Hợp
đồng 1111m
2
(Chiều rộng 12m, chiều dài 93m), thuộc một phần thửa đất số 89,
tờ bản đồ số 11 (Nay là thửa đất số 233, tờ bản đồ số 11), địa chỉ thửa đất Thôn A,
thị trấn E, huyện E có hiệu lực pháp luật.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và kháng cáo của bị đơn, Hội đồng
xét xử xét thấy:
[2.1] Nguyên đơn cung cấp 02 Hợp đồng về việc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất viết tay gồm Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 25/8/2003
và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 31/6/2005, tại mục người
bán ghi họ tên là Bùi Thị H, người mua nêu trong Giấy sang nhượng ông Nguyễn
Xuân L1. Quyền sử dụng đất nêu trong Hợp đồng chuyển nhượng ngày 25/8/2003
thuộc thửa đất 89, tờ bản đồ số 11 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R
429191 do UBND huyện E cấp ngày 09/11/2001 cho hBùi Thị H. Nay thuộc
một phần thửa đất số 233 tờ bản đồ số 11 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số CG 050207 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 27/12/2016 cho hộ
Bùi Thị Hông Bùi Văn S.
Theo nội dung của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất lập ngày
25/8/2003, giữa người chuyển nhượng Bùi Thị H và người nhận chuyển
nhượng là ông Nguyễn Xuân L1 thì thửa đất chuyển nhượng có chiều rộng là 11m,
dài 93m, vị trí, tứ cận: phía đông giáp nanh T3; phía tây giáp đường lớn đi vào
714; phía nam giáp nhà ông S H; phía bắc giáp anh H3, với giá chuyển nhượng
là 14.800.000 đồng. Hợp đồng được BTQ thôn 14 là ông Phạm Xuân Đ, cán bộ địa
chính thị trấn E Trần Quang T1 UBND thị trấn E xác nhận vào ngày 29/8/2003.
Ông S cho rằng trước đây ông chỉ chuyển nhượng cho ông L thửa đất có chiều
rộng 10m chkhông chuyển nhượng cho ông L1 như Hợp đồng ông L cung cấp.
H thì cho rằng không biết hợp đồng này làm đơn yêu cầu giám định chữ
chữ viết. Tại Kết luận giám định số 539/KL KTHS ngày 26/04/2024 của Phòng K
Công an tỉnh Đ kết luận không đủ cơ sở kết luận chữ ký, chữ viết Bùi Thị H trong
Hợp đồng so với mẫu so sánh có phải do cùng một người ký, viết ra. Tuy nhiên, tại
Biên bản lấy lời khai của TAND huyện Ea Kar, ông Phạm Xuân Đ thôn trưởng
c nhận: Ông S người đưa hợp đồng lập ngày 25/08/2003 đến nhà ông đề
9
nghị ông xác nhận việc gia đình H chuyển nhượng đất. Sau khi tôi xem giấy
sang nhượng có chữ của bà Bùi Thị H thì ông Đ có hỏi tại sao một mình H ký,
ông S nói đất cấp cho hộ bà Bùi Thị H nên một mình H ký. Nghĩ việc mua
bán thực sự, ông S ng là chủ đất và là chồng của H nên ông Đ cũng không hỏi
thêm nên đã xác nhận nội dung mua bán cho các n thực hiện việc sang tên theo
quy định của pháp luật. Hợp đồng còn có xác nhận của cán bộ địa chính và đại diện
UBND thtrấn. Do đó, có sở khẳng định Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất
lập ngày 25/8/2003 là do ông S mang ký xác nhận và giao cho gia đình nguyên đơn
quản lý. Ông S không đưa ra được chứng cchứng minh chỉ bán cho ông L thửa đất
với chiều rộng là 10m.
[2.2] Tại hợp đồng chuyển nhượng QSD đất lập ngày 31/06/2005 giữa người
nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Xuân L1 người chuyển nhượng là Bùi
Thị H, quá trình giải quyết tại cấp thẩm, ông S H đều thừa nhận H
người viết Hợp đồng này. Hợp đồng ghi đất chuyển nhượng chiều rộng mặt đường
là 01m, chiều dài là 88m, vị trí, tứ cận: phía đông giáp anh C1; phía tây giáp đường;
phía nam giáp anh S; phía bắc giáp ông L1. Như vậy, khi viết giấy bán đất với chiều
rộng 01m vào năm 2005, ông S và H đã xác định hướng Bắc giáp đất ông L1.
Nếu không việc ông S, H đã bán đất cho ông L1 vào m 2003 thì thực tế
hướng Bắc thửa đất giáp đất ông H3. Do đó, sở khẳng định ông S, H biết
việc chuyển nhượng đất giữa ông S với ông L1 theo như Hợp đồng được xác lập
ngày 25/08/2003. Bà H cho rằng bị ông S ép buộc viết giấy chuyển nhượng đất lập
ngày 31/06/2005 và không được nhận tiền nhưng từ khi viết giấy chuyển nhượng
ngày 25/8/2005, bà H không có ý kiến gì về Hợp đồng này. Quá trình tố tụng, bà H
không có căn cứ nào khác chứng minh cho lời trình bày của mình.
[2.3] Tại các Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên đều thể hiện bên
bán đã nhận đủ tiền chuyển nhượng và giao đất cho bên mua, nội dung này p
hợp lời khai nguyên đơn và người làm chứng Nguyễn Văn H2.
[2.4] Từ các nhận định nêu trên, sở xác định vợ chồng ông S, bà H
chuyển nhượng QSD đất cho ông Nguyễn Xuân L1 theo nội dung các giấy sang
nhượng lập ngày 25/08/2003 ngày 31/6/2005. Hợp đồng chuyển nhượng lập ngày
31/06/2005 giữa ông Nguyễn Xuân L1 Bùi Thị H chiều rộng mặt đường
01m chiều dài 88m mặc không đủ điều kiện để tách thửa nhưng thửa đất này
nằm liền kề với thửa đất mà các bên đã xác lập hợp đồng ngày 25/08/2003 nên toàn
bộ diện tích đất nhận chuyển nhượng đủ điều kiện tách thửa theo quy định. Do đó,
cấp sơ thẩm công nhận 02 hợp đồng này có hiệu lực với diện tích theo biên bản đo
đạc hiện trạng 1078.9m
2
buộc nguyên đơn phải trả cho bị đơn số tiền 5.541.000
đồng giá trị cây trồng trên đất gồm Mía, 15 bụi chuối, 01 gốc Sung, 52 cây Keo, 03
cây Bạch đàn là có căn cứ.
10
[3] Án sơ thẩm buộc bị đơn ông Bùi Văn SBùi Thị H phải thực hiện các
thủ tục hành chính tại quan nhà nước thẩm quyền để thực hiện việc chuyển
nhượng thửa đất trên theo quy định của pháp luật không thể thi hành án được. Sau
khi án có hiệu lực pháp luật, bên nhận chuyển nhượng có quyền liên hệ cơ quan
thẩm quyền khai nhận di sản thừa kế, thực hiện thủ tục sang tên theo quy định. Do
đó, cần điều chỉnh cách tuyên để đảm bảo công tác thi hành án.
[4] Từ những phân ch nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy không
schấp nhận kháng cáo của bị đơn Bùi Thị H về việc sửa án thẩm theo
hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[5] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn bà Bùi Thị H. Giữ nguyên Bản án
dân sự sơ thẩm số 59/2024/DS-ST ngày 21 tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân dân
huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk.
- Căn cứ các Điều 689, 697, 698 Bộ luật dân sự 2005; Điều 500, 501, 502 Bộ
luật dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 31 Luật đất đai năm 1993; Điều 106 Luật đất
đai năm 2003; Các Điều 166, 167, 188 Luật đất đai năm 2013;
- Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy đinh về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn: ông Nguyễn Xuân T, ông
Nguyễn Xuân B và ông Nguyễn Phúc L.
[1.1] Công nhận giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn
Xuân L1 với ông Bùi Văn S Bùi Thị H theo hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất xác lập ngày 29/08/2003 ngày 31/06/2005 đối với thửa đất diện
tích thực tế 1078.9m
2
hiệu lực pháp luật, đất
thuộc một phần thửa đất số 233,
tờ bản đồ số 11 có diện tích là 3440m
2
, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
CG 050207 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 27/12/2016 cho hộ bà
Bùi Thị H ông Bùi Văn S. Địa chỉ thửa đất tại Thôn A, thị trấn E, huyện E, tỉnh
Đắk Lắk. Vị trí thửa đất theo hệ tọa độ VN2000, tứ cận và cạnh dài như sau:
+ Phía Đông: Từ cạnh 1 tọa độ X504643.01, Y1414009.06 đến cạnh 2
tọa độ X504648.81, Y1413998.56 có cạnh dài 12m. (Giáp đường đất)
+ Phía Tây: Từ cạnh 5 có tọa độ X504562.61, Y1413968.45 đến cạnh 6 có tọa
độ X504558.03, Y1413979.54 cạnh dài 12m. (Giáp đường liên xã E đi E)
+ Phía Nam: Từ cạnh 2 tọa độ X504648.81, Y1413998.56 đến cạnh 5 tọa
11
độ X504562.61, Y1413968.45 cạnh dài 91.31m. (Giáp thửa đất ông S và bà H)
+ Phía Bắc: Từ cạnh 1 có tọa độ X504643.01, Y1414009.06 đến cạnh 6 có tọa
độ X504558, Y1413979.54 cạnh dài 89.96m. (Giáp thửa đất số 232, tờ bản đồ số 11)
(Kèm theo bản án bản vẽ hoàn công của Công ty cổ phần Đ1 đo đạc hiện
trạng sử dụng đất ngày 27/06/2023).
Nguyên đơn ông Nguyễn Xuân T, ông Nguyễn Xuân Bông Nguyễn Phúc L
có quyền và nghĩa vụ liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện thủ tục
đăng ký, sang tên quyền sử dụng thửa đất nêu trên theo quy định của pháp luật.
[1.2] Buộc nguyên đơn ông Nguyễn Xuân T, ông Nguyễn Xuân B ông
Nguyễn Phúc L phải trả cho bị đơn ông Bùi Văn S và bà Bùi Thị H giá trị cây trồng
trên đất là 5.541.000 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu Thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải
thi hành án còn phải chịu tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy
định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
[2] Về án phí, chi phí tố tụng:
[2.1] Chi phí tố tụng:
* Về chi phí xem xét thẩm định và định giá tài sản: Buộc ông Bùi Văn S và bà
Bùi Thị H phải trả lại cho ông Nguyễn Xuân T, ông Nguyễn Xuân B ông Nguyễn
Phúc L số tiền 11.000.000 đồng.
* Về chi phí giám định: buộc ông Nguyễn Xuân T, ông Nguyễn Xuân B ông
Nguyễn Phúc L phải trả lại cho bà Bùi Thị H và ông Bùi Văn S số tiền là 1.440.000
đồng.
[2.2] Về án phí sơ thẩm:
Bị đơn ông Bùi Văn SBùi Thị H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân
sự sơ thẩm không giá ngạch.
Ông Nguyễn Xuân T, ông Nguyễn Xuân B ông Nguyễn Phúc L cùng phải
chịu 300.000 đồng án phí DSST có giá ngạch.
Ông Nguyễn Xuân T, ông Nguyễn Xuân B và ông Nguyễn Phúc L không phải
chịu án phí DSST không giá ngạch. Hoàn trả lại cho ông Nguyễn Phúc L 300.000
đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2021/00204883, ông Nguyễn Xuân
T 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2021/00204882, ông
Nguyễn Xuân B 300.000 đồng tiền tạm úng án phí theo biên lai thu số
AA/2021/00204881 cùng ngày 11/01/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện E.
[2.3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Bùi Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí
dân sự phúc thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí
phúc thẩm theo Biên lai thu số 0000699 ngày 03/10/2024 tại Chi cục thi hành án dân
sự huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
12
[3] Các quyết định khác của bản án thẩm không bkháng cáo, kháng nghị
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a Điều 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng; Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện Ea Kar;
- Chi cục THADS huyện E; (Đã )
- Đương sự;
- Công thông tin điện tử Tòa án;
- Lưu.
Lưu Thị Thu Hường
Tải về
Bản án số 177/2025/DS-PT Bản án số 177/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 177/2025/DS-PT Bản án số 177/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất