Bản án số 06/2025/DS-PT ngày 20/05/2025 của TAND tỉnh Hà Giang về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 06/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 06/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 06/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 06/2025/DS-PT ngày 20/05/2025 của TAND tỉnh Hà Giang về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Hà Giang |
Số hiệu: | 06/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 20/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bản án DSPT Tranh chấp tài sản thừa kê giữa chị Lệnh Thị T và ông Lệnh Hậu Đ1 |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: ông Nguyễn Mạnh Cường.
Các Thẩm phán: ông Lâm Anh Luyện, ông Bùi Văn Đàm.
- Thư ký phiên tòa: ông Nguyễn Đức Trung - Thư ký viên, Tòa án nhân
dân tỉnh Hà Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang tham gia phiên tòa:
bà Vương Thị Chiêm - Kiểm sát viên.
Ngày 16/5/2025 và ngày 20/5/2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà
Giang xét xử công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số 22/2024/TLPT-DS
ngày 16/10/2024 về việc “Tranh chấp về thừa kế tài sản”. Do Bản án dân sự sơ
thẩm số 02/2024/DSTC-ST ngày 05/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh
Hà Giang bị kháng cáo theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2025/QĐ-PT
ngày 17/01/2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: chị Lệnh Thị T, sinh năm 1975, địa chỉ: thôn N, thị trấn T,
huyện Q, tỉnh Hà Giang, có mặt.
Người bảo vệ quyền và vợi ích hợp pháp của nguyên đơn: ông Lương
Thành Đ, bà Nguyễn Thanh H - Luật sư Công ty L4, Đoàn luật sư thành phố H,
địa chỉ: Tòa H, KĐT L, phường H, quận Đ, thành phố Hà Nội, có mặt bà H,
vắng mặt ông Đ (có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Bị đơn: ông Lệnh Hậu Đ1, sinh năm 1958, địa chỉ: thôn N, thị trấn T,
huyện Q, tỉnh Hà Giang, có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: ông Ngô Trung K -
Luật sư, Văn phòng L5 thuộc Đoàn Luật sư tỉnh H; Địa chỉ 283, đường N,
phường T, thành phố H, tỉnh Hà Giang, vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: anh Lệnh Thế Đ2, sinh năm
1990, địa chỉ: thôn N, thị trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang, có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: anh Lệnh Thế Đ3, sinh năm
1979, địa chỉ: Thôn N, thị trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang, có mặt.
- Người kháng cáo: nguyên đơn chị Lệnh Thị T.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HÀ GIANG
Bản án số: 06/2025/DS-PT
Ngày 20-5-2025
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
V/v Tranh chấp về thừa kế tài sản
2
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 03/12/2020 và quá trình giải quyết vụ án nguyên
đơn chị Lệnh Thị T trình bày:
Do vợ chồng ông Lệnh Hậu T1 và bà Lục Thị Ư không có con đẻ nên vào
năm 1979 đã nhận chị về làm con nuôi khi được 4 tuổi, chị sinh sống cùng bố
mẹ nuôi đến năm 1994 sau đó đi lấy chồng tại huyện C, tỉnh Tuyên Quang và
sinh được 01 con gái. Vào tháng 02/2005, chị ly hôn sau đó hai mẹ con quay lại
về sống cùng ông T1, bà Ư, đến tháng 10/2005 ông T1 dựng 01 ngôi nhà tạm
trên đất của gia đình để hai mẹ con chị sinh sống, sau đó ông có cho chị một số
thửa đất để chị canh tác, còn vợ chồng ông T1, bà Ư vẫn tự lo kinh tế riêng, vẫn
tự lao động sản xuất trên đất của ông bà, có lúc chị sang giúp đỡ công việc cho
bố mẹ nuôi. Vào ngày 23/12/2009 ông T1 và bà Ư có lập di chúc, nội dung di
chúc để lại toàn bộ tài sản nhà ở, đất cho chị gồm:
Đất thổ cư diện tích giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK064412;
nhà sàn gỗ 3 gian; các phương tiện đồ dung trong nhà; các loại cây ăn quả; gia
súc, gia cầm; vườn rừng; đất giao khoán gồm 17 thửa kèm theo các Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số AK064411, AK064413, AK064436;
đất trồng lúa GCNQSDĐ số AK64435, AI361071, AK 064434; đất nương trồng
ngô GCNQSDĐ số AK064356, AK 064355.
Ngoài ra, trong di chúc có nội dung: người được hưởng di sản có trách
nhiệm chăm sóc, phụng dưỡng hai vợ chồng ông T1, bà Ư đến khi qua đời và
phúng viếng, thờ cúng sau này. Khi lập di chúc vợ chồng ông T1 có mời 03
người làm chứng là ông Nguyễn Đình K1, ông Hạng Mí V là hàng xóm, còn bà
Lục Thị N là cháu bà Lục Thị Ư có mặt, ông Nguyễn Đình K1 là người soạn
thảo di chúc, tuy nhiên do bị tẩy xóa nhiều nên có nhờ cháu Ma Thị T2 (con gái
chị) là người chép lại. Sau đó vợ chồng ông T1 và những người có mặt ký vào di
chúc, thời gian sau chị có mang di chúc đến UBND thị trấn T đề nghị đóng dấu
xác nhận. Sau khi lập di chúc xong ông T1 có giao toàn bộ GCNQSDĐ cho chị
quản lý.
Đến tháng 5 năm 2010, ông Lệnh Hậu T1 đột ngột qua đời (do treo cổ tự
tử), khi đó chị không có mặt, khi biết tin chị quay về thì gia đình ông Lệnh Hậu
Đ1 và anh em, dòng họ đang tổ chức làm ma, chị có vào chịu tang thì gia đình
ông Đ1 và mọi người ngăn cản, sau đó không cho chị T đến ở cùng và chăm sóc
bà Ư mà anh L Thế Điều và gia đình ông Đ1 chăm sóc đến ngày 26/03/2015 thì
bà Ư chết. Từ khi ông T1 chết không được canh tác trên đất của bố mẹ nuôi nên
năm 2020 chị đã làm đơn đến Tòa án để yêu cầu ông Lệnh H1 Điện trả lại tài
sản theo di chúc mà ông T1, bà Ư đã để lại cho chị, bao gồm:
- Ngôi nhà sàn ba gian hai trái dựng trên diện tích đất có GCNQSDĐ số
AK 064412.
- Đất vườn rừng tại thôn N, thị trấn T, huyện Q diện tích 5.365m
2
.
- Diện tích đất có GCNQSDĐ số AK064412 gồm 08 thửa, tổng diện tích
958m
2
; địa chỉ thửa đất tại thôn N, thị trấn T, huyện Q.
3
- Diện tích đất có GCNQSDĐ số AK064411 gồm 03 thửa đất LUK, tổng
diện tích 577,3m
2
.
- Diện tích đất có GCNQSDĐ số AK064413 gồm 03 thửa đất LUK, tổng
diện tích 537m
2
.
- Diện tích đất có GCNQSDĐ số AK064436 gồm 09 thửa đất LUK, tổng
diện tích 2.267,4m
2
.
- Diện tích đất có GCNQSDĐ số AK064435 gồm 02 thửa đất LUK, tổng
diện tích 823,8m
2
.
- Diện tích đất có GCNQSDĐ số AI 361071 đất LUA diện tích 128m
2
.
- Diện tích đất có GCNQSDĐ số AK064434 gồm 03 thửa đất LUK, tổng
diện tích 239,9m
2
.
- Diện tích đất có GCNQSDĐ số AK064356 gồm 02 thửa đất (thửa 150
và 300 tờ bản đồ số 46, tổng diện tích 1139,9m
2
).
Tại giai đoạn xét xử sơ thẩm lần 1 chị T yêu cầu ông Đ1 bồi thường thiệt
hại: về ngôi nhà 3 gian: Ván bưng, hiên buồng; cây xà dầm, cây dải bằng tre; cột
nhà cũ, công thợ lắp giáp, công trình xuống cấp; chuồng trâu và chuồng lợn bị
hư hỏng có tổng giá trị là 180.000.000 đồng. Tổng thu thóc lúa 01 năm 76 bao =
28.000.000 đồng x 12 năm (không được sử dụng đất) = 336.000.000 đồng. Trừ
chi phí sản xuất yêu cầu bồi thường 1/3 số tiền = 112.000.000 đồng. Tổng số
tiền nguyên đơn yêu cầu bồi thường là 277.000.000 đồng.
Tại bản án sơ thẩm 02/2022/DS-ST ngày 30/12/2022 đã chấp nhận một
phần đơn khởi kiện và công nhận di chúc ngày 23/12/2009 là hợp pháp. Sau đó
chị có đơn kháng cáo, bản án phúc thẩm số 06/2023/DS-PT ngày 28/3/2023 hủy
bản án sơ thẩm số 02/2022/DS-ST với nội dung xác định quan hệ tranh chấp
theo đơn khởi kiện là đòi lại tài sản là di sản thừa kế và chưa xác minh, thu thập
chứng cứ để xác định bản di chúc nào có hiệu lực.
Sau khi tự thu thập chứng cứ diện tích đất tại thửa đất 150 tờ bản đồ số
46, GCNQSDĐ số AK 064356 là do bà Lục Thị Ư đã chuyển nhượng cho vợ
chồng ông Hoàng Đức D và bà Séo Thị X, ngày 23/01/2024, chị có đơn đề nghị
rút một phần yêu cầu khởi kiện gồm: Không đề nghị giải quyết thửa đất 150 tờ
bản đồ số 46 trong GCNQSDĐ số AK 064356, do bà Ư là người chuyển nhượng
và rút yêu cầu bị đơn bồi thường thiệt hại tổng số tiền là 277.000.000 đồng.
Ngày 11/3/2024, chị T có đơn thay đổi nội dung khởi kiện, đề nghị Tòa án
giải quyết cho chị được thừa hưởng toàn bộ tài sản theo di chúc mà ông T1 và bà
Ư đã lập ngày 23/12/2009 (trừ thửa đất số 150 bà Ư đã chuyển nhượng cho ông
Hoàng Đức D và bà Séo Thị X). Không chấp nhận nội dung phản tố của bị đơn
cho rằng chị vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng và không chấp nhận các chứng cứ bị
đơn đưa ra gồm: Biên bản họp gia đình về con nuôi của anh em gia đình ông T1
có chữ ký và Ưởi ngày 12/7/2010 và di chúc của bà Ư lập ngày 01/10/2010 để
lại toàn bộ tài sản cho anh Lệnh Thế Đ3 (con trai ông Đ1) với lý do lúc đó bà Ư
lúc đó không còn minh mẫn, tỉnh táo để lập di chúc, mà do ý chí của ông Đ1 và
anh em gia đình lập ra vào năm 2020 nhằm được hưởng tài sản của bố nuôi chị
để lại. Lúc đó chị có nộp bản di chúc lên UBND thị trấn để làm thủ tục thì gia
đình ông Đ1 mới có thông tin như bản di chúc của ông T1 đã lập năm 2009.
4
Ngoài ra, chị thừa nhận sau khi ông T1 chết bà Ư ở cùng gia đình ông Đ1, anh
Đ3 cho đến khi chết vào năm 2015. Lý do chị không chăm sóc bà Ư là do gia
đình ông Đ1 đã ngăn cản, khi bà Ư chết cũng do ông Đ1 đứng ra làm ma và
chăm sóc phần mộ sau này. Về tài sản của ông T1, bà Ư để lại do ông Đ1 và
anh Đ3 quản lý, sử dụng từ đó cho đến nay, chị chỉ được sử dụng 01 thửa đất có
GCNQSDĐ số AK 064355 gồm 02 thửa đất LUK, tổng diện tích 823,8m
2
.
Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Lệnh Hậu Đ1, người đại diện
theo uỷ quyền anh Lệnh Thế Đ2 cùng trình bày:
Quá trình chị T về làm con nuôi nhưng cũng không giúp được gì vợ
chồng ông T1, bà Ư, thậm trí còn để lại những điều tiếng không hay làm phiền
lòng đến bố mẹ nuôi đã có công sức nuôi nấng chị trưởng thành, bố anh và anh
em họ hàng đều biết. Thực tế từ khi về làm con nuôi ông T1, bà Ư lúc còn nhỏ
được vợ chồng ông T1, bà Ư chăm sóc, nuôi dưỡng khi lớn lên khoảng 18 - 20
tuổi chị tự bỏ đi lấy chồng, vợ chồng ông T1 không đồng ý nên cũng không
cưới xin gì, sau 10 năm chị quay về cùng con gái, lúc này ông T1 bà Ư không
cho ở chung, sau thời gian ngắn làm ngôi nhà nhỏ cho mẹ con chị sinh sống, còn
ông T1 bà Ư tự lo cuộc sống của mình, khi ông T1 đột ngột qua đời (treo cỏ tự
tử) thấy rằng có nguyên nhân do chị T lấy trộm GCNQSDĐ của ông dẫn đến
ông tự vẫn, nên gia đình, dòng họ không cho chị vào chịu tang, việc lo tang lễ do
bà Ư và anh em gia đình anh đứng ra lo liệu. Sau đó đến tháng 7/2010 bà Ử họp
gia đình cùng anh em ruột ông T1 thống nhất không chấp nhận chị T làm con
nuôi và giao cho anh anh Lệnh Thế Đ3 là con trai của bố anh đến ở cùng và
chăm sóc, đến ngày 01/10/2010 bà Ư lập di chúc để lại toàn bộ tài sản, nhà cửa
cho anh Đ3 được hưởng. Hiện nay bố anh, anh Đ3 vẫn đang canh tác và sinh
sống trên các diện tích đất mà nguyên đơn đã nêu ở trên. Hiện nay bố anh là ông
Lệnh Hậu Đ1 không đồng ý đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc
được hưởng di sản của ông T1, bà Ư để lại theo di chúc bởi vì chị T không có
trách nhiệm phụng dưỡng bố mẹ nuôi, hơn nữa trong số tài sản của ông T1, bà Ư
có các thửa đất của bà Lương Thị L1 là mẹ đẻ ông để lại gồm: GCNQSDĐ số
AK 064435 gồm 02 thửa đất 1100 và 1102 tổng diện tích 823,8m
2
; GCNQSDĐ
số AI 361071 thửa đất 1164 có diện tích 128,1m
2
; GCNQSDĐ số AK 064434
gồm 03 thửa đất 1108,1109,1107 có tổng diện tích 239,9m
2
. Sau khi ông T1 chết
bà Lục Thị Ư đã thay đổi di chúc để lại tài sản cho anh Lệnh Thế Đ3. Ngoài ra
bố anh (ông Đ1) có đơn phản tố đề nghị di chúc ông T1, bà Ư lập ngày
23/12/2009 không có hiệu lực vì chị vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với người
để lại di sản. Tại phiên tòa bố anh còn cho biết khi ông T1 chết bà Ư là người
đứng ra tổ chức đám tang, khi bà Ư chết năm 2015 bố anh và dòng họ làm ma
tại nhà anh Đ3, sau đó việc thờ cúng theo phong tục địa phương, chăm sóc mộ
phần hằng năm đều do anh Đ3 lo liệu. Hiện nay nếu chị T có thiện chí thì đề
nghị chia đôi diện tích các loại đất ông T1 và bà Ư để lại, nếu không nhất trí đề
nghị giải quyết theo pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lệnh Thế Đ3 trình bày:
Khi ông Lệnh Hậu T1 mất, bà Ư và gia đình anh đứng ra tổ chức đám
tang theo phong tục địa phương cho ông T1, bà Ư ban đầu ở một mình chị T
5
không ở cùng, sau đó vợ chồng anh hàng ngày cơm nước cho bà, đến ngày
25/7/2010 bà Ư là chủ hộ họp gia đình không chấp nhận chị T là con nuôi, đến
ngày 01/10/2010 đã lập di chúc để lại toàn bộ tài sản cho anh gồm: GCNQSDĐ
các số AK 064411, AK 064412, AK 064413, AK 064434, AK 064435, AK
064436, AI 361071, AK 064356, AK 064355, 01 nhà sản gỗ 3 gian 2 trái tường
trình đất. Ngoài ra, di chúc còn ghi rõ đất vườn rừng và đất 5% để lại do dòng
tộc, gia đình sử dụng chung, Đồng thời, anh là người thừa kế có trách nhiệm
phụng dưỡng bà Ư và tài sản thừa kế chỉ được sử dụng, không được chuyển
nhượng cho người khác. Việc họp gia đình và lập di chúc có người làm chứng,
sau đó anh nhận trách nhiệm chăm sóc bà Lục Thị Ư đến khi bà Ư chết. Về ngôi
nhà của anh là xây dựng năm 2012 trên đất của bà Lương Thị L1 là bà nội của
anh Đ3, khi xây dựng ngôi nhà này anh đã báo với trưởng thôn. Hiện nay anh đi
làm ăn xa, ngôi nhà và các diện tích đất đang tranh chấp đều do ông Lệnh Hậu
Đ1 quản lý, sử dụng. Anh không nhất trí với yêu cầu đòi lại toàn bộ tài sản thừa
kế của chị T vì trong thời gian chăm sóc bà Ư, bà đã lập lại di chúc để lại toàn
bộ tài sản của ông bà để cho anh quản lý, sử dụng. Ngoài ra, khi bà Ư lập di
chúc cho anh được hưởng di sản anh đã tạo dựng được tài sản trên thửa số 1102,
tờ bản đồ số 55, GCNQSDĐ số AK 064435 gồm:
- Kè bờ ao xây đá hộc vữa 50# chiều dày 30cm, cao 1m, tổng chiều dài
32,2m có giá trị: 9,7m
3
x 678.000
đ
x 1,1 = 7.234.260 đồng. Giá trị còn lại:
7.234.260
đ
x 30% = 2.170.278 đồng
- Nhà 01 tầng, mái chảy, xây gạch bi, mái fibro xi măng, kích thước 9,1m
x 6,9m: 33,3% có giá trị: 62,8m
2
x 2.338.000
đ
x 1,1 = 161.509.040 đồng. Giá trị
còn lại 161.509.040
đ
x 33,3% = 53.782.510 đồng
- Nhà 01 tầng, mái chảy, xây gạch bi, mái tôn, kích thước 5,0m x 6,9m:
33,3% có giá trị: 34,5m
2
x 2.338.000
đ
x 1,1 = 88.727.100 đồng. Giá trị còn lại
88.727.100 x 33,3% = 29.546.124 đồng.
- Chuồng nuôi gia súc, xây gạch, nền bê tông, mái fibro xi măng, kích
thước 3,9m x 6,9m: 33,3% có giá trị: 26,9m
2
x 912.000
đ
x 1,1 = 26.986.080
đồng. Giá trị còn lại 26.986.080
đ
x 33,3% = 8.986.364 đồng.
Tổng cộng: 110.678.076 đồng.
Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2024/DSTC-ST ngày 05/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Q, tỉnh Hà Giang đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 5 Điều 26, 35, 39, 144, 147, 157, 158, 165 và Điều 166
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 646, 647, 648, 649 ,650, 652 ,653, 663,
664, 668, và 670 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 59, Điều 66 của Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2014; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận một phần khởi kiện của chị Lệnh Thị T về việc được hưởng di
sản của ông T1, bà Ư để lại.
Chấp nhận một phần phản tố của ông Lệnh Hậu Đ1 nộp ngày 07/9/2023 về
việc không chấp nhận chị T được hưởng toàn bộ tài sản của ông T1, bà Ư để lại.
6
Chấp nhận một phần yêu cầu của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
anh Lệnh Thế Đ3 được hưởng di sản của bà Lục Thị Ư để lại.
- Giao cho chị Lệnh Thị T được quyền quản lý, sử dụng các tài sản
sau:
+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 064355, tờ bản đồ số 46, có
địa chỉ tại thôn N, thị trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang, gồm các thửa: 580, 457,
716, 578. Tổng diện tích 1057,9m
2
trị giá 53.970.800 đồng.
+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 064356, tờ bản đồ số 46, có
địa chỉ tại thôn N, thị trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang, số thửa: số 300, Loại đất
trồng cây hàng năm khác; diện tích: 504,2m
2
, trị giá: 26.218.400 đồng.
+ Diện tích đất tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 064411, tờ
bản đồ số 54 do UBND huyện Q, tỉnh Hà Giang cấp ngày 14/12/2006: gồm 3
thửa: 869, 870, 894.Tổng diện tích 577,3m
2
, trị giá: 31.751.500 đồng
+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 064413, tờ bản đồ số 54 do
UBND huyện Q, tỉnh Hà Giang cấp ngày 14/12/2006: gồm 3 thửa: 881, 897,
898. Tổng diện tích: 537m
2
, trị giá: 29.535.000 đồng.
+ Diện tích đất tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 064434, tờ
bản đồ số 55 do UBND huyện Q, tỉnh Hà Giang cấp ngày 14/12/2006: gồm 3
thửa: 1108, 1107, 1109. Tổng diện tích: 239,9m
2
, trị giá: 13.194.500 đồng.
+ Diện tích đất tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AI 361071, tờ
bản đồ số 55 do UBND huyện Q, tỉnh Hà Giang cấp ngày 14/12/2006: gồm 1
thửa: 1164, diện tích 128,1m
2
, trị giá: 7.045.500 đồng.
+ Diện tích đất rừng trồng phòng hộ thửa 443, tờ bản đồ số 01 địa chỉ thôn
N, thị trấn T, huyện Q. tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 185991,
diện tích 5.365m
2
, trị giá 159.054.000 đồng.
Tổng trị giá: 320.768.200 đồng.
- Giao cho anh Lệnh Thế Đ3 được quản lý, sử dụng các tài sản sau:
+ Diện tích đất tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 064412, tờ
bản đồ số 54 do UBND huyện Q, tỉnh Hà Giang cấp ngày 14/12/2006: gồm 8
thửa: 905, 907, 908, 913, 914, 915,930, 933. Tổng diện tích 958m
2
và tài sản
trên đất trị giá: 234.461.000 đồng.
+ Diện tích đất tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 064436, tờ
bản đồ số 55 do UBND huyện Q, tỉnh Hà Giang cấp ngày 14/12/2006: gồm 9
thửa: 1046, 967, 960, 880, 963, 962, 961, 879, 965. Tổng diện tích: 2.267,4m2,
trị giá: 124.707.000 đồng
+ Diện tích đất tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 064435, tờ
bản đồ số 55 do UBND huyện Q, tỉnh Hà Giang cấp ngày 14/12/2006: gồm các
2 thửa: 1100, 1102. Tổng diện tích 823,8m
2
trị giá: 44.374.800 đồng.
Tổng trị giá: 403.542.800 đồng.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền lập hồ sơ địa chính cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo đúng quyết định này.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí xem xét, thẩm định
tại chỗ, định giá tài sản, quyền kháng cáo của các đương sự.
7
Ngày 20/9/2024, nguyên đơn chị Lệnh Thị T có đơn kháng cáo đối với
Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2024/DSTC-ST ngày 05/9/2024 của Tòa án nhân
dân huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang với nội dung: đề nghị Toà án cấp phúc thẩm
tiến hành giám định tuổi mực của bản di chúc ghi ngày 01/10/2010 mà phía bị
đơn cung cấp; xem xét lại những tài sản giao cho anh Lệnh Thế Đ3 quản lý và
sử dụng.
Trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm, chị Lệnh Thị T có đơn đề
nghị Toà án trưng cầu giám định đối với chữ ký "Ưởi" trong bản di chúc thừa kế
lập ngày 01/10/2010, biên bản nuôi con nuôi ngày 25/7/2010 so với chữ ký
"Ưởi" trong văn bản di chúc, giấy uỷ quyền do ông T1, bà Ư lập ngày
23/12/2009 để có cơ sở giải quyết vụ án.
Tại phiên toà, nguyên đơn tiếp tục xác nhận xin rút một phần yêu cầu khởi
kiện đối với thửa đất số 150 tờ bản đồ số 46, diện tích 635,7m
2
tại GCNQSDĐ
số AK064356 và yêu cầu ông Đ1 bồi thường 277.000.000 đồng.
Đối với nội dung kháng cáo, nguyên đơn xin rút nội dung kháng cáo đối
với yêu cầu xem xét giám định tuổi mực của bản di chúc ghi ngày 01/10/2010
mà phía bị đơn cung cấp; giữ nguyên nội dung kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm
xem xét lại những tài sản giao cho anh Lệnh Thế Đ3 quản lý và sử dụng.
Bị đơn, người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan không nhất trí với nội dung kháng cáo của nguyên đơn, đề
nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang có ý kiến:
Về tố tụng: quá trình thụ lý, giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm Thẩm
phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự; các đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố
tụng theo quy định của pháp luật.
Tại đơn khởi kiện ngày 11/3/2024 của chị T (bút lục số 450-451): Chị T
không xác định người bị kiện là ai; chị T đề nghị được hưởng di chúc của ông
T1, bà Ư. Vụ án có 02 di chúc gồm: Di chúc ngày 23/12/2009 của ông T1, bà Ư
và di chúc ngày 01/10/2010 của bà Ư. Theo di chúc ngày 01/10/2010, bà Ư để
lại tài sản cho anh Đ3 thừa kế. Trong vụ án này, ông Lênh Hậu Đ1 không được
hưởng di sản thừa kế và không phải thực hiện nghĩa vụ gì nên ông Đ1 không
phải là bị đơn trong vụ án và không có quyền phản tố. Vì vậy, xác định bị đơn là
anh Lệnh Thế Đ3 mới đúng quy định tại khoản 3 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự.
Trong bản án sơ thẩm nhận định: “Nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện được
hưởng thửa đất số 150 tờ bản đồ số 46, diện tích 635,7m
2
tại Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AK064356 và yêu cầu ông Đ4 bồi thường 277.000.000
đồng. Căn cứ khoản 4 Điều 224 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử đình chỉ
yêu cầu khởi kiện trên”. Tuy nhiên, phần quyết định của bản án không áp dụng
căn cứ khoản 2 Điều 224 Bộ luật tố tụng dân sự và đình chỉ việc rút một phần
yêu cầu khởi kiện của chị T là thiếu sót.
Về nội dung:
Đối với hiệu lực của 02 di chúc: di chúc ngày 23/12/2009 của ông T1, bà
Ư có người làm chứng là ông ông Nguyễn Đình K1, ông Hạng Mí V. Di chúc
8
ngày 01/10/2010 của bà Ư có 02 người làm chứng là ông Nguyễn Minh C, ông
Cao Đình V1. Những người làm chứng của cả 02 di chúc nêu trên đều xác nhận
sau khi lập di chúc ông T1, bà Ư đều ký trước mặt những người làm chứng.
Về phân chia di sản: các đương sự đều thừa nhận anh Đ3 đã trực tiếp
chăm sóc bà Ư từ năm 2010 đến khi bà Ư chết vào tháng 02/2015, gia đình ông
Đ4 và anh Đ3 đã đứng ra mai táng cho bà Ư. Anh Đ3 thờ cúng chăm sóc phần
mộ ông T1, bà Ư từ đó cho đến nay. Do vậy, việc Tòa án sơ thẩm giao cho anh
Đ3 được hưởng phần nhiều hơn so với phần được hưởng theo di chúc, phù hợp
với thực tế và đúng với di nguyện của bà Ư là có căn cứ.
Do đó, không có căn cứ để chấp nhận nội dung kháng cáo của nguyên đơn
chị Lệnh Thị T.
Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm có thiếu sót là xác định không đúng tư
cách tham gia tố tụng của các đương sự; có sai sót trong việc cộng tổng giá trị
tài sản, cụ thể: di sản của ông T1, bà Ư có tổng giá trị là 724.514.410 đồng, chứ
không phải là 724.313.410 đồng như trong bản án sơ thẩm; nội dung sai sót này
dẫn đến việc xác định trách nhiệm chịu chi phí tố tụng, án phí không chính xác.
Từ các căn cứ trên, đề nghị HĐXX căn cứ áp dụng khoản 2 Điều 308,
Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
1. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 05/9/2024 của Toà
án nhân dân huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang.
- Áp dụng khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự đình chỉ một phần yêu
cầu khởi kiện của chị Lệnh Thị T đối với yêu cầu được hưởng di sửa thừa kế đối
với thửa đất số 150 , tờ bản đồ số 46, diện tích 635,7m
2
tại Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AK 064356 và yêu cầu ông Đ1 bồi thường số tiền
277.000.000đồng do chị Lệnh Thị T rút một phần yêu cầu.
- Áp dụng khoản 3 Điều 284 Bộ luật Tố tụng dân sự đình chỉ một phần nội
dung kháng cáo đối với yêu cầu xem xét giám định tuổi mực của bản di chúc ghi
ngày 01/10/2010.
- Chấp nhận một phần khởi kiện của chị Lệnh Thị T về việc được hưởng di
sản của ông T1, bà Ư để lại.
+ Tuyên bố bản di chúc của ông T1, bà Ư lập ngày 23/12/2009 có hiệu lực
một phần đối với phần tài sản của ông Lệnh Hậu T1.
+ Tuyên bố bản di chúc của bà Lục Thị Ư lập ngày 01/10/2010 có hiệu lực
một phần đối với phần tài sản của bà Lục Thị Ư.
* Chia cho chị Lệnh Thị T được quyền quản lý, sử dụng các tài sản sau:
+ Diện tích 1.037,9m
2
đất, thửa đất số 457, 580, 716, 578; tờ bản đồ số 46
tại thôn N, thị trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số AK 064355, có giá trị 53.970.800 đồng.
+ Diện tích 504,2m
2
đất,
thửa đất số 300, tờ bản đồ số 46 tại thôn N, thị trấn
T, huyện Q, tỉnh Hà Giang theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK
064356, có giá trị: 26.218.400 đồng.
9
+ Diện tích 577,3m
2
đất, thửa đất số 869, 870, 894; tờ bản đồ số 54 tại
thôn N, thị trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số AK 064411, có giá trị: 31.751.500 đồng.
+ Diện tích 537m
2
đất, thửa đất số 881, 897, 898; tờ bản đồ số 54 tại thôn
N, thị trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số AK 064413, có giá trị: 29.535.000 đồng.
+ Diện tích 239,9m
2
đất, thửa đất số 1107, 1108, 1109; tờ bản đồ số 55 tại
thôn N, thị trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số AK 064434, có giá trị: 13.194.500 đồng.
+ Diện tích 128,1m
2
đất, thửa đất số 1164, tờ bản đồ số 55 tại thôn N, thị
trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AI
361071, có giá trị: 7.045.500 đồng.
+ Diện tích 5.365m
2
đất rừng trồng phòng hộ, thửa đất số 443, tờ bản đồ số
01 tại thôn N, thị trấn T, huyện Q theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
BO 185991, có giá trị 159.054.000 đồng.
Tổng giá trị di sản chị T được hưởng là: 320.769.700 đồng.
* Chia cho anh Lệnh Thế Đ3 được quản lý, sử dụng các tài sản sau:
+ Diện tích 958m
2
đất, thửa đất số 905, 907, 908, 913, 914, 915, 930, 933;
tờ bản đồ số 54 tại thôn N, thị trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số AK 064412 và tài sản trên đất giá trị: 234.662.910
đồng.
+ Diện tích 2.267,4m
2
đất, thửa đất số 879, 880, 960, 961, 962, 963, 965,
967,1046; tờ bản đồ số 55 tại thôn N, thị trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 064436, có giá trị: 124.707.000
đồng.
+ Diện tích 823,8m
2
đất, thửa đất số: 1100, 1102; tờ bản đồ số 55 tại thôn
N, thị trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số AK 064435, có giá trị: 44.374.800 đồng.
Tổng giá trị di sản anh Đ3 được hưởng là: 403.744.710 đồng.
Các đương sự có trách nhiệm liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền để làm
thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quyết định của bản án.
- Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Số tiền chi phí
thẩm định, định giá là: 13.200.000 đồng. Chị T được hưởng di chúc chiếm tỷ lệ
44,3% phải chịu 5.847.600 đồng được khấu trừ vào tiền tạm ứng thẩm định,
định giá đã nộp. Anh Đ3 được hưởng di chúc chiếm tỷ lệ 55,7% phải chịu
7.352.400 đồng tiền chi phí thẩm định, định giá tài sản. Do chị T đã nộp toàn bộ
chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản nên anh Đ3 phải hoàn trả
cho chị T số tiền 7.352.400 đồng.
- Về chi phí giám định: chị T phải chịu chi phí giám định là 877.500 đồng
(chị T đã thi hành xong).
- Về án phí: Chị Lệnh Thị T phải chịu 16.038.000 đồng án phí dân sự có
giá ngạch được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 10.000.000 đồng theo
10
biên lai thu tiền tạm ứng án phí số BB/2013/05062 ngày 09/12/2020. Chị T còn
phải nộp 6.038.000 đồng.
Anh Lệnh Thế Đ3 phải chịu 20.187.000 đồng án phí dân sự có giá ngạch.
Ông Lệnh Hậu Đ1 không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại ông Đ1
300.000 đồng tiền tạm ứng phản tố đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Quản Bạ ngày 07/09/2023 theo biên lai số 0004550.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: căn cứ khoản 2 Điều 148 Bộ luật tố tụng
dân sự; khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: chị Lệnh Thị T không phải chịu án phí
dân sự phúc thẩm, trả lại số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên
lai số 0002822 ngày 25/9/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quản Bạ,
tỉnh Hà Giang.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa,
kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Hà Giang tại phiên tòa. Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:
[1] Về tố tụng: kháng cáo của nguyên đơn chị Lệnh Thị T làm trong hạn
luật định quy định tại Điều 271, Điều 272, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự
được Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về xác định tư cách tham gia tố tụng: tại phiên toà phúc thẩm chị Lệnh
Thị T xác nhận nội dung, yêu cầu khởi kiện của chị là yêu cầu công nhận bản di
chúc ngày 23/12/2009 của ông T1, bà Ư có hiệu lực pháp luật và yêu cầu ông
Lệnh Hậu Đ1 trả lại tài sản là di sản thừa kế cho chị T quản lý, sử dụng theo nội
dung di chúc ngày 23/12/2009, vì theo chị T số tài sản này đang bị ông Lệnh
Hậu Đ1 chiếm giữ. Tai phiên toà phúc thẩm ông Lệnh Hậu Đ1, anh Lệnh Thế
Đ3 đều xác nhận số tài sản là diện tích đất do bà Lục Thị Ư để lại theo di chúc
lập ngày 01/10/2010 do anh Lệnh Thế Đ3 quản lý, sử dụng từ năm 2010 cho đến
nay; ông Đ1 có liên quan đến việc tổ chức đám ma khi ông T1, bà Ư mất; có sự
việc ông Đ1 và gia đình ngăn cản cho chị T tham gia đám ma của ông T1, bà Ư;
việc Toà án cấp sơ thẩm xác định ông Đ1 là bị đơn là không đúng, nhưng cũng
không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự và
không làm thay đổi bản chất nội dung của vụ án. Mặt khác, Toà án cấp sơ thẩm
đã đưa anh Lệnh Thế Đ3 vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến phần tài sản là di sản thừa kế; sau phiên toà
sơ thẩm ông Lệnh Hậu Đ1, anh Lệnh Thế Đ3 không kháng cáo, các đương sự
khác trong vụ án không có ý kiến về nội dung này; bản chất nội dung, yêu cầu
khởi kiện của chị T là tranh chấp tài sản thừa kế. Do đó, HĐXX xét thấy không
cần thiết phải thay đổi tư cách tham gia tố tụng của ông Đ1, anh Đ3 trong vụ án
này.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm vắng mặt ông Lương Thành Đ luật sư bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn, vắng mặt ông Ngô Trung K luật sư
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn (cả hai luật sư đều có đơn xin xét
11
xử vắng mặt). Tuy nhiên, có mặt luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
nguyên đơn là bà Nguyễn Thanh H; đồng thời tại phiên toà nguyên đơn (người
kháng cáo), bị đơn đều nhất trí và đề nghị tiếp tục xét xử. HĐXX xét thấy những
người này vắng mặt không làm ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó, HĐXX quyết
định tiến hành xét xử theo thủ tục chung.
[4] Xét nội dung kháng cáo của chị Lệnh Thị T
[5] Về hiệu lực của bản di chúc được ông T1, bà Ư lập vào ngày
23/12/2009: bản di chúc được ông Lệnh Hậu T1 và bà Lục Thị Ư lập ngày
23/12/2009 có 02 người làm chứng là ông Nguyễn Đình K1, ông Hạng Mí V với
nội dung để lại toàn bộ tài sản cho chị Lệnh Thị T với điều kiện chị phải có
nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, thờ cúng khi ông bà qua đời, đây là di chúc có
điều kiện, là di chúc chung của vợ chồng. Bản di chúc này được 02 người làm
chứng xác nhận là khi lập di chúc ông T1, bà Ư đều tỉnh táo, minh mẫn và ký
vào bản di chúc, ông K1, ông V được ký vào bản di chúc này; nội dung bản di
chúc đúng theo quy định tại Điều 653 Bộ luật Dân sự năm 2005. Như vậy, bản
di chúc của ông T1, bà Ư lập vào ngày 23/12/2009 là hợp pháp theo quy định tại
650, 652, 653, 656, 663, 668 Bộ luật Dân sự năm 2005.
[6] Đối với bản di chúc được bà Ư lập vào ngày 01/10/2010
[7] Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà phúc thẩm nguyên đơn chị
Lệnh Thị T, luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị T cho rằng bản di
chúc ngày 01/10/2010 của bà Ư được lập khi bà Ư không còn tỉnh táo, minh
mẫn; di chúc thừa kế của bà Ư có nội dung như cuộc họp gia đình không phản
ánh, thể hiện đúng ý chí chủ quan của bà Ư; việc lập di chúc là do ông Đ1 và
anh em gia đình lập ra sau năm 2020; không nhất trí với việc Toà án cấp sơ thẩm
chia phần tài sản nhiều hơn cho anh Đ3 so với chị T. Do đó, đề nghị tuyên bố
bản di chúc của bà Ư lập vào ngày 01/10/2010 không hợp pháp.
[8] Đối với nội dung này HĐXX thấy rằng
[9] Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện: theo lời khai của ông
Nguyễn Minh C, ông Cao Đình V1 đều xác nhận khi bà Ư lập di chúc vào ngày
01/10/2010, hai ông được mời đến chứng kiến việc lập di chúc; ông C, ông V1
xác nhận khi bà Ư lập di chúc có lập biên bản với sự có mặt của anh em bên
phía ông T1; ông C, ông V1 đều xác nhận khi lập di chúc bà Ư hoàn toàn minh
mẫn, tỉnh táo và có được ký vào bản di chúc; nội dung bản di chúc là giao lại
toàn bộ tài sản của ông T1, bà Ư cho anh Lệnh Thế Đ3 (con trai ông Lệnh Hậu
Đ1) quản lý, sử dụng, anh Đ3 có trách nhiệm phụng dưỡng, chăm sóc bà Ư; sau
ngày 01/10/2010 anh Đ3 đã ở cùng và chăm sóc bà Ư cho đến khi bà Ư mất vào
năm 2015 (bút lục 382, 389). Ngoài ra, sau khi ông T1 chết, vào năm 2011,
2012 bà Ư đã trực tiếp đứng ra chuyển nhượng đất của gia đình (đứng tên ông
Lệnh Hậu T1) cho vợ chồng ông Hoàng Đức D và bà Séo Thị X với giá là
60.000.000 đồng, khi ký kết và làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất
bà Ư hoàn toàn minh mẫn, tỉnh táo (bút lục 384). Nội dung này chứng minh
trước, trong và sau khi lập bản di chúc vào ngày 01/10/2010 bà Lục Thị Ư hoàn
toàn bình thường, tỉnh táo và minh mẫn.
12
[10] Mặc dù, bản di chúc thừa kế của bà Lục Thị Ư lập vào ngày
01/10/2010 có sự tham gia của các ông bà Lệnh Thị L2, Lệnh Hồng H, Lệnh
Hậu Đ1, Lệnh Hậu T, Lệnh Hậu S là anh em ruột của ông Lệnh Hậu T1 và anh
Lệnh Thế T3, anh Lệnh Thế Đ3, chị Lệnh Thị L3. Tuy nhiên, bản di chúc lập
ngày 01/10/2010 có đầy đủ nội dung theo quy định tại Điều 653 Bộ luật Dân sự
năm 2005, nội dung bản di chúc không trái với pháp luật, đạo đức xã hội, hình
thức bảo đảm đúng quy định của pháp luật; khi lập di chúc bà Ư hoàn toàn minh
mẫn, tỉnh táo (nội dung này được chứng minh tại đoạn [9] nêu trên).
[11] Quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm chị Lệnh Thị T có yêu cầu đề
nghị Toà án trưng cầu giám định đối với chữ ký "Ưởi" trong bản di chúc thừa kế
lập ngày 01/10/2010, biên bản nuôi con nuôi ngày 25/7/2010 so với chữ ký
"Ưởi" trong văn bản di chúc, giấy uỷ quyền do ông T1, bà Ư lập ngày
23/12/2009. Tại Kết luận giám định số 163/KL-KTHS ngày 22/4/2025 của
Phòng K2, Công an tỉnh H, kết luận: “Không đủ cơ sở kết luận chữ ký đứng tên
Lục Thị Ư trên mẫu cần giám định ký hiệu A so với chữ ký đứng tên Lục Thị Ư
trên mẫu so sánh ký hiệu M1, M2 có phải do cùng một người ký ra không”.
[12] Ngoài ra, phía nguyên đơn không có tài liệu nào chứng minh khi lập
di chúc ngày 01/10/2010 bà Ư không tỉnh táo, minh mẫn; nội dung bản di chúc
là do bị cưỡng ép, đe doạ hoặc lừa dối. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận ý
kiến, quan điểm của nguyên đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn.
[13] Về thời điểm phát sinh hiệu lực của di chúc: ông T1 chết vào tháng
5/2010, bà Ư chết vào tháng 3/2015, do vậy theo quy định tại Điều 668 Bộ luật
Dân sự năm 2005 thời điểm di chúc có hiệu lực kể từ sau thời điểm bà Ư chết
(ngày 06/3/2015).
[14] Xác định tài sản là di sản thừa kế của ông Lệnh Hậu T1 và bà Lục
Thị Ư để lại:
[15] Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà phúc thẩm các bên đều
nhất trí với kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản trong quá trình
giải quyết ở cấp sơ thẩm không có ý kiến, yêu cầu gì thêm. Do đó, tài sản là di
sản thừa kế của ông Lệnh Hậu T1 và bà Lục Thị Ư đã được xác định tại nội
dung đoạn [7] của Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 05/9/2024
của Toà án nhân dân huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang.
[16] Di chúc của ông Lệnh Hậu T1 và bà Lục Thị Ư lập ngày 23/12/2009
được xác định là di chúc chung của vợ chồng và hợp pháp có nội dung giao toàn
bộ tài sản cho chị T quản lý, sử dụng.
[17] Sau khi ông Lệnh Hậu T1 chết, ngày 01/10/2010 bà Lục Thị Ư lập di
chúc để lại toàn bộ tài sản cho anh Lệnh Thế Đ3 quản lý, sử dụng; di chúc của
bà Ư được xác định là hợp pháp. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 664
Bộ luật Dân sự năm 2005 thì: "... nếu một người đã chết thì người kia chỉ được
sửa đổi, bổ sung di chúc có liên quan đến phần tài sản của mình". Từ quy định
nêu trên thì bà Lục Thị Ư chỉ được quyền sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến
phần tài sản của mình (tức là 1/2 tài sản là di sản thừa kế của ông Lệnh Hậu T1
và bà Lục Thị Ư). Như vậy, xác định di chúc do bà Lục Thị Ư lập ngày
13
01/10/2010 có hiệu lực đối với phần tài sản của bà Ư trong khối tài sản chung
của vợ chồng đã được xác định là di sản thừa kế. Đồng thời, xác định di chúc
của ông Lệnh Hậu T1 và bà Lục Thị Ư lập ngày 23/12/2009 có hiệu lực đối với
phần tài sản của ông T1 trong khối tài sản chung của vợ chồng đã được xác định
là di sản thừa kế.
[18] Do đó, cần xác định chị Lệnh Thị T được hưởng phần di sản thừa kế
của ông Lệnh Hậu T1, còn anh Lệnh Thế Đ3 được hưởng phần di sản thừa kế
của bà Lục Thị Ư để lại.
[19] Tuy nhiên, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện khi
ông Lệnh Hậu T1 chết, gia đình ông Lệnh Hậu Đ1, anh Lệnh Thế Đ3, cùng với
bà Lục Thị Ư đứng ra tổ chức đám ma; sau khi ông T1 mất, anh Đ3 là người
trực tiếp chăm sóc bà Ư từ năm 2010 đến khi bà Ư chết vào tháng 02/2015, khi
bà Ư chết gia đình ông Đ1 và anh Đ3 đã đứng ra mai táng cho bà Ư; anh Đ3 là
người thờ cúng chăm sóc phần mộ ông T1, bà Ư từ đó cho đến nay. Do vậy, việc
Tòa án cấp sơ thẩm giao cho anh Đ3 được hưởng phần tài sản nhiều hơn so với
phần được hưởng theo di chúc là hợp tình, hợp lý, phù hợp với thực tế và đúng
với di nguyện của bà Ư.
[20] Từ những nhận định, căn cứ nêu trên HĐXX xét thấy nội dung kháng
cáo của chị Lệnh Thị T là không có căn cứ nên không được chấp nhận.
[21] Về chi phí giám định: trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm chị
Lệnh Thị T có yêu cầu trưng cầu giám định chữ ký của bà Ư, Toà án đã tiến
hành trưng cầu giám định, kết quả giám định xác định: “Không đủ cơ sở kết
luận chữ ký đứng tên Lục Thị Ư trên mẫu cần giám định ký hiệu A so với chữ ký
đứng tên Lục Thị Ư trên mẫu so sánh ký hiệu M1, M2 có phải do cùng một
người ký ra không”. Do đó, chị T phải chịu khoản tiền chi phí giám định là
877.500 đồng, xác nhận chị T đã thi hành xong.
[22] Trong quá trình xét xử sơ thẩm, ngày 23/01/2024 nguyên đơn là chị
Lệnh Thị T rút yêu cầu khởi kiện đối với thửa đất số 150 tờ bản đồ số 46, diện
tích 635,7m
2
tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK064356 và rút yêu
cầu ông Đ1 bồi thường số tiền là 277.000.000 đồng. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm
không căn cứ khoản 4 Điều 224 Bộ luật Tố tụng dân sự đình chỉ yêu cầu khởi
kiện nêu trên của chị T trong phần quyết định của bản án là thiếu sót.
[23] Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn có nhầm lẫn, sai sót trong việc tính
toán xác định giá trị tài sản thừa kế, cụ thể: di sản của ông T1, bà Ư có tổng giá
trị là 724.514.410 đồng, chứ không phải là 724.313.410 đồng như trong bản án
sơ thẩm; nội dung sai sót này dẫn đến việc xác định trách nhiệm chịu chi phí tố
tụng, án phí không chính xác. Do đó, HĐXX xét thấy cần sửa Bản án dân sự sơ
thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 05/9/2024 của Toà án nhân dân huyện Quản Bạ,
tỉnh Hà Giang về phần xác định giá trị tài sản là di sản thừa kế; chi phí tố tụng,
án phí cho phù hợp.
[24] Chấp nhận một phần ý kiến, quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên
tòa.
[25] Không chấp nhận ý kiến, quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho nguyên đơn tại phiên toà.
14
[26] Các nội dung khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng nghị có hiệu lực pháp luật từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[27] Về án phí phúc thẩm: do cấp phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm
có liên quan đến nội dung kháng cáo, nên người kháng cáo không phải chịu án
phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự đình chỉ một phần yêu
cầu khởi kiện của chị Lệnh Thị T đối với yêu cầu được hưởng di sản thừa kế đối
với thửa đất số 150 , tờ bản đồ số 46, diện tích 635,7m
2
tại Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AK 064356 và yêu cầu ông Đ1 bồi thường số tiền
277.000.000 đồng.
Áp dụng khoản 3 Điều 284 Bộ luật Tố tụng dân sự đình chỉ một phần nội
dung kháng cáo của chị Lệnh Thị T đối với yêu cầu xem xét giám định tuổi mực
của bản di chúc ghi ngày 01/10/2010.
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa một phần
Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2024/DSTC-ST ngày 05/9/2024 của Tòa án nhân
dân huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang về phần giá trị tài sản là di sản thừa kế, chi
phí tố tụng, án phí dân sự sơ thẩm.
Căn cứ vào khoản 5 Điều 26, 35, 39, 144, 147, 157, 158, 161, 165, 166 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 646, 647, 648, 649 ,650, 652 ,653, 654, 656,
663, 664, 668 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 166, 167, 188 Luật Đất đai năm
2013; Điều 59, Điều 66 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 26, khoản
7 Điều 27, khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Lệnh Thị T về việc
được hưởng di sản của ông Lệnh Hậu T1, bà Lục Thị Ư để lại.
Tuyên bố bản di chúc của ông T1, bà Ư lập ngày 23/12/2009 có hiệu lực
một phần đối với phần tài sản của ông Lệnh Hậu T1 trong khối tài sản
chung của vợ chồng.
Tuyên bố bản di chúc của bà Lục Thị Ư lập ngày 01/10/2010 có hiệu
lực một phần đối với phần tài sản của bà Lục Thị Ư trong khối tài sản
chung của vợ chồng.
1.1. Chia cho chị Lệnh Thị T được quyền quản lý, sử dụng các tài sản
sau:
+ Diện tích 1.037,9m
2
đất, thửa đất số 457, 580, 716, 578; tờ bản đồ số 46
tại thôn N, thị trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số AK 064355, có giá trị 53.970.800 đồng.
+ Diện tích 504,2m
2
đất,
thửa đất số 300, tờ bản đồ số 46 tại thôn N, thị
trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK
064356, có giá trị: 26.218.400 đồng.
15
+ Diện tích 577,3m
2
đất, thửa đất số 869, 870, 894; tờ bản đồ số 54 tại
thôn N, thị trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số AK 064411, có giá trị: 31.751.500 đồng.
+ Diện tích 537m
2
đất, thửa đất số 881, 897, 898; tờ bản đồ số 54 tại thôn
N, thị trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số AK 064413, có giá trị: 29.535.000 đồng.
+ Diện tích 239,9m
2
đất, thửa đất số 1107, 1108, 1109; tờ bản đồ số 55 tại
thôn N, thị trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số AK 064434, có giá trị: 13.194.500 đồng.
+ Diện tích 128,1m
2
đất, thửa đất số 1164, tờ bản đồ số 55 tại thôn N, thị
trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AI
361071, có giá trị: 7.045.500 đồng.
+ Diện tích 5.365m
2
đất rừng trồng phòng hộ, thửa đất số 443, tờ bản đồ
số 01 tại thôn N, thị trấn T, huyện Q theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
BO 185991, có giá trị 159.054.000 đồng.
Tổng giá trị di sản chị T được hưởng là: 320.769.700 đồng.
Có trích lục các thửa đất kèm theo.
1.2. Chia cho anh Lệnh Thế Đ3 được quyền quản lý, sử dụng các tài
sản sau:
+ Diện tích 958m
2
đất, thửa đất số 905, 907, 908, 913, 914, 915, 930, 933;
tờ bản đồ số 54 tại thôn N, thị trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số AK 064412 và tài sản trên đất giá trị: 234.662.910
đồng.
+ Diện tích 2.267,4m
2
đất, thửa đất số 879, 880, 960, 961, 962, 963, 965,
967,1046; tờ bản đồ số 55 tại thôn N, thị trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 064436, có giá trị: 124.707.000
đồng.
+ Diện tích 823,8m
2
đất, thửa đất số: 1100, 1102; tờ bản đồ số 55 tại thôn
N, thị trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số AK 064435, có giá trị: 44.374.800 đồng.
Tổng giá trị di sản anh Đ3 được hưởng là: 403.744.710 đồng.
Có trích lục các thửa đất kèm theo.
1.3. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ liên hệ với các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo
quyết định của pháp luật.
2. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: tổng số
tiền chi phí thẩm định, định giá là 13.200.000 đồng. Chị T được hưởng di chúc
chiếm tỷ lệ 44,3% phải chịu 5.847.600 đồng được khấu trừ vào tiền tạm ứng
thẩm định, định giá đã nộp. Anh Đ3 được hưởng di chúc chiếm tỷ lệ 55,7% phải
chịu 7.352.400 đồng tiền chi phí thẩm định, định giá tài sản. Do chị T đã nộp
toàn bộ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản nên anh Đ3 phải
hoàn trả cho chị T số tiền 7.352.400 đồng.
16
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành án xong bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều
468 của Bộ luật dân sự, trừ trường hợp có quy định khác.
3. Về chi phí giám định: chị T phải chịu chi phí giám định là 877.500
đồng, xác nhận chị T đã thi hành xong.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm
4.1. Chị Lệnh Thị T phải chịu 16.038.000 đồng án phí dân sự có giá ngạch
được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp 10.000.000 đồng theo biên lai thu
tiền tạm ứng án phí số BB/2013/05062 ngày 09/12/2020. Chị T còn phải nộp số
tiền là 6.038.000 đồng.
4.2. Anh Lệnh Thế Đ3 phải chịu 20.187.000 đồng án phí dân sự có giá
ngạch.
4.3. Ông Lệnh Hậu Đ1 không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại ông
Đ1 300.000 đồng tiền tạm ứng phản tố đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Q ngày 07/09/2023 theo biên lai số 0004550.
5. Về án phí dân sự phúc thẩm: căn cứ khoản 2 Điều 148 Bộ luật tố tụng
dân sự; khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: chị Lệnh Thị T không phải chịu án phí
dân sự phúc thẩm, trả lại số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên
lai số 0002822 ngày 25/9/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quản Bạ,
tỉnh Hà Giang.
6. Các nội dung khác của bản án dân sự sơ thẩm không có kháng cáo,
không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Hà Giang;
- Các đương sự;
- TAND huyện Q;
- Chi cục THA.DS huyện Q;
- Lưu HS, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Mạnh Cường
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 11/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Bản án số 129/2025/DSPT ngày 25/03/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm