Bản án số 21/2024/DS-ST ngày 08/08/2024 của TAND huyện M'Drăk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 21/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 21/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 21/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 21/2024/DS-ST ngày 08/08/2024 của TAND huyện M'Drăk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện M'Drăk (TAND tỉnh Đắk Lắk) |
Số hiệu: | 21/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 08/08/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | kiện đòi lại GCN QSD đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN M Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 21/2024/DS-ST
Ngày: 08-8-2024
“V/v: Yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu và
trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa: Ông Võ Đức Hợi
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Văn Giang; bà Bùi Thị Thêm
- Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Công Đức – Thư ký Tòa án nhân dân huyện
M, tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện M, tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa:
Ông Phan Bá Quang - Kiểm sát viên.
Vào ngày 09 tháng 8 năm 2024, tại hội trường Tòa án nhân dân huyện M
xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 42/2024/TLST-DS ngày
07/5/2024 về việc “ Tuyên bố hợp đồng vô hiệu và yêu cầu trả lại giấy chứng
nhận QSD đất” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2024/QĐXXST-DS
ngày 19 tháng 7 năm 2024, giữa:
- Nguyên đơn: Bà H, sinh năm 1983. Địa chỉ: Buôn T, xã K, huyện M, tỉnh
Đắk Lắk. Vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Ông Nguyễn
Tiến T – Luật sư, văn phòng luật sư B thuộc đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Y S, sinh năm 1997.
Địa chỉ: Buôn B, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị H sinh năm 1976. Địa chỉ: Thôn 4, xã K, huyện
M, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt (có đơn xin vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1984. Địa chỉ: Thôn 4, xã K, huyện M,
tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt (có yêu cầu vắng mặt).
2
+ Bà Nguyễn Thị A, sinh năm 1973. Địa chỉ: Thôn 5, xã C, huyện M, tỉnh
Đắk Lắk. Có mặt.
+ Ông Y R, sinh năm 1972. Địa chỉ: Buôn T, xã K, huyện M, tỉnh Đắk Lắk.
Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn bà H, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho nguyên đơn là ông Nguyễn Tiến T, người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn ông Y S trình bày:
Bà H là chủ sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W
826293 do Ủy ban nhân dân huyện M, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 23/9/2004 cho hộ
Y R, thửa đất số 69, tờ bản đồ số 49, diện tích 4.670m
2
, đất màu; thửa đất số 70,
tờ bản đồ số 49, diện tích 1.100m
2
, đất 1 lúa; thửa đất số 71, tờ bản đồ số 49,
diện tích 650m
2
, đất 1 lúa; thửa đất số 64, tờ bản đồ số 51, diện tích 650m
2
, đất 1
lúa; thửa đất số 36, tờ bản đồ số 51, diện tích 2.030m
2
, đất 1 lúa; thửa đất số
222, tờ bản đồ số 49, diện tích 1.030m
2
, đất màu, đều tại xã K, huyện M, tỉnh
Đắk Lắk, đăng ký biến động để thừa kế cho bà H ngày 21/6/2018 (gọi tắt là
GCN QSD đất).
Ngày 26/02/2020, vợ chồng bà H, ông Y R chuyển nhượng cho ông
Nguyễn Văn H thửa đất số 222, tờ bản đồ số 49, diện tích 1.030m
2
với giá
250.000.000 đồng. Hai bên có lập giấy tay với nhau, bà H đã bàn giao cho ông
H thửa đất và bản chính GCN QSD đất, để ông H đi làm thủ tục tách thửa,
chuyển nhượng theo quy định của pháp luật.
Ngày 01/11/2021, ông Nguyễn Văn H chuyển nhượng và đã bàn giao lại
cho bà Nguyễn Thị A toàn bộ thửa đất số 222, tờ bản đồ số 49, diện tích
1.030m
2
. Vì vậy, để thuận tiện cho việc làm thủ tục, giấy tờ thì vợ chồng bà H
cùng với ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị A thoả thuận, thống nhất với
nhau là bà H sẽ trực tiếp ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
bà Nguyễn Thị A.
Tuy nhiên, sau khi nhận GCN QSD đất bà H giao cho thì ông Nguyễn
Văn H không làm thủ tục tách thửa mà tự ý thế chấp cho bà Nguyễn Thị H, nên
giữa vợ chồng bà H, ông Y Răng Byă với bà Nguyễn Thị A không có giấy
chứng nhận quyền sử dụng để tách thửa.
Vì vậy, nay bà H khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết:
+ Tuyên bố giao dịch giữa ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị H ngày
28/10/2021 về việc thế chấp GCN QSD đất là vô hiệu;
+ Buộc bà Nguyễn Thị H phải có trách nhiệm trả lại cho bà H GCN QSD
đất.
3
* Quá trình tố tụng bị đơn là bà Nguyễn Thị H trình bày:
Vào khoảng cuối năm 2021 bà H có nhận thế chấp GCN QSD đất của bà
H Loan từ ông Nguyễn Văn H, nguyên nhân là do ông H đang nợ tiền của bà
Hạnh 700.000.000 đồng và có giữ GCN QSD đất của bà H, nên khi bà H đứng
ra trả nợ thay cho ông H thì bà H1 đã đưa lại GCN QSD đất cho bà H. Tuy
nhiên, vào khoảng tháng 4 năm 2024 bà H đã trả lại GCN QSD đất này cho ông
Nguyễn Văn H. Hiện tại bà H không giữ GCN QSD đất của bà H, bà H không
còn liên quan đến GCN QSD của bà H. Đề nghị Tòa án xem xét giải quyết vụ án
theo quy định của pháp luật.
* Quá trình tố tụng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông
Nguyễn Văn H trình bày:
Ông Nguyễn Văn H có nhận chuyển nhượng thửa đất số 222, tờ bản đồ số
49, diện tích 1.030m
2
với giá 250.000.000 đồng vào ngày 26/02/2020 của vợ
chồng bà H, ông Y Răng Byă. Hai bên có lập giấy tay với nhau, bà H đã bàn
giao cho ông Nguyễn Văn H bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
W 826293 của bà H để ông Nguyễn Văn H đi làm thủ tục tách thửa, chuyển
nhượng theo quy định của pháp luật.Tuy nhiên đến nay các bên vẫn chưa thực
hiện được thủ tục tách và chuyển nhượng theo quy định của pháp luật.
Chữ ký trong giấy thỏa thuận ngày 05/10/2023 giữa ông H, bà A và vợ
chồng bà H, ông Y Răng Byă không phải của ông H. Ông H không chuyển
nhượng cho bà Nguyễn Thị A thửa đất số 222, tờ bản đồ số 49, diện tích
1.030m
2
.
Giấy chứng nhận QSD đất của bà H ông H đã thế chấp cho bà Nguyễn
Thị H. Hiện nay bà H đang giữ. Do đang bị tạm giam nên đề nghị Tòa án giải
quết, xét xử vắng mặt ông H.
* Quá trình tố tụng và tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là bà Nguyễn Thị A trình bày:
Theo giấy thỏa thuận ngày 05/10/2023 giữa vợ chồng bà H, ông Y R, ông
Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị A thì ông Nguyễn Văn H phải giao lại GCN
QSD đất số W 826293 cho bà A để bà A và bà H làm thủ tục tách thửa, chuyển
nhượng thửa đất số 222, tờ bản đồ số 49 cho bà An theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên bà Nguyễn Thị H hiện đang giữ bản gốc GCN QSD đất này nên đề
nghị bà H trả lại GCN QSD đất cho bà H để các bên thực hiện thủ tục chuyển
nhượng cho bà An theo quy định của pháp luật.
* Quá trình tố tụng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Y
Răng Byă trình bày: Ông Y R là chồng của bà H. Ông Y R đồng ý với ý kiến
4
trình bày của bà H, đề nghị bà H có trách nhiệm trả lại GCN QSD đất cho vợ
chồng bà H, ông Y R để thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với GCN QSD đất.
* Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên:
- Về tố tụng: Thẩm phán xác định đúng quan hệ pháp luật, thẩm quyền giải
quyết vụ án; xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự; việc thu
thập chứng cứ, trình tự giải quyết vụ án theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự.
Trong quá trình thụ lý, giải quyết, xét xử vụ án thì Thẩm phán, Hội đồng
xét xử (HĐXX), Thư ký phiên tòa đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật
tố tụng dân sự. Các đương sự chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự (BLTTDS).
- Về nội dung: Qua các tài liệu, chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ án, nhận
thấy yêu cầu của nguyên đơn chưa đủ căn cứ.
Căn cứ Khoản 2, Khoản 3 Điều 26; Khoản 1 Điều 35; Khoản 1 Điều 39;
Khoản 1 Điều 92, khoản 1 Điều 192, Điều 217, Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng
dân sự, căn cứ Điều 105, 115 Bộ luật dân sự; Căn cứ Khoản 16, Điều 3 Luật đất
đai năm 2013; Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc Hội đề nghị HĐXX tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà H về Tuyên bố
hợp đồng cầm cố giữa ông H và bà H đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số W 826293 do UBND huyện M cấp cho hộ Y R ngày 23/9/2004, đăng ký
biến động thừa kế cho bà H ngày 21/6/2018 là vô hiệu;
Không chấp nhận yêu cầu buộc bị đơn bà Nguyễn Thị H phải trả lại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số W 826293 do UBND huyện M cấp cho hộ Y
R ngày 23/9/2004, đăng ký biến động thừa kế cho bà H ngày 21/6/2018 cho bà
H.
Nguyên đơn có quyền đề nghị cơ quan chức năng có thẩm quyền cấp lại
giấy tờ bị mất theo quy định của pháp luật.
- Về án phí: Nguyên đơn phải chịu tiền án phí theo quy định, tuy nhiên do
nguyên đơn là người đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng kinh tế đặc
biệt khó khăn nên được miễn toàn bộ án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận
định:
[1] Về tố tụng:
5
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Toà án tuyên bố Hợp đồng thế chấp GCN
QSD đất vô hiệu và yêu cầu bị đơn phải trả lại GCN QSD đất, nên xác định
quan hệ tranh chấp là “Tuyên bố hợp đồng thế chấp vô hiệu và phải trả lại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất” được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 26,
điểm a khoản 1 Điều 35 của BLTTDS. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của
Toà án nhân dân huyện M, tỉnh Đắk Lắk.
Bị đơn bà Nguyễn Thị H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Y
Răng Byă, ông Nguyễn Văn H có đơn đề nghị giải quyết xét xử vắng mặt. Căn
cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của BLTTDS nên HĐXX tiến hành xét
xử vắng mặt các đương sự.
[2] Về nội dung:
Theo đơn khởi kiện thì bắt nguồn từ việc bà H chuyển nhượng quyền sử
dụng đất cho ông Nguyễn Văn H. Sau khi nhận GCN QSD đất của bà H, ông H
không thực hiện đúng các nguyên tắc về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất theo quy định của luật Đất đai mà chuyển nhượng lại cho người khác, đồng
thời thế chấp GCN QSD đất trái với quy định của pháp luật. GCN QSD đất
đứng tên quyền sử dụng của bà H Loan nhưng các đương sự thế chấp, chuyển
giao qua lại cho nhiều người nắm giữ, nên bà H yêu cầu trả lại GCN QSD đất.
[2.1.] Đối với yêu cầu về việc Tuyên bố giao dịch giữa ông Nguyễn Văn H
và bà Nguyễn Thị H ngày 28/10/2021 về việc thế chấp GCN QSD đất là vô hiệu.
Hội đồng xét xử xét thấy: Các đương sự thừa nhận việc thế chấp quyền sử dụng đất
không đúng quy định của pháp luật và đề nghị tuyên bố vô hiệu, tuy nhiên các đương
sự không cung cấp cho Tòa án hợp đồng thế chấp. Vì vậy, Hội đồng xét xử không
xem xét được về hình thức cũng như nội dung để xác định tính đúng đắn của hợp
đồng, nên không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu tuyên bố hợp đồng thế chấp giữa ông
H và bà H là vô hiệu.
[2.2.] Về yêu cầu buộc bà Nguyễn Thị H phải có trách nhiệm trả lại cho bà
H GCN QSD đất. Như đã phân tích ở trên, việc chuyển giao quyền, nghĩa vụ về
quyền sử dụng đất và thế chấp GCN QSD đất của bà H được thực hiện có nhiều
người tham gia, việc giao nhận GCN QSD đất không lập văn bản cụ thể, nên
không xác định được ai là người cuối cùng và hiện tại đang lưu giữ GCN QSD
đất của bà H. Do đó, yêu cầu trả lại GCN QSD đất của nguyên đơn không được
HĐXX chấp nhận.
Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, bà H có quyền liên hệ đến cơ
quan có thẩm quyền để được cấp lại theo quy định của pháp luật.
[3] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không được chấp nhận
nên nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định. Nguyên đơn là
6
người đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội
đặc biệt khó khăn nên được miễn toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1
Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ
luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 105, Điều 166; Điều 167; Điều 168 Bộ luật dân sự;
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, tuyên xử:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà H về việc:
+ Tuyên bố giao dịch giữa ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị H ngày
28/10/2021 về việc thế chấp GCN QSD đất là vô hiệu;
+ Buộc bà Nguyễn Thị H phải có trách nhiệm trả lại cho bà H GCN QSD
đất số W 826293 do Uỷ ban nhân dân huyện M, tỉnh Đắk
Lắk cấp ngày 23/9/2004 cho hộ Y R.
Đương sự, bà H có quyền liên hệ với cơ quan chức năng có thẩm quyền
để được cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp
luật.
2. Về án phí: Nguyên đơn là người đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại
vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn toàn bộ tiền
án phí dân sự sơ thẩm.
3. Thông báo quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được
quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự
vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Nơi nhận :
-TAND tỉnh ĐắkLắk;
-VKSND huyện M;
-THADS huyện M;
-Đương sự;
-Lưu HS.
(đã ký)
Võ Đức Hợi
Tải về
Bản án số 21/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 21/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm