Bản án số 42/2025/DS-PT ngày 18/02/2025 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 42/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 42/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 42/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 42/2025/DS-PT ngày 18/02/2025 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Sóc Trăng |
Số hiệu: | 42/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tại Bản án số 94/2024/DS-ST ngày 23/9/2024, Tòa án nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng đã tuyên xử |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH SÓC TRĂNG
Bản án số: 42/2025/DS-PT
Ngày 18/02/2025
V/v tranh chấp yêu cầu tuyên bố
hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất vô hiệu
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Hoàng Lâm;
Các Thẩm phán: Ông Hồ Văn Phụng;
Bà Trương Tố Hương.
- Thư ký phiên tòa: Bà Trần Thị Thu Trang, Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng tham gia phiên tòa:
Ông Trương Minh Diền, Kiểm sát viên.
Trong các ngày 12 và 18 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân
tỉnh Sóc Trăng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 242/2024/TLPT-DS
ngày 11 tháng 11 năm 2024, về tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 94/2024/DS-ST ngày 23 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 275/2024/QĐ-PT
ngày 21 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Dương Hoàng Mộng Thanh H;
Địa chỉ: Khóm A, Phường X, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Tr (Minh Tr);
Địa chỉ: Khóm B, Phường X, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Thanh D; địa chỉ: Số
18, Kênh A, khóm D, Phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng; là người đại diện
theo ủy quyền của bị đơn (văn bản ủy quyền ngày 27/11/2024). (có mặt)
- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn Tr - Bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện ngày 30 tháng 6 năm 2024 và trong quá trình giải
quyết vụ án, nguyên đơn ông Dương Hoàng Mộng Thanh H trình bày:
2
Vào ngày 07/4/2020, ông Tr có chuyển nhượng cho ông 1,5 công đất tại
ấp B, xã H, thành phố P, tỉnh Kiên Giang (cập với đất của bà Trương Thị Đ) với
giá 450.000.000 đồng và 06 công đất tại ấp S, xã D, thành phố P, tỉnh Kiên
Giang (cặp chùa H) với giá 2.100.000.000 đồng; việc chuyển nhượng có làm
giấy viết tay tựa đề “Giấy hai người cùng bỏ vốn ra mua đất và bán đất” lập
ngày 07/04/2020, ông Tr có ký tên vào tờ giấy này. Ông đã trả đủ tiền cho ông
Tr, giao tiền mặt nên trong giấy tay có nêu rõ tiền đã chồng đủ hết.
Đến ngày 17/10/2020, ông Tr chuyển nhượng cho ông 01 công đất tại Đ,
thuộc ấp B, xã H, thành phố P, tỉnh Kiên Giang với giá 260.000.000 đồng. Hai
bên cũng làm giấy viết tay tựa đề “Giấy mua bán đất” lập ngày 17/10/2020, ông
Tr có ký tên, ông cũng giao tiền mặt đầy đủ cho ông Tr.
Lúc đầu, ông và ông Tr có cùng nhau hùn tiền mua, bán đất bên H - Kiên
Giang. Sau khi bán đất bên H xong, do ông Tr đã từng đi qua P mua đất trước,
nên sau đó ông mới thỏa thuận với ông Tr kêu ông Tr bán đất bên P lại cho ông,
ông đã mua số đất trên của ông Tr, chứ không phải phần đất 1,5 công và 06 công
là ông Tr hùn với ông, nếu hùn tiền với nhau thì ông không có ghi là Tr có bán
đất cho ông. Ông Tr trình bày tờ “Giấy hai người cùng bỏ vốn ra mua đất và bán
đất” lập ngày 07/4/2020 có kêu ông sửa lại nội dung tại mục số 3 và số 4 là hùn
tiền mua đất là không có.
Ông Tr chưa có giao đất cho ông, ông Tr nói là đang nhờ người làm giấy
tờ đất, thỏa thuận miệng là 06 tháng sau khi bán đất thì làm xong giấy tờ đất, khi
làm xong giấy tờ đất sẽ giao đất cho ông luôn. Sau khi dịch bệnh Covid 19 bùng
phát, ông cũng để cho ông Tr một thời gian để làm giấy tờ nhưng đến nay đã
hơn 04 năm cũng không có giấy tờ và cũng không có giao đất.
Ông yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông với ông Tr lập ngày 07/4/2020, diện tích 7,5 công, tọa lạc tại thành phố
P, tỉnh Kiên Giang (cập với đất của bà Đ) và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa ông với ông Tr lập ngày 17/10/2020, diện tích 01 công, tọa lạc tại
Đ, thuộc ấp B, xã H, thành phố P, tỉnh Kiên Giang vô hiệu, xử lý hậu quả của
hợp đồng vô hiệu và yêu cầu ông Tr trả tiền lại chuyển nhượng quyền sử dụng
đất cho ông tổng cộng 2.810.000.000 đồng.
Tại phiên tòa sơ thẩm, ông xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện, về việc
yêu cầu bồi thường thiệt hại do hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bị
vô hiệu.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Văn Tr (Minh Tr)
trình bày:
Ông thừa nhận ông có ký tên vào 02 tờ giấy viết tay tựa đề “Giấy hai
người cùng bỏ vốn ra mua đất và bán đất” lập ngày 07/4/2020 và “Giấy mua bán
đất” lập ngày 17/10/2020 do ông H cung cấp cho Tòa án.
Tại “Giấy mua bán đất” lập ngày 17/10/2020 có nội dung ông chuyển
nhượng cho ông H 01 công đất với số tiền 260.000.000 đồng, phần đất này ông
mua lại của ông Ph, ông Ph mua của bà Đ, hiện nay ông Ph đang làm giấy, khi
nào làm xong rồi sang tên cho ông H.
3
Tại “Giấy hai người cùng bỏ vốn ra mua đất và bán đất” lập ngày
07/4/2020 thì có bốn mục, mục số 1 và số 2 là ông và ông H hùn tiền nhau mua
đất tại H - Kiên Giang để cho ông H đứng tên quyền sử dụng đất và cùng nhau
bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngân hàng để vay tiền. Hiện nay,
phần đất này đã bán xong hết rồi. Còn mục số 3 có nội dung ông bán cho ông H
1,5 công đất với giá 450.000.000 đồng và mục số 4 có nội dung ông bán cho ông
H 06 công đất với giá 2.100.000.000 đồng thì hai mục này là ông và ông H hùn
tiền nhau mua đất bên P, về vị trí đất đúng như ông H trình bày, số tiền hùn nhau
mua đất cũng đúng. Hai anh em thỏa thuận để ông đại diện đứng tên mua đất
bên P, cụ thể: Miếng đất 1,5 công là tiền hùn mua đất của ông và ông H, ông đại
diện đứng tên mua đất của vợ chồng ông Nguyễn Thành Đ1 và bà Trương Thị
Đ, diện tích chuyển nhượng là 2.000m
2
trong đây có nửa công của người khác
hùn mua, theo “Hợp đồng chuyển nhượng thành quả lao động gắn liền trên đất”
lập ngày 12/11/2018, đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên mới
làm hợp đồng mua bán thành quả lao động, do tình hình dịch bệnh, sau đó đến
thanh tra đất đai tại P nên kéo dài đến nay mới bắt đầu được tiếp tục đăng ký cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hiện nay vợ chồng ông Đ1, bà Đ đang làm
quyền sử dụng đất, làm xong sẽ chuyển sang tên cho ông được đứng tên. Miếng
đất 06 công cập chùa H cũng là tiền hùn mua đất của ông và ông H, ông đại diện
đứng tên mua đất của ông Mai Ngọc H1 theo “Hợp đồng chuyển nhượng thành
quả lao động gắn liền với đất” lập ngày 02/12/2019 giữa ông và ông Mai Ngọc
H1, phần đất mua đến 10.000m
2
, số tiền 5.000.000.000 đồng, phần đất này hiện
nay ông H1 đang thực hiện thủ tục làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, làm
xong sẽ chuyển sang tên cho ông được đứng tên.
Đất tại P mua thành quả lao động gắn liền với đất là đất có nhà cửa ở lâu
năm, cây trồng trên đất, bà Đ được cấp giấy xác nhận đất nằm ngoài rừng phòng
hộ, đợi khi nào bà Đ làm được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì sẽ chuyển
tên cho người mua hoặc trong thời gian đợi làm giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất mà mình bán cho người khác được thì chủ đất gốc cũng đồng ý ký tên bán
cho người khác dùm mình.
Các phần đất 1,5 công và 06 công ông đều chưa nhận đất, vì chưa có làm
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được, hiện nay đang giao cho ông Lương
Hoàng Ph ở khóm 7, Phường 1, thị xã N và ông Nguyễn Thanh T ở thành phố C
làm giấy tờ đất, khi nào xong thì không có nói. Do cùng nhau hùn mua đất, lời
ăn, lỗ chịu, ông và ông H mỗi người đã bỏ ra một nửa số tiền để hùn nhau mua
đất 7,5 công, tổng cộng mỗi người bỏ ra số tiền 2.550.000.000 đồng, ông H phải
đợi đến khi nào làm giấy được hoặc bán được đất chia nhau chứ kêu ông trả lại
tiền cho ông H theo đơn kiện là ông không đồng ý. Khi ông H giao tiền hùn mua
đất cho ông thì giao bằng tiền mặt là đúng.
Khi ông H viết tờ giấy tay “Giấy hai người cùng bỏ vốn ra mua đất và bán
đất” lập ngày 07/4/2020 đem lại cho ông ký thì ông có đọc lại nội dung nhưng
ông không đồng ý ký tên, kêu ông H đem về sửa lại nội dung là hai anh em hùn
mua đất mới đúng. Ông H đem về sau đó đem lại cho ông một lần nữa nói với
ông là ông ký tên để cho vợ ông H tin tưởng chứ mua bán mà không có giấy tờ
nên ông ký tên vào giấy mua bán. Khi ông ký tên vào giấy thì chỉ có ông H và
4
ông ký tên, còn ông Bùi Thanh H2 và ông Lương Hoàng Ph ký người làm chứng
lúc nào thì ông không biết.
Tại Bản án số 94/2024/DS-ST ngày 23/9/2024, Tòa án nhân dân thị xã
Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng đã quyết định:
Căn cứ Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1
Điều 39, khoản 1 Điều 147, Điều 244, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015; các điều 122, 123, 129, 131 Bộ luật Dân sự năm
2015; các điều 167, 168 Luật đất đai năm 2013; điểm b khoản 3 Điều 27 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí
Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Dương Hoàng Mộng Thanh H,
về việc yêu cầu tuyên bố các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô
hiệu. Tuyên bố các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Dương Hoàng Mộng Thanh H và ông Nguyễn Văn Tr lập ngày 07/4/2020 và
ngày 17/10/2020 đều vô hiệu.
Buộc ông Nguyễn Văn Tr có trách nhiệm trả cho ông Dương Hoàng Mộng
Thanh H số tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất tổng cộng 2.810.000.000 đồng
(Hai tỷ tám trăm mười triệu đồng).
Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày người được thi hành án yêu
cầu thi hành án thì hàng tháng, người bị yêu cầu thi hành án còn phải trả lãi
cho người được thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của
Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
2. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của ông Dương Hoàng
Mộng Thanh H, về việc yêu cầu bồi thường thiệt hại do hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất bị vô hiệu.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo
của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
Ngày 08/10/2024, ông Tr có đơn kháng toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu
Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết sửa bản án sơ thẩm theo hướng không
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông H; đồng thời đưa ông Lương
Hoàng Ph, bà Trương Thị Đ, ông Nguyễn Thành Đ1 tham gia tố tụng với tư
cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Ông H không rút đơn khởi kiện, người đại diện hợp pháp của ông Tr
không rút kháng cáo và các đương sự cũng không thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp
luật của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng trong quá
5
trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm. Đối với yêu cầu kháng cáo của ông
Tr là không có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận và áp dụng
khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của Nguyễn Văn
Tr đảm bảo về mặt hình thức và nội dung, đúng người có quyền kháng cáo, còn
trong thời hạn kháng cáo theo quy định tại các Điều 271, Điều 272 và Điều 273
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên đủ điều kiện để giải quyết, xét xử theo
trình tự phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của ông Tr, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:
[3] Trong quá trình giải quyết vụ án, ông H và ông Tr đều thừa nhận 02
bên có lập “Giấy hai người cùng bỏ vốn ra mua đất và bán đất” ngày 20/4/2020
và “Giấy mua bán đất” ngày 17/10/2020. Căn cứ Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015, đây là tình tiết các bên đương sự không phải chứng minh.
[4] Theo “Giấy mua bán đất” ngày 17/10/2020 (bút lục 25) có nội dung
ông Tr bán cho ông H 01 (một) công đất ở bên P giá 260.000.000 đồng, đất tọa
lạc tại Đ, ấp B, xã H. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Tr cũng thừa nhận việc này nên
căn cứ khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, đây là tình tiết ông H
không phải chứng minh.
[5] Theo “Giấy hai người cùng bỏ vốn ra mua đất và bán đất” ngày
20/4/2020 (bút lục 24) có nội dung tại mục 3 “Tr có bán đất ở P cho anh H một
công rưỡi đất cập đất bà Đ, tiền đã chồng đủ hết rồi 450.000.000 Bốn trăm năm
chục triệu đồng” và tại mục 4 “Tr có bán đất 06 công cập chùa H ở P cho anh
H (sáu công) tiền đất sáu công trả đủ tiền hết không thiếu công nào, tổng số tiền
bằng 2.100.000.000đ (Hai tỷ mốt)”. Ông Tr cho rằng nội dung thỏa thuận này là
hai ông hùn nhau mua đất chứ không phải ông bán đất cho ông H, nhưng ông H
không thừa nhận và ông Tr cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng
minh, cho nên lời trình bày này của ông Tr là không có cơ sở.
[6] Từ đó, Hội đồng xét xử sơ thẩm xác định ông Tr có thỏa thuận chuyển
nhượng cho ông H 01 (một) công đất tọa lại tại Đ, ấp B, xã H, thành phố P, tỉnh
Kiên Giang với giá 260.000.000 đồng theo “Giấy mua bán đất” ngày
17/10/2020 và 1,5 công đất tại ấp B, xã H, thành phố P, tỉnh Kiên Giang với giá
450.000.000 đồng, 06 (sáu) công đất giáp chùa H, ấp S, xã D, thành phố P, tỉnh
Kiên Giang với giá 2.100.000.000 đồng theo “Giấy hai người cùng bỏ vốn ra
mua đất và bán đất” ngày 20/4/2020; ông Tr đã nhận tiền chuyển nhượng đầy
đủ, tổng cộng 2.810.000.000 đồng và chưa giao đất cho ông H là có căn cứ.
[7] Tại thời điểm giao kết các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, ông H và ông Tr đều có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân
sự, hoàn toàn tự nguyện. Tuy nhiên, về hình thức của hợp đồng, theo quy định
tại Điều 502 Bộ luật Dân sự năm 2015 và điểm a khoản 3 Điều 167 Luật đất đai
năm 2013 thì phải lập thành văn bản phù hợp với quy định của pháp luật, phải
6
được công chứng hoặc chứng thực, nhưng 02 bên chỉ lập hợp đồng bằng giấy
viết tay, không có công chứng hoặc chứng thực là vi phạm về hình thức hợp
đồng. Về nội dung hợp đồng, hai bên cũng thừa nhận đất ông Tr chưa có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và hiện nay, ông Tr cũng chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, cho nên nội dung hợp đồng là vi phạm điều cấm
của luật, ông Tr chưa đủ điều kiện để chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông
H theo quy định tại khoản 1 Điều 167, khoản 1 Điều 168 Luật đất đai năm 2013
và Điều 501 Bộ luật Dân sự năm 2015. Do đó, Hội đồng xét xử sơ thẩm chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của ông H, tuyên bố các hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất nêu trên giữa ông H với ông Tr vô hiệu; buộc ông Tr hoàn trả lại
cho ông H số tiền chuyển nhượng đã nhận tổng cộng 2.810.000.000 đồng, còn
ông H chưa nhận được đất của ông Tr nên không buộc ông H giao trả lại đất cho
ông Tr, là đúng quy định tại các điều 122, 123, 129 và Điều 131 Bộ luật Dân sự
năm 2015.
[8] Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại do hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất bị vô hiệu. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông H rút lại yêu cầu khởi
kiện này nên cấp sơ thẩm đình chỉ xét xử là đúng quy định tại khoản 2 Điều 244
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[9] Ông Tr kháng cáo yêu cầu xem xét sửa bản án sơ thẩm theo hướng
không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông H, với lý do thực tế ông với
ông H hùn tiền mua đất chứ không phải ông chuyển nhượng đất cho ông H,
nhưng ông không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh vấn đề này
nên không có căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.
[10] Đối với yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm đưa ông Lương Hoàng Ph, bà
Trương Thị Đ, ông Nguyễn Thành Đ1 tham gia tố tụng với tư cách người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015 có quy định: “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án
dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án
dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị
hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham
gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp
việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người
nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với
tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. Như vậy, việc thỏa thuận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên giữa ông Tr với ông H không có liên
quan gì đến quyền lợi, nghĩa vụ của những người này, cho nên cũng không có
căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.
[11] Các phần khác trong quyết định của bản án sơ thẩm không có kháng
cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[12] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận đề
nghị của Kiểm sát viên, không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của ông Tr, căn cứ
khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, giữ nguyên bản án dân sự
sơ thẩm.

7
[13] Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Tr là người kháng cáo không được
chấp nhận và cũng không thuộc trường hợp được miễn hoặc không phải chịu án
phí phúc thẩm nên theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án, ông phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng và được khấu trừ vào
số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 6 Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12
năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn Tr
(Minh Tr).
1. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 94/2024/DS-ST ngày 23 tháng 9
năm 2024 của Tòa án nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng, cụ thể:
Tuyên xử:
1.1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Dương Hoàng Mộng
Thanh H. Tuyên bố các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Dương Hoàng Mộng Thanh H với ông Nguyễn Văn Tr, theo “Giấy hai người
cùng bỏ vốn ra mua đất và bán đất” ngày 20/4/2020 và “Giấy mua bán đất” ngày
17/10/2020 là vô hiệu.
Buộc ông Nguyễn Văn Tr có nghĩa vụ hoàn trả lại cho ông Dương Hoàng
Mộng Thanh H tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã nhận tổng cộng
2.810.000.000 đồng (Hai tỷ tám trăm mười triệu đồng).
Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án
của ông Dương Hoàng Mộng Thanh H thì hàng tháng, ông Nguyễn Văn Tr còn
phải chịu khoản tiền lãi trên số tiền chậm thi hành án theo mức lãi suất quy định
tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 cho đến khi thi hành án
xong.
1.2. Đình chỉ xét xử phần yêu cầu khởi kiện của ông Dương Hoàng Mộng
Thanh H, về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn Tr bồi thường thiệt hại do hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất bị vô hiệu.
1.3. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Dương Hoàng Mộng Thanh H không phải chịu.
- Ông Nguyễn Văn Tr phải chịu là 88.500.000 đồng (Tám mươi tám triệu
năm trăm nghìn đồng).
2. Án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Nguyễn Văn Tr phải chịu là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng),
được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn
8
đồng), theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007215 ngày 15 tháng
10 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã N, tỉnh Sóc Trăng và như
vậy, ông đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.
3. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân
sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu
cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy
định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung
năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND TX. Ngã Năm;
- VKSND tỉnh Sóc Trăng;
- VKSND TX. Ngã Năm;
- Chi cục THADS TX. N;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Hoàng Lâm
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 17/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 30/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm