Bản án số 68/2024/DS-ST ngày 20/12/2024 của TAND huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 68/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 68/2024/DS-ST ngày 20/12/2024 của TAND huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Krông Năng (TAND tỉnh Đắk Lắk)
Số hiệu: 68/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà Thái Thị H kiện đòi tài sản bà Bùi Thị Q
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN KRÔNG NĂNG Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 68/2024/DSST
Ngày: 20/12/2024
“V/v Kiện đòi tài sản”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NĂNG
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đoàn Thị Thu Trang.
Các Hội thẩm nhân dân: 1/ Ông Phan Ngọc Đài.
2/ Ông Nguyễn Văn Lam.
Thư phiên tòa: Thị Hạnh - Thư Tòa án nhân dân huyện Krông
Năng, tỉnh Đắk Lắk
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông ng, tỉnh Đắk Lắk tham gia
phiên tòa: Hoàng Thị Ngân - Kiểm sát viên.
Ngày 20/12/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk
xét xthẩm công khai vụ án dân sự thụ s118/2024/TLST-DS ngày 24 tháng 7
năm 2024 về việc “Kiện đòi tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
85/2024/QĐXXST-DS ngày 16/9/2024 thông báo mở phiên tòa số 15/2024/TB-TA
ngày 12/12/2024, giữa:
Nguyên đơn: Bà Thái Thị H, sinh năm 1974. (Vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện K, tỉnh Đ.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hoàng Văn C, sinh năm 1997. (Có mặt).
Địa chỉ: Buôn W, xã E, huyện K, tỉnh Đ.
Bị đơn: Bà Bùi Thị Q, sinh năm 1986. (Có mặt).
Địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện K, tỉnh Đ.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Đặng Xuân M, sinh năm
1967. (Có mặt).
Địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện K, tỉnh Đ.
Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị T.
Địa chỉ: Buôn Đ, xã Đ, huyện K, tỉnh Đ. (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khi kin đề ngày 14/6/2024; bản tự khai; biên bn hoà gii, biên bản
đối chất ti Tòa cùng các tài liu chng c khác do các bên đương s cung cp thì ni
dung v án được xác định như sau:
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Hoàng Văn C trình bày:
Bà Thái Thị H ông Đặng Xuân M chung sống với nhau như vợ chồng từ năm
2005 đến năm 2023 thì yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng.
2
Quá trình chung sống, vợ chồng Hạnh con chung, tài sản chung công ty
TNHH T chuyên kinh doanh mua bán củi, gỗ ở khu vực xã E và xã Đ, huyện K.
Vào tháng 5/2022 gia đình Thái Thị H thuê Bùi Thị Q với mức lương
4.000.000 đồng/tháng thay mặt H thu mua củi về xưởng đchế biến. Công việc cụ
thể: Hàng ngày H sẽ chuyển tiền cho Q để thu mua củi của người dân. Cuối
tháng, bà H và bà Q quyết toán với nhau.
Quá trình làm việc, từ ngày 28/5/2022 đến ngày 28/6/2022, H đã chuyển tiền
từ số tài khoản 5227205123560, mang tên Thái Thị H, mở tại ngân hàng Nông nghiệp
phát triển Nông thôn Việt Nam, chi nhánh K đến số khoản 63110000896712 mang
tên Bùi Thị Q mtại ngân hàng Thương mại cổ phần đầu phát triển Việt Nam
cho Q để thực hiện việc mua củi cho xưởng. Tổng số tiền H đã chuyển khoản
cho Q 235.000.000 đồng, tuy nhiên hàng ngày, sau khi nhận tiền từ H, Q
không mua củi nhập về xưởng cũng không khai quyết toán thu chi, do đó ngày
27/6/2022, Q H tính toán với nhau, bà Hạnh đã “viết nháp” tổng số tiền giao
cho Q, số củi nhận tQ theo lời trình bày của Q, nhưng đối chiếu sổ sách thì
không đúng với số tiền bà H đã giao số củi Q đã mua nên hai bên không thống
nhất, sau đó H sơ ý không hủy bỏ giấy tờ này đi nghĩ rằng “viết nháp”, không
giá trị. H xác định đến nay, Q vẫn chưa mua củi và giao đủ số củi tương ứng số
tiền 235.000.000 đồng đã nhận từ H. Việc Q khai nại đã giao đủ số củi cho ông
M thì bà hoàn tn không biết và không đồng ý.
H đã nhiều lần yêu cầu Q hoàn trlại số tiền này nhưng Q vẫn không
thực hiện. Do đó H đề nghị Tòa án nhân dân huyện K giải quyết buộc bà Bùi Thị Q
nghĩa vụ hoàn trả lại số tiền 235.000.000 đồng tiền lãi suất phát sinh theo quy
định của pháp luật cho đến khi bà Q thanh toán đầy đủ tiền cho bà H.
Quá trình giải quyết tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của H chỉ yêu
cầu bà Q hoàn trả lại số tiền 235.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi suất.
Bị đơn bà Bùi Thị Q trình bày:
Công nhận tháng 5/2022 vợ chồng Đặng Xuân M, Thái Thị H thuê thu
mua củi cho công ty T, thỏa thuận 4.000.000 đồng/tháng. Công việc cụ thể: Hàng ngày
ông M sẽ giao tiền trực tiếp cho bà thu mua củi của người dân. Mua xong ngày nào thì
và ông M sẽ quyết toán ngày đó. Sau 05 ngày, do H là người trực tiếp bán số củi
thu mua được đi các tỉnh phía bắc. Do đó đến cuối tháng 5/2022, H người trực
tiếp chuyển tiền qua tài khoản hàng ngày cho để tiếp tục thu mua củi cho vợ
chồng ông M.
Bà xác định từ ngày 28/5/2022 đến ngày 28/6/2022 H có chuyển tiền cho cho
tổng số tiền 235.000.000 đồng để hàng ngày thu mua củi, đến cuối ngày,
giao củi cho ông M. Đến ngày 27/6/2022 H tính toán sổ sách ttổng số tiền
nhận từ H ông M từ ngày 27/5/2022 - 27/6/2022 là: 392.501.000 đồng, bao
gồm tiền do H chuyển khoản tiền ông M đưa trực tiếp, tổng số củi đã mua và
giao cho bà H, ông M t27/5/2022 đến hết ngày 27/6/2022 là: 771.300 kg, tương ứng
số tiền 355.482.000 đồng, cộng với số củi goòng 31.360 kg x 300 đồng/kg, tổng số
tiền đã chi để mua củi cho H tiền công bóc củi lên xe, tiền nước uống cho
công bóc 391.277.000 đồng, hiện nay chỉ còn nợ bà H số tiền 1.224.000 đồng.
Đến nay thì bà H lại khởi kiện để đòi số tiền 235.000.000 đồng thì hoàn toàn không
đồng ý và chỉ đồng ý trả lại số tiền 1.224.000 đồng cho bà H.
3
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Đặng Xuân M trình bày:
Ông và Thái Th H chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2007 đến năm
2023 thì yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng. Ông xác định
vào tháng 5/2022 ông thuê Bùi Thị Q thu mua củi cho gia đình ông tại khu vực
nông trường E, Đ. Thời gian thuê: 01 tháng, tiền công là 4.000.000 đồng/tháng.
Hình thức làm việc của Q như sau: Trong ngày, ông sẽ giao tiền mặt cho Q đi thu
mua củi, cuối ngày Q nhập củi về tương ứng với số tiền ông đã giao. Sau 05 ngày
thì vợ ông (bà H) bán số củi đi Bắc nên H người chuyển khoản tiền cho Q để
Q tiếp tục thu mua củi nhập về xưởng cho ông. Stiền ông bà H chuyển cho
Q thì Q đã mua và giao đủ cho ông. Do đó, ngày 27/6/2022 Q H quyết
toán thu chi thì tổng số tiền bà Q nhận từ vợ chồng ông từ ngày 27/5/2022 - 27/6/2022
là: 392.501.000 đồng, tổng số củi Q đã mua giao từ 27/5/2022 đến hết ngày
27/6/2022 391.277.000 đồng, như vậy bà Q chỉ còn nợ H số tiền 1.224.000
đồng. Đến nay thì H lại khởi kiện để yêu cầu Quỳnh trả lại số tiền 235.000.000
đồng thì ông không đồng ý.
Người làm chứng Nguyễn Thị T tại phiên tòa hôm nay vắng mặt, quá trình
giải quyết vụ án, bà T trình bày:
Tháng 6/2022 làm nhân viên kế toán cho ng ty TNHH T của vợ chồng
ông Đặng Xuân M, bà Thái Thị H. Bà xác định có biết bà Bùi Thị Q cũng là người làm
công ăn lương do vợ chồng ông M thuê thu mua củi hàng ngày nhập về xưởng, số tiền
hai bên giao nhận với nhau bao nhiêu tkhông biết chính xác. Tuy nhiên, tháng
6/2022 theo yêu cầu của bà H, lập sổ sách theo dõi số tiền H cho bà Q ứng và
số củi Q nhập vtừ ngày 27/5/2022 đến ngày 27/6/2022, chứng tsổ sách theo dõi
từ ngày 27/5/2022 - 27/6/2022 thể hiện Q nhập về xưởng. Tổng số lượng đến
thời điểm Q nghĩ bao nhiêu thì không biết chính xác. Nay H khởi kiện đòi
tiền bà Q thì đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định.
Tại phiên a, đại din Vin kiểm sát nhân dân huyện Krông ng phát biểu ý kiến:
Q trình thụ , thu thp chứng cứ của vụ án, Thẩm pn được phân ng gii quyết đã
thc hiện đầy đủ đúng c trình tự theo quy định pháp luật; c định đầy đủ, đúng
ch những người tham gia tố tụng. Tại phiên tòa, Hội đồng t xử những ngưi tham
gia ttụng thực hiện đầy đủ, nghiêm c theo đúng trình tự mà Bluật Tố tụng n sự
quy định.
Về nội dung vụ án: Xét thấy nội dung khởi kiện của nguyên đơn có cơ sở để chp
nhn một phần n chấp một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về quan hệ pháp luật thẩm quyền giải quyết: Căn cứ nội dung đơn khởi
kiện và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì đây là vụ án tranh chấp về quyền sở hữu
các quyền khác đối với tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy
định tại khoản 2 Điều 26 điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật
Tố tụng dân sự.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
[2.1] Căn cứ vào lời khai, các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp các
tài liệu do Tòa án thu thập được, xác định:
4
Ông Đặng Xuân M và bà Thái Thị H chung sống với nhau như vợ chồng từ năm
2005 đến năm 2023. Quá trình chung sống, vợ chồng ông M tài sản chung công
ty TNHH Thái S thu mua củi tại khu vực xã Đ và xã E. Tháng 5/2022 vợ chồng ông M
thuê bà Bùi Thị Q thu mua củi nhập vxưởng. Thời gian thuê: 01 tháng, tiền công
là 4.000.000 đồng/tháng. Hình thức làm việc của bà Q như sau: Trong ngày, bà Q nhận
tiền thu mua củi, cuối ngày nhập củi về xưởng ơng ứng với số tiền đã nhận. Từ
ngày ngày 27/5/2022 - 27/6/2022 vợ chồng ông M đã giao cho Q tổng số tiền là:
392.501.000 đồng, bao gồm tiền mặt nhận từ ông M nhận chuyển khoản từ H.
Tuy nhiên, tổng số củi Q đã mua giao từ 27/5/2022 đến hết ngày 27/6/2022
391.277.000 đồng.
[2.2] Hội đồng xét xử xét thấy:
Quá trình giải quyết vụ án, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xác định
H ông M chung sống như vợ chồng từ năm 2005 đến năm 2023, con chung,
tài sản chung. Tháng 5/2022 H thuê Bùi Thị Q thu mua củi cho ng ty của
gia đình, tiền lương 4.000.000 đồng/ tháng. Công việc hàng ngày sau khi nhận
tiền từ bà H thì Q sẽ thu mua củi nhập về xưởng, cuối tháng sẽ quyết toán. Từ ngày
28/5/2022 đến ngày 28/6/2022 bà Thái Thị H đã giao cho i Thị Q tổng số tiền là
235.000.000 đồng để thay bà H thu mua củi về xưởng. Tuy nhiên, sau khi nhận số tiền
235.000.000 đồng, Q không thực hiện nghĩa vụ thu mua củi, không giao số lượng
củi tương ứng số tiền đã nhậncũng không kê khai quyết toán chi phí với bà H. Việc
Q giao củi cho ông M hay không không thì H không biết, không liên quan đến
H. Giữa bà Q ông M thông đồng nhau khai nại cung cấp chứng cứ 01
chứng từ quyết toán có thể hiện số tiền Q nhận và số củi Q đã mua không có giá
trị pháp lý, H viết nháp theo lời khai của Q nhưng không đúng với số tiền H
giao cho Q số củi Q thu mua, nhưng do sơ suất nên bà H không hủy bỏ và ông M tự
ý lấy giao nộp cho Tòa án.
[2.3] HĐXX xét thấy lời khai này không sở để chấp nhận, bỡi lẽ H
ông M vợ chồng, con chung, tài sản chung cùng nhau quản công ty
TNHH T. Ông M xác nhận sau khi giao tiền cho bà Q thì hàng ngày ông M có nhận số
củi tương ứng số tiền mà Q nhận từ vợ chồng ông, trong đó ông giao tiền mặt nhiều
lần số tiền khoảng 160.000.000 đồng, H chuyển khoản nhiều lần số tiền
235.000.000 đồng nhưng Q đã mua đủ số lượng củi tương, hàng ngày giao trực tiếp
cho ông M, được ông M c nhận đã nhận đủ. Do đó ngày 27/6/2022, quyết toán với
bà H xong thì bà Q chỉ còn nợ bà H số tiền là 1.224.000 đồng.
Ngoài ra, bà Nguyễn Thị T là kế toán của công ty do bà H, ông M thuê cũng xác
nhận biết i Thị Q do vợ chồng ông M thuê thu mua củi hàng ngày nhập v
xưởng, tháng 6/2022 theo yêu cầu của bà Hạnh, bà có lập sổ sách theo dõi số tiền bà H
cho bà Q ứng số củi Q nhập về từ ngày 27/5/2022 đến ngày 27/6/2022, chứng từ
sổ sách theo dõi tngày 27/5/2022 - 27/6/2022 xác định Q mua củi nhập về
xưởng.
Như vậy có căn cứ xác định Q có giao số lượng củi tương ứng với số tiền
vợ chồng ông M, H đã giao. Theo chứng từ hai bên quyết toán do Q cung cấp,
hiện bà Q còn nợ bà H số tiền 1.224.000 đồng.
5
Từ những phân tích trên, đủ sở để xác định Bùi Thị Q đang giữ của
Thái Thị H số tiền 1.224.000 đồng, cần chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của
Thái Thị H, buộc bà Bùi Thị Q phải trả cho bà Thái Thị H số tiền 1.224.000 đồng.
Bác phần yêu cầu khởi kiện số tiền 233.776.000 đồng còn lại của bà Thái Thị H.
[3] Đối với phát biểu của đại diện Viện kiểm sát về thủ tục ttụng, về nội dung
vụ án và đề nghị là có cơ sở nên chấp nhận.
[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhn mt phần n
b đơn phi chịu án phí dân sự thẩm ơng ng với phần nghĩa v phải thc hiện theo
quy định của pp lut.
Do không chấp nhận một phần yêu cu khi kiện của nguyên đơn, nên nguyên
đơn phải chịu án phí dân sthẩm giá ngạch đối với phần yêu cầu không được
chấp nhận. Tuy nhiên xét nguyên đơn là cận hộ nghèo, đơn xin miễn nộp nên miễn
toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch cho nguyên đơn.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng khoản 2 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
- Áp dụng Điều 166; 186; 189; 190 Bộ Luật Dân sự;
- Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Thái Thị H. Buộc
Bùi Thị Q phải trả cho Thái Thị Hạnh số tiền 1.224.000 đồng (một triệu hai
trăm hai mươi bốn ngàn đồng chẵn).
2. Không chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện của Thái Thị H về việc buộc
Bùi Thị Q phải trả cho Thái Thị H số tiền 233.776.000 đồng (hai trăm ba ơi ba
triệu bảy trăm bảy mươi sáu ngàn đồng chẵn).
Kể tngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải
thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm
2015.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn bà Bùi Thị Q phải nộp 300.000 đồng án phí
dân sự sơ thẩm có giá ngạch.
Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch cho nguyên đơn vì nguyên đơn
thuộc hộ cận nghèo và có đơn xin miễn nộp.
4. Quyền kháng cáo: Đương sự quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quyết định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo
quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án
được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án Dân sự.
Nơi nhn: TM. HỘI ĐNG XT X SƠ THẨM
6
- TAND tỉnh ĐăkLăk; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND huyện Krông Năng;
- THADS huyện Krông Năng;
- Các đương sự;
- Lưu h sơ, VP.
Đoàn Thị Thu Trang
Tải về
Bản án số 68/2024/DS-ST Bản án số 68/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 68/2024/DS-ST Bản án số 68/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất