Bản án số 179/2025/DS-PT ngày 23/04/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 179/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 179/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 179/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 179/2025/DS-PT ngày 23/04/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 179/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 23/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Lê Văn T, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Trần Thị Thanh V. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 44/2024/DS-ST ngày 19/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Bằng.
Các Thẩm phán: Lưu Thị Thu Hường, ông Nguyễn Sỹ Thành
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Oanh Hương - Thẩm tra viên Tòa án
nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Ông
Ngụ Văn Minh - Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 55/2025/TLPT-DS ngày 06/01/2025 về việc
“Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”. Do bản án dân sự sơ
thẩm 44/2024/DS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân dân thi xã B,
tỉnh Đắk Lắk, bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số
116/2025/QĐPT-DS ngày 03 tháng 3 năm 2025, Quyết định hoãn phiên tòa phúc
thẩm số 137/2024/QĐPT-DS ngày 28 tháng 3 năm 2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Lê Văn T, sinh năm 1946. Địa chỉ: A N, tổ dân phố
T, phường T, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Tiến S, bà Trần Thị Thanh V. Địa chỉ: Thôn T, xã
E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Tiến S: Bà Trần Thị Thanh
V. Địa chỉ: Thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị Thanh V: Ông Tạ Thanh H.
Địa chỉ: I H, phường T, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ngân hàng N1. Địa chỉ: Số B L, phường T, quận B, thành phố Hà Nội.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 179/2025/DS-PT
Ngày 23 - 4 - 2025
V/v:" Tranh chấp Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất
"
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - hạnh phúc

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Ngọc T1 – Phó giám đốc Ngân
hàng N1 – Chi nhánh E - Bắc Đ. Địa chỉ: Thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk,
có mặt.
3.2. Văn Phòng công chứng thị xã B, tỉnh Đắk Lắk. Địa chỉ: G L, phường
A, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
4. Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Nguyễn Thị H1: Ông
Lê Văn T, bà Lê Thị Hằng N, bà Lê Thị Mỹ D, bà Lê Thị Thùy T2, ông Lê Công
D1 và bà Lê Thị Phương A. Cùng địa chỉ: A N, tổ dân phố T, phường T, thị xã B,
tỉnh Đắk Lắk. (Bà Lê Thị Mỹ D và ông Lê Công D1 có mặt).
Người đại diện theo uỷ quyền của bà Lê Thị Hằng N, bà Lê Thị Mỹ D, bà
Lê Thị Thùy T2, ông Lê Công D1 và bà Lê Thị Phương A: Ông Lê Văn T. Có
mặt.
5. Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Lê Văn T và bị đơn bà Trần Thị
Thanh V.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn, đại diện
ủy quyền của nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên
đơn trình bày:
Ngày 19/01/2017 vợ chồng ông Lê Văn T bà Nguyễn Thị H1 đã chuyển
nhượng cho vợ chồng ông Nguyễn Tiến S, bà Trần Thị T3, gồm các thửa đất sau:
1/ Thửa đất số 87, tờ bản đồ số 17, diện tích 4.940m
2
; mục đích sử dụng:
đất trồng cà phê; thời hạn sử dụng: đến năm 2043; đất đã được Ủy ban nhân dân
huyện K cũ (nay là là thị xã B), cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số V
457904 ngày 18/12/2002;
2/ Thửa đất số 62, tờ bản đồ số 17, diện tích 4.330m
2
; mục đích sử dụng: đất trồng
cà phê; thời hạn sử dụng: đến năm 2043; đất đã được Ủy ban nhân dân huyện K
cũ (nay là là thị xã B), cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K 062233, ngày
17/5/1996.
3/ Thửa đất số 147, tờ bản đồ số 33, diện tích 880m
2
; mục đích sử dụng:
khu dân cư; thời hạn sử dụng: lâu dài; đất đã được Ủy ban nhân dân huyện K cũ
(nay là là thị xã B), cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A 088992, ngày
26/7/1991
4/ Thửa đất số 26, tờ bản đồ số 22, diện tích 2.250m
2
; mục đích sử dụng: đất màu;
thời hạn sử dụng: đến năm 2063; đất đã được Ủy ban nhân dân huyện K cũ (nay
là là thị xã B), cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K 062234, ngày
17/5/1996.
5/ Thửa đất số 6, tờ bản đồ số 12, diện tích 11.299,20m
2
; mục đích sử dụng:
đất trồng cây lâu năm; thời hạn sử dụng: đến năm 2043; đất đã được Ủy ban nhân

dân thị xã B, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 666511, ngày
6/7/2012.
Hợp đồng này đã được công chứng và sang tên cho bà V, ông S, giá tiền
chuyển nhượng các thửa đất nói trên là 1.800.000.000 đồng. Tuy nhiên, sau khi
ký hợp đồng chuyển nhượng, bà V và ông S không trả tiền cho vợ chồng tôi mà
mang các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã sang tên bà V, ông S đi vay ngân
hàng N1 – Chi nhánh E - Bắc Đ, để vay số tiền 2.000.000.000 đồng. Tôi được biết
do không trả được nợ cho ngân hàng nên ngân hàng đã khởi kiện bà V, ông S ra
Toà án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk. Tại quyêt định Công nhận sự
thoả thuận của các đương sự số 88/2019/QĐST-DS ngày 18/7/2019 của toà án
nhân dân huyện Krông Năng. Đã xử lý tài sản thế chấp theo trình tự thi hành án
dân sự. Cho đến nay vợ chồng bà V, ông S không trả tiền nhận chuyển nhượng
đất cho gia đình tôi. Vì vậy, tôi ông Lê Văn T khởi kiện yêu cầu Tòa án huỷ hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 19/01/2017 giữa vợ chồng ông
T, bà H1 và ông Nguyễn Tiến S, bà Trần Thị Thanh V, do văn phòng C. Hoặc yêu
cầu ông S, bà V trả cho ông T số tiền tương đương giá trị các quyền sử dụng đất
nói trên theo giá thị trường, vào thời điểm hiện tại là khoảng 8 tỷ đồng.
Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Nguyễn Thị H1
gồm: Bà Lê Thị Hằng N, bà Lê Thị Mỹ D, bà Lê Thị Thùy T2, ông Lê Công D1
và bà Lê Thị Phương A trình bày: Đồng ý những nội dung và yêu cầu của ông Lê
Văn T.
* Quá trình giải quyết vụ án bị đơn bà Trần Thị Thanh V và đại diện ủy
quyền của bị đơn ông Tạ Thanh H trình bày:
Vợ chồng ông T, bà H1 thế chấp 05 quyền sử dụng đất theo các giấy chứng
nhận như ông T, bà H1 trình bày ở trên tại Ngân hàng N1 - Chi nhánh H3, thành
phố B để vay số tiền hơn 1.000.000.000 đồng. Đến hạn trả nợ, ông T có liên hệ
vay tiền ông S, bà V để đáo hạn ngân hàng nhưng ông T, bà V không đồng ý. Ông
T đã bàn bạc với gia đình và thống nhất chuyển nhượng cho ông S, bà V 05 quyền
sử dụng đất trên với giá 1.800.000.000 đồng.
Sau đó, ông S và bà V và vợ chồng ông T, bà H1 cùng đến ngân hàng, ông
S và bà V đã giao cho ông T, bà H1 số tiền 1.350.000.000 đồng để ông T, bà H1
trả nợ cho ngân hàng và rút các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên. Số tiền
còn lại, hai bên thống nhất khi ký hợp đồng chuyển nhượng, thì ông S, bà V phải
giao đủ tiền cho ông T, bà H1.
Ngày 19/01/2017 ông S, bà V cùng vợ chồng ông T, bà H1 và các con ông
T, bà H1 đến Văn phòng C1 hợp đồng chuyển nhượng 05 quyền sử dụng đất trên
cho ông S và bà V, được Văn phòng C2 đúng theo quy định của pháp luật, sau khi
ký hợp đồng xong, ông S, bà V cũng trả hết số tiền còn lại 450.000.000 đồng cho
ông T, bà H1. 05 thửa đất nói trên đã được sang tên cho ông S, bà V, ông bà đã
thế chấp tại ngân hàng N2 – Chi nhánh E - Bắc Đ. Ông S, bà V đã thỏa thuận giao
05 quyền sử dụng đất trên cho ngân hàng để thu hồi nợ. Việc chuyển nhượng 05

quyền sử dụng đất trên là hợp pháp. Ông S, bà V đã trả cho vợ chồng ông T, bà
H1 số tiền 1.800.000.000 đồng nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
T, bà H1.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Ngọc Trung đại D2
theo ủy quyền cho Ngân hàng N2 – Chi nhánh E – E trình bày:
Ngày 24/01/2017 vợ chồng bà V, ông S ký hợp đồng tín dụng vay Ngân
hàng N2 – Chi nhánh E - Bắc Đ số tiền 2.000.000.000 đồng. Vợ chồng ông S, bà
V đã thế chấp 05 quyền sử dụng đất trên theo đúng quy định của pháp luật. Đến
hạn trả nợ vợ chồng bà V, ông S không trả được nợ nên ngân hàng đã khởi kiện
tại Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, vợ chồng ông S, bà V thống nhất trả nợ
và giao 05 tài sản thế chấp trên để trả nợ cho ngân hàng, sự thỏa thuận trên được
thể hiện tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số
08/2019/QĐST-DS ngày 18/7/2019 của TAND huyện Krông Năng. Việc thế chấp
tài sản và cho vay vốn là đúng theo quy định của pháp luật, nên ngân hàng không
chấp nhận yêu cầu của ông T, bà H1, đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của
bà H1, ông T.
Tại bản án số 44/2024/DS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2024 của Toà án
nhân dân thi xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk, đã quyết định:
Áp dụng các Điều 26, 35 và 39 Bộ luật tố Tụng dân sự; các Điều 119, 133,
500, 503 của Bộ luật Dân sự; Điều 167, 168, 169 Luật đất đai; khoản 4 Điều 26
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Quốc Hội.
Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn T bà
Nguyễn Thị H1. Bà Trần Thị Thanh V và ông Nguyễn Tiến S có nghĩa vụ trả cho
ông Lê Văn T và các đồng thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà H1 là chị Lê
Thị Hằng N, chị Lê Thị Mỹ D, chị Lê Thị Thùy T2, anh Lê Công D1, chị Lê Thị
Phương A 550.000.000 đồng.
Về chi phí thẩm định tại chỗ, định giá tài sản 3.000.000 đồng, ông T, bà H1
đã nộp nên bà V, ông S có nghĩa vụ trả cho ông T và các đồng thừa kế quyền và
nghĩa vụ tố tụng của bà H1 số tiền nói trên.
Về án phí: Bà Trần Thị Thanh V và ông Nguyễn Tiến S phải chịu
26.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Ông Lê Văn T bà Nguyễn Thị H1 là
người cao tuổi, đã có đơn xin miễn án phí nên không phải chịu án phí Dân sự sơ
thẩm.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, nghĩa vụ Thi hành án và
quyền kháng cáo cho các đương sự.
Ngày 19/9/2024, nguyên đơn ông Lê Văn T có đơn kháng cáo đề nghị Tòa
án cấp phúc thẩm, sửa bản án dân sự sơ thẩm để chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.

Ngày 03/10/2024, bị đơn bà Trần Thị Thanh V có đơn kháng cáo đề nghị
Tòa án cấp phúc thẩm, sửa bản án dân sự sơ thẩm về việc buộc và ông S phải trả
cho ông T4 và các đồng thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà H1 với số tiền
550.000.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn kháng
cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu
quan điểm:
Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Thẩm phán,
Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng như các đương sự đã tuân thủ đúng với qui định
của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Lê Văn T và bị
đơn bà Trần Thị Thanh V, đều không có căn cứ. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử
phúc thẩm căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự không chấp nhận kháng
cáo của nguyên đơn và bị đơn, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 44/2024/DS-
ST ngày 19 tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân dân thi xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu thu thập được có trong hồ sơ vụ án, được
thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem
xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và các đương
sự. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Lê Văn T và bị đơn bà
Trần Thị Thanh V là trong hạn luật định, ông T được miễn nộp tiền tạm ứng án
phí phúc thẩm, bà V đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm nên vụ án được thụ lý giải
quyết theo trình tự phúc thẩm là đúng quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung:
Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Lê Văn T và bị đơn bà
Trần Thị Thanh V, ông Nguyễn Tiến S đều thừa nhận vào ngày 19/1/2017 có giao
kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và được công chứng tại văn
phòng công chứng thị xã B, tỉnh Đắk Lắk. Theo đó, nguyên đơn ông T, bà H1
chuyển nhượng cho bị đơn ông S, bà V 05 thửa đất, đã được cấp quyền sử dụng
đất. Theo các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số V 457904 ngày 18/12/2002,
K 062233 ngày 17/5/1996, A 088992 ngày 26/7/1991, K 062234 ngày 17/5/1996
và BK 666511 ngày 06/7/2012. Theo nguyên đơn ông Lê Văn T, khi ký kết hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chỉ vì tin tưởng nên nguyên đơn ông Lê
Văn T mới giao giấy tờ đất đai cho bị đơn ông S, bà V đi làm thủ tục chuyển
nhượng quyền sử dụng 05 thửa đất nói trên cho ông S, bà V, nhưng bị đơn không
trả tiền theo hợp đồng đã ký kết. Ông T cho rằng chỉ mượn của bị đơn ông S, bà
V số tiền 1.250.000.000 đồng để trả nợ Ngân hàng chứ không phải là

1.350.000.000 đồng và số tiền đó cũng không phải là tiền chuyển nhượng đất. Vì
vậy, nguyên đơn ông Lê Văn T vẫn canh tác, quản lý, sử dụng trên các thửa đất
mà hai bên đã ký kết chuyển nhượng.
[2.2] Phía bị đơn bà Trần Thị Thanh V và ông Nguyễn Tiến S thì cho rằng
đã trả đủ tiền cho nguyên đơn ông Lê Văn T và vợ là bà Nguyễn Thị H1, với tổng
số tiền là 1.800.000.000 đồng, trong đó trả 1.350.000.000 đồng cho ông T, bà H1
trả nợ ngân hàng, số tiền còn lại 450.000.000 đồng thì giao bằng tiền mặt. Sau khi
giao kết hợp đồng chuyển nhượng 05 thửa đất nói trên. Ông S, bà V đã thế chấp
thế chấp 05 quyền sử dụng trên cho ngân hàng N2 – Chi nhánh E để vay số tiền
2.000.000.000 đồng. Do vi phạm nghĩa vụ trả nợ, nên ngân hàng đã khởi kiện ông
S, bà V tại Tòa án nhân dân huyện Krông Năng. Về số lượng nợ, trách nhiệm trả
nợ, thời hạn, phương thức trả nợ và xử lý tài sản thế chấp đã được giải quyết tại
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 08/2019/QĐST-DS ngày
18/7/2019 của TAND huyện Krông Năng, đã có hiệu lực pháp luật.
[3]. Xét yêu cầu kháng cáo, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Văn
T và yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Trần Thị Thanh V, Hội đồng xét xử nhận
thấy:
Vào năm 2017 vợ chồng nguyên đơn ông Lê Văn T, bà Nguyễn Thị H1 đã
ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 05 thửa đất đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, gồm các thửa đất sau: Thửa đất số 87, tờ bản đồ số 17,
diện tích 4.940m
2
; mục đích sử dụng: đất trồng cà phê; thời hạn sử dụng: đến năm
2043; đất đã được Ủy ban nhân dân huyện K cũ (nay là là thị xã B), cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số V 457904 ngày 18/12/2002. Thửa đất số 62, tờ
bản đồ số 17, diện tích 4.330m
2
; mục đích sử dụng: đất trồng cà phê; thời hạn sử
dụng: đến năm 2043; đất đã được Ủy ban nhân dân huyện K cũ (nay là là thị xã
B), cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K 062233, ngày 17/5/1996. Thửa
đất số 147, tờ bản đồ số 33, diện tích 880m
2
; mục đích sử dụng: khu dân cư; thời
hạn sử dụng: lâu dài; đất đã được Ủy ban nhân dân huyện K cũ (nay là là thị xã
B), cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A 088992, ngày 26/7/1991. Thửa
đất số 26, tờ bản đồ số 22, diện tích 2.250m
2
; mục đích sử dụng: đất màu; thời
hạn sử dụng: đến năm 2063; đất đã được Ủy ban nhân dân huyện K cũ (nay là là
thị xã B), cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K 062234, ngày 17/5/1996.
Thửa đất số 6, tờ bản đồ số 12, diện tích 11.299,20m
2
; mục đích sử dụng: đất trồng
cây lâu năm; thời hạn sử dụng: đến năm 2043; đất đã được Ủy ban nhân dân thị
xã B, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 666511, ngày 6/7/2012 cho
bên nhận chuyển nhượng là vợ chồng bị đơn bà Trần Thị Thanh V và ông Nguyễn
Tiến S là hoàn toàn tự nguyện, không ai ép buộc ai, không nhằm mục đích trốn
tránh nghĩa vụ với người thứ 3 ngay tình. Mặt khác, các hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất trên đã được công chứng vào ngày 19/01/2017 (bút lục số 27,
28, 29 và 30) và được đăng ký biến động sang tên cho bên nhận chuyển nhượng
là ông S, bà V là đúng quy định của pháp luật cả về hình thức và nội dung của

hợp đồng, được quy định tại các Điều 117; 119; 500; 501; 502 và 503, Bộ luật
dân sự.
[4]. Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn về nghĩa vụ thanh
toán của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà các bên chuyển nhượng
ngày 19/01/2017, nhận thấy:
Về hình thức, nội dung của hợp đồng như phân tích, nhận định ở mục [2]
và [3]. Như vậy, vào ngày 19/01/2017 các bên đã thống nhất về giá của hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng gồm 05 thửa đất chuyển nhượng là 1.800.000
đồng, nguyên đơn ông Lê Văn T cho rằng ông nhận số tiền 1.250.000.000 đồng
của ông S, bà V là khoản tiền vay, không phải là tiền chuyển nhượng quyền sử
dụng đất. Bị đơn ông Nguyễn Tiến S, bà Trần Thị Thanh V cho rằng đã thanh
toán xong tiền mua đất của ông T, bà H1 vào 02 lần, lần 01 ông S, bà V thanh
toán 1.350.000.000 đồng cho ông T, bà H1 trước thời điểm các bên đi công chứng,
số tiền 450.000.000 đồng còn lại, ông S, bà V thanh toán cho ông T, bà H1 sau
khi các bên đi làm thủ tục sang tên quyền sử dụng đất cho ông S, bà V.
Xét thấy, yêu cầu kháng cáo về nghĩa vụ thanh toán đối với hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 19/1/2017, giữa nguyên đơn ông T và
bị đơn ông S, bà V, trong quá trình giải quyết và tại các phiên Tòa, nguyên đơn
và bị đơn đưa ra lời trình bày của mình, ngoài ra không có chứng cứ để chứng
minh cho lời trình bày và yêu cầu của mình là có căn cứ. Mặt khác, nguyên đơn
ông Lê Văn T là người khởi kiện nên ông T phải có nghĩa vụ chứng minh cho yêu
cầu của mình là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định cho rằng, bị đơn ông S,
bà V mới thanh toán cho nguyên đơn ông T với số tiền 1.250.000.000 đồng, để từ
đó chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Văn T, buộc bị
đơn ông S, bà V phải trả số tiền còn lại 550.000.000 đồng cho nguyên đơn ông T
là trái với nguyên tắc về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự, được quy định
tại Điều 6, Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Với nhận định trên, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Buộc bà Trần Thị Thanh V
và ông Nguyễn Tiến S có nghĩa vụ trả cho ông Lê Văn T và các đồng thừa kế
quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Nguyễn Thị H1 (chết) là bà Lê Thị Hằng N, bà
Lê Thị Mỹ D, bà Lê Thị Thùy T2, ông Lê Công D1, bà Lê Thị Phương A số tiền
550.000.000 đồng, là không có cơ sở, nên cần chấp nhận yêu cầu kháng cáo này
của bị đơn bà V.
Từ những phân tích nhận định trên; Hội đồng xét xử nhận thấy không có
căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Lê Văn T. Chấp nhận
yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Trần Thị Thanh V. Sửa bản án dân sự sơ thẩm
số 44/2024/DS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân dân thị xã Buôn
Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
[5]. Về chi phí tố tụng và án phí:

[5.1]. Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Văn
T không được chấp nhận nên nguyên đơn ông T phải chịu tiền chi phí thẩm định
tại chỗ và định giá tài sản là 3.000.000 đồng, nguyên đơn ông Lê Văn T đã nộp
và đã chi phí xong.
[5.2]. Về án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm: Nguyên đơn ông Lê Văn T
là người cao tuổi và đã có đơn xin miễn án phí nên được miễn án phí Dân sự sơ
thẩm và phúc thẩm.
Bị đơn bà Trần Thị Thanh V và ông Nguyễn Tiến S không phải chịu án phí
dân sự sơ thẩm và phúc thẩm. Hoàn trả cho bà Trần Thị Thanh V số tiền 300.000
đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp, tại biên lai số AA/2023/0001731 ngày
09/10/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn c khoản 2 Điều 308 và Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Lê Văn T. Chấp
nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Trần Thị Thanh V. Sửa bản án dân sự sơ
thẩm số 44/2024/DS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân dân thị xã
Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
2. Áp dụng các Điều 26, 35 và 39, 147,157, 165, 266, 271 và 273 Bộ luật tố
Tụng dân sự; các Điều 117, 119, 500, 503 của Bộ luật Dân sự; Điều 167, 168, 169
Luật đất đai; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Quốc Hội.
3. Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê
Văn T và các đồng thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Nguyễn Thị H1 (đã
chết) gồm: Bà Lê Thị Hằng N, bà Lê Thị Mỹ D, bà Lê Thị Thùy T2, ông Lê Công
D1 và bà Lê Thị Phương A về yêu cầu: Huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, lập ngày 19/01/2017 giữa vợ chồng ông Lê Văn T, bà Nguyến Thị H2
với vợ chồng ông Nguyễn Tiến S, bà Trần Thị Thanh V, do văn phòng công chứng
thị xã B, tỉnh Đắk Lắk, ký công chứng. Hoặc yêu cầu ông Nguyễn Tiến S, bà Trần
Thi Thanh V1 phải trả cho ông Lê Văn T và các đồng thừa kế quyền và nghĩa vụ
tố tụng của bà Nguyễn Thị H1 (đã chết) số tiền tương đương giá trị các quyền sử
dụng đất nói trên theo giá thị trường, vào thời điểm hiện tại là khoảng
8.000.000.000 đồng (Tám tỷ đồng).
4. Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn ông Lê Văn T phải chịu tiền chi phí thẩm
định tại chỗ và định giá tài sản là 3.000.000 đồng, nguyên đơn ông Lê Văn T đã
nộp và đã chi phí xong tại cấp sơ thẩm.
5. Về án phí: Về án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm: Nguyên đơn ông Lê
Văn T là người cao tuổi và đã có đơn xin miễn án phí nên ông Lê Văn T được
miễn án phí Dân sự sơ thẩm và phúc thẩm.

Bị đơn bà Trần Thị Thanh V không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và
phúc thẩm. Hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí phúc thẩm mà bà Trần Thị Thanh V
đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), tại biên lai số AA/2023/0001731 ngày
09/10/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và
Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND thị xã Buôn Hồ;
- VKSND thị xã Buôn Hồ;
- Chi cục THADS thị xã Buôn
Hồ;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Văn Bằng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 06/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm