Bản án số 02/2025/DS-PT ngày 15/01/2025 của TAND tỉnh Ninh Bình về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 02/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 02/2025/DS-PT ngày 15/01/2025 của TAND tỉnh Ninh Bình về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Ninh Bình
Số hiệu: 02/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 15/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: ông Nguyễn Văn Q và bà Trần Thị S kiện bà Mai Thị H và ông Phan Văn C về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH NINH BÌNH
Bản án số: 02/2025/DS-PT
Ngày 15 - 01 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: bà Nguyễn Thị Phượng.
Các Thẩm phán:
+ Ông Phạm Thanh Tùng.
+ Ông Nguyễn Tử Lượng.
- Thư ký phiên tòa: bà Trần Thị Huyền – Thư ký của Tòa án nhân dân tỉnh
Ninh Bình.
- Đại diện Viện Kiểm t nhân dân tỉnh Ninh Bình: Phạm Thị Thanh
- Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Ngày 15/01/2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình xét xphúc
thẩm công khai vụ án thụ số 23/2024/TLPT-DS ngày 25/10/2024 về Tranh
chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 10/2024/DS-ST ngày 21/8/2024 của Toà án
nhân dân huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 23/2024/QĐ-PT ngày
27/11/2024, Quyết định hoãn phiên toà phúc thẩm số 19/2024/QĐ-PT ngày
26/12/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1947 Trần Thị S, sinh
năm 1949. Cùng địa chỉ: xóm M, K, huyện K, tỉnh Ninh Bình. (Ông Q vắng
mặt, bà S có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Trần Thị S: ông Phan Anh
T Luật sư của Công ty L1, thuộc Đoàn Luật sư thành phố H. Địa chỉ: Tòa nhà
S N, phường H, quận T, thành phố Hà Nội. (Có mặt)
2. Bị đơn: Mai Thị H, sinh năm 1974 ông Phan Văn C, sinh năm 1959.
Cùng địa chỉ: xóm C, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình. (Vắng mặt)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
3.1. Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1979 chị Nguyễn Thị T1, sinh năm
1982. Cùng địa chỉ: xóm M, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình. (Có mặt)
3.2. Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1982 anh Nguyễn Văn Đ1, sinh năm
1981. Nơi đăng ký thường trú: xóm F, N, huyện K, tỉnh Ninh Bình. Nơi đang
cư trú: xóm M, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình. (Vắng mặt)
4. Người làm chứng:
4.1. Ông Trần Minh M, sinh năm 1949. Địa chỉ: xóm M, xã K, huyện K, tỉnh
Ninh Bình. (Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
4.2. Ông Nguyễn Thái B, sinh năm 1976. Địa chỉ: xóm P, K, huyện K,
tỉnh Ninh Bình. (Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
4.3. Ông Trịnh Vĩnh H1, sinh năm 1978. Địa chỉ: phố T, thị trấn P, huyện K,
tỉnh Ninh Bình. (Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
4.4. Chị Thủy N1, sinh năm 1995. Địa chỉ: xóm P, K, huyện K, tỉnh
Ninh Bình. (Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
4.5. Chị Phạm Thị H2, sinh năm 1981. Địa chỉ: xóm M, xã K, huyện K, tỉnh
Ninh Bình. (Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
4.6. Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1968. Địa chỉ: xóm M, K, huyện K,
tỉnh Ninh Bình. (Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
4.7. Anh Ngô Thượng Đ2, sinh năm 1980. Địa chỉ: xóm E, K, huyện K,
tỉnh Ninh Bình. (Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
5. Người kháng cáo:Trần Thị S (nguyên đơn).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 08/5/2023, trong quá trình giải quyết vụ án tại
Toà án cấp thẩm, ông Nguyễn Văn Q, Trần Thị S nguyên đơn anh
Nguyễn Văn Đ người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn, đồng thời
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Vợ chồng ông Nguyễn Văn Q Trần Thị S được quyền sử dụng thửa đất
có 360m
2
đất ở, 225m
2
đất trồng cây lâu năm, tại thửa đất số 409, tờ bản đồ số 4,
bản đồ địa chính K; đất đã được Ủy ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND)
huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sau đây viết tắt GCNQSDĐ)
mang tên ông Nguyễn Văn Q.
Ngày 01/02/2002 ông Q bà S tách thửa đất cho anh Nguyễn Văn Đ với diện
tích 287m
2
, trong đó có 62m
2
đất ở, 225m
2
đất trồng cây lâu năm. Ngày
02/01/2018 ông Q bà S tặng cho con gái chị Nguyễn Thị T2 (chồng chị T2
anh Dương Văn T3) diện tích 107,1m
2
, trong đó 92,5m
2
đất ở, 14,6m
2
đất trồng
cây lâu năm. Ông Q bà S tặng cho con gái là chị Nguyễn Thị L (chồng chị Lụa là
3
anh Văn T4) diện tích 130,3m
2
, trong đó 53,4m
2
đất ở, 76,9m
2
đất trồng
cây lâu năm.
Ngày 05/01/2018 ông Q S nhận tặng cho từ anh Nguyễn Văn Đ (vợ anh
Đ là chị Nguyễn Thị T1) với diện tích 287m
2
, trong đó có 62m
2
đất ở, 225m
2
đất
trồng cây lâu năm.
Như vậy, diện tích đất còn lại của ông Q S 347,6m
2
, trong đó 214,1m
2
đất ở, 133,5m
2
đất trồng cây lâu năm. Ông Q S cho anh Đ xây dựng 01 nhà mái
bằng 3 tầng trên diện tích đất ở, có diện tích sàn mỗi tầng là 70m
2
.
Ngày 28/12/2018 sau khi điều chỉnh các biến động, ông Q S nhận được
GCNQSDĐ thể hiện ông được quyền sử dụng 133,4m
2
đất tại tbản đồ số 13,
thửa đất số 239. Ông bà phát hiện phần đất có diện tích 214m
2
của ông bà đã bị
chuyển nhượng cho vợ chồng bà Mai Thị H ông Phan Văn C, bao gồm cả phần
nhà mái bằng 3 tầng của anh Đ chị T1. Ông bà không làm thủ tục chuyển nhượng
quyền sử dụng đất cho ông C H, không vào hợp đồng chuyển nhượng đất
cho H ông C. Hiện phần nhà đất nêu trên đang do vợ chồng anh Đ1 chị N quản
lý, sử dụng.
Tại đơn khởi kiện, nguyên đơn đề nghị Tòa án tuyên huỷ hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 02/01/2018 giữa bà Trần Thị S, ông Nguyễn
Văn Q với ông Phan Văn C, Mai Thị H. Buộc ông C, H phải trả lại phần
diện tích đất nêu trên cho ông Q, bà S.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại Toà án cấp thẩm, bị đơn Mai
Thị H và ông Phan Văn Chu trình B1:
Do có mối quan hệ quen biết với vợ chồng anh Đ, vợ chồng bà H có cho vợ
chồng Đường T vay tiền. Khi số nợ mà vchồng Đường T vay của ông C H
vay của Ngân hàng nhiều, không khả năng trả nợ thì vợ chồng Đường T5
đã tự nguyện chuyển nhượng nhà đất cho bà H, ông C để lấy tiền trả nợ Ngân
hàng, lấy bìa đỏ về để hai bên làm các thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất
cho nhau. Khi tiến hành các thủ tục chuyển nhượng đất thì vị trí đất mà vợ chồng
Đường T chuyển nhượng cho vợ chồng bà H lại thể hiện trong GCNQSDĐ mang
tên S, ông Q; không đúng vị trí thửa đất vợ chồng Đường T chuyển nhượng
cho ông C H. Do vậy, các bên buộc phải làm thủ tục nhập thửa đất của vợ
chồng Đường T5 vào thửa đất của ông Q bà S. Đồng thời, ông Q S sẽ hợp
đồng chuyển nhượng đất cho vợ chồng ông C H theo đúng vị trí, kích thước
diện tích mà hai bên đã thỏa thuận.
Ngày 02/01/2018 vợ chồng ông Q bà S đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông
C bà H diện tích 214,2m
2
đất nông thôn tại thửa đất số 61, tờ bản đồ số 13 cùng
với 01 nhà, giá chuyển nhượng ông không nhớ cụ thể, nhưng theo hợp đồng
chuyển nhượng là 50.000.000 đồng. Các bên ký kết hợp đồng chuyển nhượng có
đầy đủ năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự, các bên hoàn toàn khỏe mạnh,
tự nguyện khi giao kết hợp đồng, không bị lừa dối. Hợp đồng chuyển nhượng
được quyền sử dụng đất đã được công chứng, chứng thực tại UBND xã K theo
4
đúng pháp luật. Chữ ký trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là của
ông Q bà S.
Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng xong, hai bên đã tiến hành các thủ tục
giao đất tại thực địa, các bên giao nđất nhận mốc giới hoàn toàn vui vẻ thiện
chí, đoàn kết, có cả chính quyền địa phương tham gia khi giao đất tại thực địa.
Ngày 15/01/2018 vợ chồng ông C H được cấp GCNQSDĐ. Ông sử
dụng ổn định, không tranh chấp. Do không nhu cầu sử dụng nhà diện
tích đất nêu trên, cuối năm 2018 ông đã chuyển nhượng lại toàn bộ nhà đất nêu
trên cho anh Nguyễn Văn Đ1 chị Nguyễn Thị N theo hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất số 76 ngày 13/12/2018. Khi hợp đồng chuyển nhượng
giáp ranh giao đất tại thực địa, ông Q S giáp ranh xác nhận mốc
giới khi giao đất tại thực địa.
Ngày 20/12/2018 anh Đ1 chị N được cấp GCNQSDĐ. Ông bà còn biết, ông
Q S còn sang dự lễ vnhà mới và mừng tiền cho anh Đ1 chị N; các bên vui vẻ,
quá trình sử dụng không có mâu thuẫn tranh chấp gì.
Đối với yêu cầu khởi kiện của ông Q bà S là không có căn cứ, hiện nay ông
bà không liên quan đến yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bởi vì: việc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất hai bên hoàn toàn tự nguyện tuân thủ các quy
định của pháp luật. Chữ ký, chữ viết trong hợp đồng chuyển nhượng là của các
bên tham gia giao dịch. Các bên đã được cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất mình
nhận chuyển nhượng của ông Q S. Ông đã chuyển nhượng cho người thứ
ba là vợ chồng anh Đ1 chị N. Việc chuyển nhượng diễn ra ngay tình công khai và
đúng pháp luật. Liên quan đến quyền lợi của người thứ ba ngay tình là vợ chồng
anh Đ1 chị N đã được cấp GCNQSDĐ. Đồng thời sử dụng hợp pháp quyền sử
dụng thửa đất nêu trên từ năm 2018 cho đến nay. Do vậy ôngđề nghị Toà án
bác hết yêu cầu khởi kiện của ông Q bà S.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại Toà án cấp thẩm, người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan là chị Nguyễn Thị T1 trình bày:
Ông Quy bà Soi bố mchồng của chị. Chthống nhất với lời khai của
nguyên đơn, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn về nguồn gốc đất, sự biến
động về thửa đất số 409 của ông Q S. Ông Q bà S không làm thủ tục chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho ông C bà H. Hiện phần nhà đất nêu trên vợ chồng
anh Đ1 chị N đang trực tiếp sử dụng đất sở hữu nhà. Chị nhất trí đối với yêu
cầu khởi kiện của ông Q bà S.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại Toà án cấp thẩm, người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Văn Đ1 và chị Nguyễn Thị N trình bày:
Vợ chồng anh chị có quen biết với vợ chồng H. Ngày 13/12/2018 ông C
H có chuyển nhượng cho anh chị quyền sử dụng đất diện tích 214,2m
2
đất
nông thôn, trên đất có nhà. Hai bên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất số 67 ngày 13/12/2018. Việc ký kết giữa các bên
hoàn toàn tnguyện, công khai, ngay tình, không tranh chấp gì về mốc giới
5
quyền sử dụng đất. Ngày 20/12/2018 anh Đ1 chị N được cấp GCNQSDĐ. Sau đó
anh chị nhận giao đất trên thực địa. Khi giao đất ông Q S các con của
ông Q bà S cùng chỉ mốc giới, xác nhận mốc giới cho vợ chồng anh chị. Khi dọn
về ở, anh Đ1 chị N còn làm khoảng 30 mâm cơm để mừng tân gia có mời ông Q
bà S và các con của ông Q bà S sang dự lễ mừng nhà mới. Anh G (con trai bà S)
bà S còn mừng nhà mới cho anh Đ1 chị N bằng tiền được ghi vào sổ. Thời gian
sau đó anh chị ở ổn định, các bên không có tranh chấp gì. Anh chị không nhất trí
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bởi vì: anh chị nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất từ ông C bà H tuân thủ các quy định của pháp luật. Việc sử dụng đất
của vợ chồng anh chị hợp pháp, không liên quan đến việc khởi kiện của các
bên. Thửa đất số 230 cùng các tài sản gắn liền với thửa đất thuộc quyền sử dụng
hợp pháp của anh chị đã được Nhà nước công nhận.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại Toà án cấp thẩm, những người làm
chứng trình bày như sau:
- Ông Trần Minh M (nguyên Trưởng xóm M) trình bày: ban đầu H, ông
C ý định mua đất của anh Đ chị T1. Khi các bên xuống UBND xã để làm thủ
tục chuyển nhượng thì phát hiện vị trí đất các bên chuyển nhượng cho nhau
không đúng như vị trí đất mà bà H ông C muốn mua, mục đích của ông C H
muốn mua phần đất có nhà để thuận tiện cho việc sử dụng. Do đó, anh Đ chị T1
đã làm thủ tục tặng cho diện tích đất của mình cho ông Q S. Sau đó ông Q bà
S lại chuyển nhượng lại quyền sử dụng đất cho ông C H. Hai bên kết với
nhau rất nhiều thành phần tham gia, bao gồm: ông Q, S, những người con
trai và con gái của ông Q bà S, vợ chồng bà H ông C, ông H1 (địa chính), ông B
(Phó Chủ tịch xã) ông. Sau khi các bên xác định mốc giới tại thực địa, thống
nhất về vị trí chuyển nhượng cùng diện tích, giá trị chuyển nhượng thì các bên đã
ký hợp đồng chuyển nhượng đất. Cùng thời điểm đó, các bên ký cả 02 hợp đồng
chuyển quyền sử dụng đất. Hợp đồng thứ nhất hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất, thể hiện việc anh Đ chị T1 tặng lại quyền sử dụng nhà đất của anh Đ chị
T1 cho ông Q bà S. Sau đó ông Q bà S lại ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất cho ông C H. S ký trước vào các hợp đồng. Ông Q tay run định
cầm bút nhưng một trong các người con trai của ông Q đã hộ ông Q. Sau
đó các bên tiến hành thủ tục giao đất tại thực địa. Về gcả chuyển nhượng cho
nhau bao nhiêu thì ông không biết do các bên tự thỏa thuận. Thực tế các bên đã
giao nhà đất cho nhau. Ông C H đã sử dụng nhà đất một thời gian, do không
nhu cầu sử dụng đã chuyển nhượng cho vợ chồng anh chị Đắc N2. Việc chuyển
nhượng quyền sdụng đất giữa vợ chồng ông Hoa C1 và anh chị Đắc Ngát sau
này ông Q S cũng biết, ông Q S giáp ranh khi ông C1 H chuyển
nhượng đất cho Đắc N2.
- Ông Nguyễn Thái B (nguyên Phó Chủ tịch UBND xã K) trình bày: khi ông
Q bà S làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông C1 bà H, các bên
ra UBND xã K để thực hiện việc công chứng, chứng thực hợp đồng. Các bên
tiến hành làm thủ tục cả 02 hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, bao gồm hợp
đồng giữa anh Đ chị T1 tặng cho quyền sử dụng đất cho ông Q bà S và hợp đồng
6
ông Q S chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông C1 H. Do các bên không
xác định được cụ thể ranh giới, mốc giới, diện tích đất, vị trí thửa đất cụ thể nên
đồng cđịa chính đã báo cáo đại diện UBND các đoàn thể nên ông đã cùng
đồng chí địa chính, xóm trưởng xuống tại thực địa để kiểm tra khảo sát trước mốc
giới, ranh giới đất của ông Q bà S với các hộ liền kề có tranh chấp gì không, xác
định rõ vị trí đất anh Đ chị T1 tặng cho lại ông Q bà S, xác định vị trí đất ông Q
S chuyển nhượng cho H ông C1. Quá trình khảo sát có mặt ông Q S
những người con trai, con gái, con dâu, con rể của ông Q S. Các bên đã xác
định được mốc giới, ranh giới quyền sdụng đất, sau đó tnguyện chuyển quyền
sử dụng đất cho nhau. Các bên về UBND xã tiến hành hoàn tất các thủ tục giấy tờ
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mẫu hợp đồng do đồng chí địa chính
chịu trách nhiệm. S đã trực tiếp vào hợp đồng chuyển nhượng, ông Q tay
yếu lại run nên khi định cầm bút ký thì có một trong những người con của ông Q
đề nghị ký hộ cho ông Q nhưng không xác định được chính xác người ký hộ ông
Q. Ông nghĩ đơn giản do ý trí của ông Q S tự nguyện trong việc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho ông C1 bà H nên việc các con ông Q ký hộ cũng
không ảnh hưởng đến bản chất của việc chuyển nhượng đất giữa hai bên. Sau
đó các bên tiến hành giao nhận đất tài sản trên đất tại thực địa. Việc giao
đất trên thực địa cũng diễn ra công khai, khách quan trước mặt mọi người. Ông là
người xác nhận hợp đồng chuyển nhượng. Giá do các bên tự nguyện giao dịch
với nhau nên ông không can thiệp. Ông C1 H sử dụng một thời gian ngắn
không nhu cầu sử dụng thì chuyển nhượng lại cho anh Đ1 chị N2. Việc chuyển
nhượng giữa các bên diễn ra ngay tình công khai tuân thủ các quy định của
pháp luật.
- Ông Trịnh Vĩnh H1 (nguyên công chức địa chính của UBND K) trình
bày: vào tháng 01 năm 2018 việc mua bán chuyển nhượng đất giữa ông Q bà S
với ông C1 H công khai, khách quan, ngay tình. Thời điểm đó, gia đình bà
S ông Q nhu cầu thực hiện việc chuyển quyền sử dụng đất, bao gồm: hợp đồng
thứ nhất là anh Đ chị T1 ký hợp đồng tặng cho ông Q bà S quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với đất, hợp đồng thứ hai là ông Q bà S chuyển nhượng quyền sử
dụng đất cho ông C1 bà H. Mặt khác, gia đình bà S ng mong muốn chia quyền
sử dụng đất cho hai người con gái là chị T2 và chị L. Do cùng một lúc phải thực
hiện nhiều nội dung liên quan đến biến động quyền sử dụng đất của ông Q S
nên gia đình ông Q xuống UBND K để làm thủ tục chuyển nhượng tặng cho
đất, ông đã báo cáo lãnh đạo UBND xã, đồng thời ông người trực tiếp xuống
tại thực địa để khảo sát cũng như xác định lại ranh giới, mốc giới quyền sử dụng
đất của bà S ông Q với các hộ liền kề, xác định vị trí các bên tặng cho và chuyển
nhượng cho nhau. Khi xuống tại thực địa gia đình ông Q S cùng các con
trai, con gái, dâu, rể của ông Q bà S, ông C1, bà H, ông B, ông M. Sau khi thống
nhất được vị trí đất diện tích đất anh Đ chị T1 tặng cho ông Quy S1 cũng
như vị trí và diện tích đất ông Quy S1 chuyển nhượng cho H, ông C1; các
bên đã thống nhất vUBND để hoàn tất các thủ tục kết hợp đồng chuyển
nhượng. Tại UBND xã K, S1 khỏe mạnh và nhanh nhẹn nên đã ký trước, ông
Q do tay run, lại khó cầm bút nên ông Q đã để cho một trong những người con
7
của ông Q hộ ông Q. Ông nghĩ đơn giản đó ý trí của ông Q nên việc ai
hộ ông Q cũng không ảnh hưởng đến bản chất của sự việc, quan trọng là các bên
không có tranh chấp hay bị lừa dối gì. Sau khi hoàn tất hồ sơ công chứng, chứng
thực tại UBND K, các bên đã tiến hành đo đạc giao đất trên thực địa cho
các hộ chuyển nhượng, nhận chuyển nhượng với đầy đthành phần tham gia. Sau
đó, H đã nhận nhà đất sử dụng ổn định, được cấp GCNQSDĐ theo quy định.
Về giá trị của hợp đồng do các bên tự nguyện giao dịch với nhau nên ông không
quan tâm về giá chuyển nhượng, cũng không biết các bên giao tiền cho nhau vào
thời gian nào.
- Chị Thủy N1, chị Phạm Thị H2, ông Ngô Thượng Đ2, ông Nguyễn Văn
D đều trình bày: khi anh Đ1 chị N2 về nhận nhà đất của ông C1 bà H tổ chức
mời bà con thôn xóm đến mừng tân gia, các ông bà được tham gia tiệc tân gia và
mừng nhà cho anh chị Đắc N2. Riêng ông D giữ chức T6 xóm ttháng 10 năm
2018 thì biết việc chuyển nhượng đất giữa vợ chồng ông C1 H với vợ chồng
anh chị Đắc N2; đồng thời còn tham gia vào việc giao nhận nhà đất giữa các bên
tại thực địa.
Tại Bản án dân sự thẩm số 10/2024/DS-ST ngày 21/8/2024 của Toà án
nhân dân huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình đã quyết định:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 85, Điều
87, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân s;
Điều 116, Điều 117, Điều 118, Điều 119, Điều 688 Bộ luật Dân snăm 2015;
Điều 167 Luật Đất đai năm 2013; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tuyên
xử: không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn QTrần Thị S
về việc yêu cầu Tòa án tuyên bố “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
tài sản gắn liền với đất số 13/230/CN-QSDĐ&TS ngày 02/01/2018 giữa vợ
chồng bà S, ông Q với vchồng ông C1, H” là hiệu. Ngoài ra, bản án còn
tuyên phần án phí, quyền kháng cáo cho các bên đương sự, quyền, nghĩa vụ thi
hành án.
Ngày 04/9/2024, Trần Thị S đơn kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ
thẩm với nội dung bản án thiếu khách quan. Trong đơn khởi kiện, bà yêu cầu Tòa
án tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng bà với
vợ chồng H ông C1 vì do: không bán nhà đất cho vợ chồng H ông C1,
bị lừa dối vào hợp đồng mà không biết; bà không nhận tiền bán nhà đất
50.000.000 đồng; chồng bà không ký vào hợp đồng (có người đã ký giả mạo chữ
của ông Q); lãnh đạo UBND xã K biết người giả chữ của chồng bà nhưng
vẫn xác thực vào hợp đồng vi phạm pháp luật…Bà yêu cầu Tòa án cấp phúc
thẩm: tuyên hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Kim Sơn và chuyển
hồ vụ án cho Tòa án cấp thẩm để giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp
luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
8
S người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của S quan điểm: đnghị
Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp
sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật.
Anh Đ, chị T1 nhất trí quan điểm kháng cáo của bà S tại phiên tòa.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình phát biểu ý kiến về việc
tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm
đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 của Bộ
luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 29, điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Không
chấp nhận kháng o của S. Giữ nguyên Bản án thẩm số 10 ngày 21/8/2024
của Tòa án nhân dân huyện Kim Sơn. Về án phí dân sự phúc thẩm: bà S người
cao tuổi nên được miễn án phí.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng.
[1.1] Đơn kháng cáo của S được làm trong thời hạn pháp luật quy định
đúng hình thức, nội dung theo quy định pháp luật nên được chấp nhận xem
xét theo thủ tục phúc thẩm.
[1.2] Về phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo, phạm vi xét xử
phúc thẩm.
Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn đề nghị Tòa án tuyên huỷ hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 13/230/CN-QSDĐ&TS
ngày 02/01/2018 giữa ông Nguyễn Văn Q, Trần Thị S với bà Mai Thị H, ông
Phan Văn C (sau đây viết tắt hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
tài sản gắn liền với đất số 13). Buộc H, ông C phải trả lại phần diện tích đất
cho ông Q, bà S.
Tại phiên toà thẩm, nguyên đơn đề nghị Tòa án tuyên hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất số 13 vô hiệu. Đề nghị
ông C, bà H phải trả lại quyền sử dụng đất cho ông Q, bà S.
Tại phiên toà phúc thẩm, bà S người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
của bà S trình bày: nguyên đơn xác định yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn tại
phiên tòa thẩm quan điểm hiện nay đề nghị Toà án tuyên hợp đồng chuyển
nhượng quyền sdụng đất và tài sản gắn liền với đất s13 là vô hiệu, đnghị ông
C, bà H phải trả lại quyền sử dụng đất cho ông Q, bà S.
Như vậy, tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn đã sửa đổi một phần yêu cầu
khởi kiện, không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu; cần xác định yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn là đề nghị Toà án tuyên hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất số 13 hiệu, buộc bị đơn phải
trả lại quyền sử dụng đất cho nguyên đơn.
9
Bà S kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy
bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ
án. Căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét
bản án sơ thẩm theo nội dung kháng cáo của bà S.
[1.3] Trước khi Tòa án cấp thẩm ra bản án, các đương sự trong vụ án
không ai yêu cầu áp dụng thời hiệu nên không xem xét áp dụng thời hiệu khởi
kiện theo quy định tại khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự
[1.4] Tại phiên tòa phúc thẩm, những người làm chứng như ông Trần Minh
M, ông Nguyễn Thái B, ông Trịnh Vĩnh H1, chị Vũ Thủy N1, chị Phạm Thị H2,
ông Nguyễn Văn D, anh Ngô Thượng Đ2 vắng mặt nhưng đã đơn xin xét xử
vắng mặt. Ông Nguyễn Văn Q, Mai Thị H, ông Phan Văn C, chị Nguyễn Thị
N, anh Nguyễn Văn Đ1 đều đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai vẫn
vắng mặt. Căn cứ Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử phúc
thẩm xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung của vụ án.
Tại trích lục bản đồ địa chính thể hiện: thửa đất số 409, tờ bản đồ số 4, bản
đồ địa chính K lập năm 1996, diện tích 585m
2
(trong đó 360m
2
đất ở, 225m
2
đất vườn), chủ sử dụng đất là ông Nguyễn Văn Q. (Bút lục số 22).
Năm 2002, ông Q đã làm thủ tục tách thửa đất cho anh Đ (con trai) với diện
tích 287m
2
(trong đó 62m
2
đất 225m
2
đất vườn). Sau khi tách một phần
thửa đất cho anh Đ; ông Q, bà S còn 298m
2
đất ở, tại thửa đất số 61, tờ bản đồ số
13, bản đđịa chính K lập năm 2012 (bút lục số 149). Tại đơn đề nghị tách
thửa ngày 02/01/2018 (có chữ S) thể hiện: thửa 61, diện ch 298m
2
đất
tách thành 2 thửa đất, cụ thể: thửa số 230, diện tích 214,2m
2
đất ở và thửa số 231,
diện tích 83,8m
2
đất ở. do tách thửa đất là: để chuyển nhượng 1 phần diện tích
thửa đất.
Tại hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất
số 13 thể hiện: ngày 02/01/2018 ông Q, bà S đã chuyển nhượng cho ông C, bà H
phần diện tích 214,2m
2
đất ở của thửa đất số 61 nêu trên (tài sản gắn liền với đất
là nhà 3 tầng), diện tích còn lại của thửa đất số 61, tờ bản đồ số 13 là 83,8m
2
đất
ở.
Ngày 15/01/2018, Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh N cấp GCNQSDĐ
mang tên bà Mai Thị H và ông Phan Văn C được quyền sử dụng thửa đất số 230,
tờ bản đồ số 13, diện tích 214,2m
2
đất ở.
Ngày 02/01/2018 anh Đ, chị T1 tặng cho ông Q, S quyền sử dụng diện
tích 287m
2
đất (trong đó 62m
2
đất và 225m
2
đất trồng cây lâu năm). Tại
Biên bản xác định ranh giới, mốc giới tại thực địa ngày 05/01/2018 thể hiện hiện
trạng sử dụng đất: do hợp 2 thửa đất số 62 thửa đất số 231 tách ra từ thửa số
61 (các bút lục số 146, 147). Đến ngày 15/01/2018, Sở Tài nguyên Môi trường
tỉnh N cấp GCNQSDĐ mang tên ông Nguyễn Văn Q Trần Thị S được quyền
10
sử dụng thửa đất số 232, tờ bản đồ số 13, diện tích 370,8m
2
(trong đó có 145,8m
2
đất ở, 225m
2
đất trồng cây lâu năm).
Ngày 09/11/2018 ông Q đơn đề nghị tách thửa đất số 232, tờ bản đồ số
13 thành 3 thửa đất, cụ thể: thửa số 237, diện tích 107,1m
2
đất; thửa số 238, diện
tích 130,3m
2
đất và thửa số 239, diện tích 133,4m
2
đất. Lý do tách thửa đất là: đ
tặng cho quyền sử dụng đất.
Ngày 10/11/2018 ông Q, bà S ký Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho
vợ chồng con gái (chị L) với diện tích 130,3m
2
đất. Ngày 10/11/2018 ông Q, bà S
ký Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho vợ chồng con gái (chị T2) với diện
tích 107,1m
2
đất. Diện tích đất sau khi tách thửa cho chị T2, anh T3 và chL, anh
T4 thì diện tích đất còn lại của ông Q, bà S là 133,4m
2
đất.
Ngày 13/12/2018 ông C, H hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất cho anh Đ1, chị N.
Ngày 20/12/2018, Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh N cấp GCNQSDĐ
mang tên anh Nguyễn Văn Đ1 chị Nguyễn Thị N được quyền sử dụng thửa đất
số 230, tờ bản đồ số 13, diện tích 214,2m
2
đất ở.
Ngày 28/12/2018, Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh N cấp GCNQSDĐ
mang tên bà Nguyễn Thị T2 và ông ơng Văn T3 được quyền sử dụng thửa đất
số 237, tờ bản đồ số 13, diện tích 107,1m
2
đất (trong đó có 92,5m
2
đất ở, 14,6m
2
đất trồng cây lâu năm).
Ngày 28/12/2018, Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh N cấp GCNQSDĐ
mang tên Nguyễn Thị L ông Văn T4 được quyền sử dụng thửa đất số
238, tờ bản đồ số 13, diện tích 130,3m
2
đất (trong đó 53,3m
2
đất ở, 77m
2
đất
trồng cây lâu năm).
Ngày 28/12/2018, Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh N cấp GCNQSDĐ
mang tên ông Nguyễn Văn Q Trần Thị S được quyền sử dụng thửa đất số
239, tờ bản đồ số 13, diện tích 133,4m
2
đất trồng cây lâu năm.
Nay ông Q, S cho rằng ông không làm thủ tục chuyển nhượng quyền
sử dụng đất cho ông C, H; đề nghị Toà án tuyên hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 13 hiệu, buộc bị đơn phải
trả lại quyền sử dụng đất cho nguyên đơn.
[3] Về nội dung kháng cáo của bà Trần Thị S.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp thẩm đã ban hành Quyết định trưng
cầu giám định, mẫu cần giám định là “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất tài sản gắn liền với đất số 13/230/CN-QSDĐ&TS ngày 02/01/2018 (ký
hiệu A).
Theo Kết luận giám định số 215/Kl-KTHS ngày 15/9/2023 của V Bộ C2
kết luận: chữ dạng chữ viết “Trần thị Soi” dưới mục Bên A” trên mẫu cần
giám định ký hiệu A so với chữ ký, chữ viết của Trần Thị S trên các mẫu so sánh
hiệu từ M1 đến M12 do cùng một người ký, viết ra. Chữ dạng chữ viết
11
“Nguyễn Văn Q” dưới mục “Bên A” trên mẫu cần giám định hiệu A so với
chữ ký, chữ viết của Nguyễn Văn Q trên các mẫu so sánh hiệu từ M3 đến
M13 không phải do cùng một người ký, viết ra.
Như vậy, S đã ký vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất số 13. Tuy ông Q không ký vào hợp đồng chuyển nhượng nhà
đất cho bị đơn nhưng khi tách thửa đất còn lại diện tích 370,8m
2
cho chị T2,
anh T3 chị L, anh T4 (sau thời điểm chuyển nhượng nhà đất cho bị đơn), ông
Q đã trực tiếp đơn đnghị tách thửa đất của mình thành 03 thửa đất. Ông Q đã
nhận ranh giới, mốc giới thửa đất của gia đình mình giáp thửa đất của H,
thể hiện ông Q đã thừa nhận phía Tây thửa đất của gia đình ông Q giáp với thửa
đất số 230 của bị đơn. Do đó, Hội đồng xét xử xác định ông Q có biết và đã chấp
nhận việc chuyển nhượng nhà đất của gia đình ông Q, bà S cho ông C, bà H; ông
Q, S không phản đối trong thời gian dài cho đến khi ông Q, S làm đơn đề
nghị ngày 07/8/2021 là 3 năm 7 tháng 5 ngày. Mặt khác, tại Biên bản xác định
ranh giới, mốc giới thửa đất tại thực địa ngày 10/11/2018 chữ của ông Q
(bút lục số 271, họa ranh giới, mốc giới thửa đất) thể hiện nội dung: tôi
Nguyễn Văn Q nhận diện tích và kích thước khi đo đạc thực địa theo Biên bản
này và cam kết không có ý kiến hay thắc mắc gì khác”.
Theo quy định tại khoản 7 Điều 95 Luật Đất đai năm 2013 quy định: việc
đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào
Sổ địa chính. Đối chiếu với quy định nêu trên, tại Sổ theo dõi biến động đất đai
thể hiện: căn cứ pháp lý để vào sổ biến động đất đai hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 02/01/2018; nội dung trước biến động: chủ sử dụng đất
ông Nguyễn Văn Q; nội dung sau biến động: chủ sử dụng đất là bà Mai Thị H,
thửa số 230, diện tích 214,2m
2
đất. Như vậy, sau khi nhận chuyển nhượng nhà
đất, H và ông C đã làm thủ tục đăng quyền sử dụng đất tại quan nhà
nước có thẩm quyền và đã được cấp GCNQSDĐ, bị đơn sử dụng nhà đất, không
có tranh chấp với ai.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 95 của Luật Đất đai năm 2013 quy định:
đăng ký đất đai là bắt buộc đối với người sử dụng đất và người được giao đất để
quản lý; đăng quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất thực hiện
theo yêu cầu của chủ sở hữu. Theo đó, việc đăng quyền sở hữu nhà tài
sản khác gắn liền với đất vào GCNQSDĐ là không bắt buộc mà được thực hiện
theo yêu cầu của chủ sở hữu.
Ngày 13/12/2018 ông C, bà H chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất cho người thứ ba ngay tình anh Đ1, chị N. Anh Đ1, chị N đã
đăng ký và làm thủ tục cấp GCNQSDĐ theo đúng trình tự, thủ tục.
Ngày 20/12/2018, anh Đ1, chị N đã được cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất
số 230, tờ bản đồ số 13, diện tích 214,2m
2
đất theo đúng quy định của pháp luật.
Đối chiếu với quy định tại Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về
lừa dối trong giao dịch dân sự, xét thấy việc chuyển nhượng nhà đất giữa nguyên
đơn bị đơn diễn ra ngay tình, công khai từ ngày 02/01/2018. Sau khi hợp
12
đồng chuyển nhượng; ông Q, S vẫn trên diện tích đất còn lại, gần với nhà
đất đã chuyển nhượng cho bà H, ông C. Bà S kháng cáo cho rằng ông Q, bà S bị
lừa dối khi hợp đồng chuyển nhượng nhà đất cho ông C, bà H nhưng S
không có tài liệu, chứng cứ chứng minh, toàn bộ sự việc diễn ra ngay tình, công
khai, phù hợp với lời khai của người làm chứng.
Ông Q không ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản
gắn liền với đất số 13 nhưng trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông Q đã biết
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 13 đã
được ký kết mà không phản đối, được coi là ông Q chấp thuận đối với nội dung
của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất số
13. Do đó, không căn cứ để xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất số 13 bị vô hiệu. Tòa án cấp sơ thẩm xác định hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 13 đã phát
sinh hiệu lực pháp luật; từ đó không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tại đơn đề nghị tách thửa ngày 02/01/2018 (có chữ S) thể hiện ý chí
ban đầu của S về lý do tách thửa đất để chuyển nhượng 1 phần diện tích
thửa đất”; không phải để tặng cho con. Đồng thời, tại Biên bản xác định ranh
giới, mốc giới thửa đất tại thực địa của ông Phan Văn C đang sdụng đất (các bút
lục số 167, 168), bà S ký xác nhận mốc giới, ranh giới sử dụng đất của mình,
bà S đã thừa nhận phía Đông của thửa đất số 230 (thửa đất của H, ông C) giáp
thửa đất của bà S. Tại phiên tòa, S ng thừa nhận sự việc khi thấy vợ chồng
anh Đ1 chị N đến ở, bà nói nhà của không bán nhưng khi anh Đ1, chị N làm
cơm mừng tân gia, S gửi tiền mừng. Do đó, S kháng cáo cho rằng nguyên
đơn không chuyển nhượng nhà đất cho bị đơn là không có căn cứ.
[4] Về chi phí tố tụng: anh Đ tự nguyện nộp chi phí tố tụng, không đnghị
Tòa án giải quyết. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét giải quyết đúng
pháp luật.
[5] Tại phiên tòa phúc thẩm, S và người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
của S không xuất trình thêm được tài liệu, chứng cứ mới đchứng minh
cho yêu cầu kháng cáo nên không căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bà S.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận toàn bộ
yêu cầu kháng cáo của S lời trình bày của người bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp của bà S, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
[6] Án phí dân sự phúc thẩm.
Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên S phải chịu án phí dân
sự phúc thẩm. Tuy nhiên, S thuộc trường hợp người cao tuổi, xin miễn nộp
tiền án phí; thuộc trường hợp được miễn nộp án phí dân sự phúc thẩm theo quy
định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
13
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào: khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân
sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15, khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản và sử dụng án phí lệ pTòa
án. Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bà Trần Thị S.
2. Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm s10/2024/DS-ST ngày 21/8/2024 của
Toà án nhân dân huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: bà Trần Thị S được miễn nộp án phí dân sự
phúc thẩm.
4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sựthì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân
sựThời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành
án dân sự
5. Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày
15/01/2025).
Nơi nhận:
-TAND cấp cao tại Hà Nội;
-VKSND tỉnh Ninh Bình;
-Phòng KTNV-THA;
- TAND huyện Kim Sơn;
-Chi cục THADS huyện Kim Sơn;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án. VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Thị Phượng
Tải về
Bản án số 02/2025/DS-PT Bản án số 02/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 02/2025/DS-PT Bản án số 02/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất