Bản án số 42/2025/DS-PT ngày 20/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 42/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 42/2025/DS-PT ngày 20/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 42/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bản án số
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 42/2025/DS-PT
Ngày: 20 - 01 - 2025
V/v Tranh chấp lối đi chung
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Thanh Huyền.
Các Thẩm phán: Bà Lưu Thị Thu Hường, bà Nguyễn Thị Nhung.
- Thư phiên tòa: Trần Thị Mỹ Hạnh Thư Toà án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa:
Lương Thị Diệu Anh - Kiểm sát viên.
Ngày 20 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
phúc thẩm công khai ván dân sthụ số 448/2024/TLPT-DS ngày 11 tháng
12 năm 2024 về việc: “Tranh chấp lối đi chung”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số
53/2024/DS-ST ngày 24/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk
Lắk bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 421 2024/QĐ-PT ngày 16/12/2024
Quyết định hoãn phiên tòa số 08/QĐ-PT ngày 08/01/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Trần Thị H, sinh năm 1980; địa chỉ: Thôn C, E, huyện
K, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
2. Bị đơn: Ông Phạm Viết K, sinh năm 1954; địa chỉ: Thôn C, xã E, huyện
K, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị T, sinh năm
1958; địa chỉ: Thôn C, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền của ông K, T: Ông Đoàn Quang H1, sinh
năm 1973; địa chỉ: Số nhà A thôn H, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
4. Người làm chứng:
- Ông Văn C, ông Phạm Minh T1, Phạm Thị C1; cùng địa chỉ: Thôn
C, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
- Ông Huỳnh Văn P, Bùi Thị H2; địa chỉ: Thôn A, E, huyện E, tỉnh
Đắk Lắk; vắng mặt.
2
- Ông Lê Văn X; địa chỉ: Thôn A, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.
* Người kháng cáo: Bị đơn ông Phạm Viết K người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan bà Nguyễn Thị T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Trần
Thị H trình bày:
H chsử dụng hợp pháp thửa đất số 147, tbản đồ số 20, diện tích
2.430m
2
,
tại thôn C, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk được Sở tài nguyên môi trường
tỉnh Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác
gắn liền với đất (viết tắt là GCNQSDĐ) ngày 30/9/2016. Vị trí tứ cận: Phía Đông
giáp đất ông Phạm Viết K, phía Tây giáp đất Phan Thị H3 và ông Cao Minh L,
phía Nam giáp đất ông Quốc C2, phía Bắc giáp con đường đất (hết phần đất
nhà bà H).
H sử dụng thửa đất từ năm 2016. Trong thực tế có con đường đất để đi lại
hàng ngày giáp với đất nhà ông Phạm Viết K và con đường đất này cũng được thể
hiện trên đồ đất đai của H trong GCNQSDĐ. Quá trình sử dụng do phần
phía trong con đường chủ yếu đi vào nông K nên ông K trồng một số cây
cau. Nhưng đến khoảng tháng 4/2023, ông Phạm Viết K đã xây tường rào, trồng
thêm cây vào nửa phía trên con đường chặn lấn chiếm con đường. Ông K tự cho
đó là đất của nhà ông và không cho bà H đi qua con đường có phần đất của bà H.
Hiện nay thửa đất số 147 bà H đã tách thành 04 thửa đất với 04 GCNQSDĐ khác
nhau và đều giáp với con đường đi vào đất (đã bị ông K rào lại). Do đó bà H khởi
kiện yêu cầu Toà án giải quyết:
1. Công nhận phần đất diện tích 112,4m
2
lối đi chung, tứ cận: Phía Đông
cạnh giáp đất (sân) nhà ông K rộng 5,65m (đường chéo theo bản đồ); Phía Tây
cạnh phía từ ngoài đường vào rộng 3,95m; Phía Nam cạnh đường giáp đất H,
dài 23,96m; Phía Bắc cạnh giáp đất ông K dài 21,53m;
Lối đi chung nằm giữa một phần ranh giới đất của bà H (thửa đất số 147 (nay
là 787), tờ bản đồ số 20 (nay là 52) và đất của ông Phạm Viết K (thửa đất số 145
(nay là 764), tờ bản đồ số 20 (nay là 52).
2. Buộc ông Phạm Viết K những người liên quan phải nghĩa vụ tháo dỡ
hàng rào, di dời cây cối, tài sản và vật kiến trúc trên diện tích đất của lối đi, để tr
lại lối đi chung.
* Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Phạm Viết K trình bày:
Gia đình ông K sinh sống trên mảnh đất hiện tại tnăm 1978 cho đến nay.
Nguồn gốc đất do ông K khai hoang trước đây đơn vị của ông đóng quân gần
đó. Đến năm 1983, có gia đình ông Văn C đến ở. Từ năm 1977 thì gia đình ông
Đ (bà Phan Thị C3) đã ở trước rồi. Trước đây nhà ông K ở gần đường đi vào nhà
C3, sau này làm nhà mới dời về phía đông khoảng 20m thì mới con đường
đi vào nhà ông. Quá trình những người làm thôn, người làm chứng đều xác định
là không có đường.
3
Mảnh vườn bà H đã trải qua nhiều chủ, ông Lê Văn C sang nhượng cho ông
Huỳnh Văn P, Bùi Thị H2. Ông P, bà H2 sang nhượng lại cho bà H năm 2016.
Trước đây, gia đình ông C, gia đình bà H2 không có ý kiến gì về con đường. Nay
bà H khởi kiện ông K về lối đi vì khoảng tháng 3/2023, H căng dây làm đường
biên, sau đó khoảng 02 tuần thì vợ chồng ông K làm bờ rào. Khi ông K làm bờ rào
thì bà H xuống nhưng không ý kiến gì. Ông K làm xong thì bà H có cầm tờ bìa
đỏ phô tô lên và nói ông K làm đúng rồi. Tối hôm sau H đưa tờ giấy mua bán
đất nhờ ông K giáp biên, H bán 10m trị giá 500.000.000 đồng. Khi ông K
ký giấy choH xong thì ngày hôm sauH khiếu kiện ông về lối đi. Ông thấy
vô lý vì phần đất bà H kiện là lối vào nhà của gia đình ông. Đề nghị Toà án không
chấp nhận đơn khởi kiện của H, kiến nghị Uỷ ban nhân dân thẩm quyền điều
chỉnh bản đồ xác định phần đấtH kiện không phải đường đi mà là đất trong bìa
đỏ của ông.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T trình bày:
Năm 2007, bà T lấy ông K và về chung sống với ông K. Phần đất là của ông
K từ trước hôn nhân. Quá trình sống thấy cổng hiện tại bây giờ không
đường đi, đó chlối đi trong đất ông K đi duy nhất vào nhà ông K. Năm 2013,
ông K trồng cau không ai ý kiến gì. H mới mua đất năm 2016, đến năm 2023
lại kiện đòi đường . Phần đất H khởi kiện không phải lối đi chung.
Bà T đồng ý với ý kiến của ông K, không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà H,
đề nghị Toà án xét xử theo quy định pháp luật.
* Những người làm chứng:
- Ông Phạm Minh T1 trình bày: Ông T1 vào xây dựng vùng kinh tế mới tại
thôn C, E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk từ năm 1976. Qua quá trình tham gia công
tác tại địa phương ttập đoàn ,, thôn T, cán bộ giao thông thủy lợi từ năm 1979
đến năm 2021, ông xác định lối đi chung vào 3 hộ ông C, ông K, C3 đến đầu
đất ông K rẽ trái lên C3 chkhông thẳng lên đất ông K. Lối đi chung 3
hộ chỉ đến cổng ông K hiện nay.
- Bà Phạm Thị C1 trình bày: C1hàng xóm sát nhà ông K, bà sinh sống
tại địa phương từ năm 1977 cho đến nay. Đối với con đường mà nhà ông K và bà
H đang tranh chấp, từ trước đến nay khi sinh sống tại đây không hề con
đường này. Nay bà H cho rằng đó con đường đi chung không căn cứ,
không đúng hiện trạng thửa đất, vì bà H là người mới mua đất gần đây.
- Ông Văn C trình bày: Thửa đất của ông mua lại của ông Hồ Trọng L1
năm 1981. Đến năm 1994 thì làm bìa đỏ có diện tích sử dụng 2.430m
2
. Năm 2003
ông chuyển nhượng cho ông Huỳnh Văn P. Thời gian đó 3 nhà đi chung vào một
lối: phía Bắc là C1, phía Đông ông K, phía Nam gia đình ông C, ngã ba
chung cả 3 nhà ngay cửa nông C. Trước thời gian đó không đường lối tới
nhà ông K. Còn việc làm bìa của ông P và bà H sau này ông không biết gì. Theo
bản đồ gốc của ông và ông K thì bờ ranh của ông và ông K là hàng cây, không có
đường.
4
- Ông Huỳnh n P, bà Bùi Thị H2 trình bày: Vào ngày 23/8/2016, ông
bán cho bà Trần Thị H một mảnh vườn có diện tích 2.430m
2
tại thôn C, xã E.
Thời gian gia đình ở và đến lúc sang nhượng cho bà Trần Thị H là 13 năm, trong
thời gian trên đã có con đường ranh giới, gia đình ông đi trên con đường đi làm
vườn. Khi ông bà mua đất của ông C thì đã có con đường từ lúc nào trước đó.
- Ông Văn X trình bày: Ông X thợ xây, trước đây ông được ông K
thuê để xây hàng rào ngăn cách giữa nhà ông K H (đoạn hiện nay H
ông K đang tranh chấp). Khi ông xây dựng hàng rào thì lúc đầu bà H không ý
kiến gì, sau đó khi còn một ngày nữa là ông xây xong thì bà H có ra ý kiến không
cho xây dựng tiếp nữa. Tuy nhiên, ông vẫn hoàn thành công việc và đã nhận tiền
công đầy đủ từ ông K. Vì vậy đối với việc tranh chấp này ông không có ý kiến gì
vì không có liên quan gì đến ông.
* Tại Bản án dân sự thẩm số 53/2024/DS-ST ngày 24/9/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Áp dụng Điều 254 Bộ luật dân sự 2015; khoản 10 Điều 12; Điều 166; Điều
171 và Điều 203 Luật đất đai năm 2013;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị H:
- Công nhận phần đất có tứ cận, diện tích như sau:
Phía Đông cạnh giáp đất (sân) nhà ông K rộng 5,65m (đường chéo theo bản
đồ); Phía Tây cạnh phía tngoài đường vào rộng 3,95m; Phía Nam cạnh đường
giáp đất nhà bà H, dài 23,96m; Phía Bắc cạnh giáp đất ông K dài 21,53m;
Tổng diện tích 112,4m
2
; là lối đi chung.
Lối đi chung nằm giữa một phần ranh giới đất của Trần Thị H (thửa đất
số 147 (nay là 787), tờ bản đồ số 20 (nay52) và đất ca ông Phạm Viết K (thửa
đất số 145 (nay là 764), tờ bản đồ số 20 (nay 52), địa chỉ tại: Thôn C, E,
huyện K, tỉnh Đắk Lắk).
- Buộc bị đơn ông Phạm Viết K người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Nguyễn Thị T phải tháo dỡ hàng rào, di dời cây cối, tài sản vật kiến trúc (02
trụ cổng xây gạch; 02 cánh cổng sắt (1,8mx2m); 23,96m hàng rào có cọc bê tông
kéo lưới B40; 20 cây cau mới trồng tháng 4/2023; 06 cây cau trồng năm 2013)
trên diện tích đất của lối đi này, để trả lại lối đi chung cho bà Trần Thị H các
hộ liền kề sử dụng.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về chi ptố tụng, án phí quyền kháng
cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 04/10/2024, bị đơn ông Phạm Viết K và người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan bà Nguyễn Thị T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp
phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án về cho Toà án cấp thẩm để
xét xử lại theo quy định.
5
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, người
kháng cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm tại
phiên tòa:
- Về tố tụng: Trong quá trình thụ giải quyết vụ án, Thẩm phán, Thư ký,
các đương sự đã chấp hành đúng quy định của B luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật t
tụng dân sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Phạm Viết K người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ
thẩm số 53/2024/DS-ST ngày 24/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn c vào tài liệu, chng c đã đưc thu thập có trong hồ sơ vụ án đã đưc
thẩm tra tại phiên tòa; căn c vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; trên sở
xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chng c, lời trnh bày của các đương sự,
quan điểm của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn ông Phạm Viết K người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T nộp trong hạn luật định, người
kháng cáo đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm nên vụ án được xem xét giải quyết
theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, thấy: Bà H là chủ sử dụng hợp
pháp thửa đất số 147 (nay là thửa 787), tờ bản đồ số 20 (nay tờ E), diện tích
2.430m
2
tại thôn C, E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, theo GCNQSDĐ số CE 312535
được Sở Tài nguyên môi trường tỉnh Đ cấp ngày 30/9/2016. Nguồn gốc thửa
đất của ông Hồ Trọng L1, sau đó ông L1 chuyển nhượng cho ông Văn C
vào năm 1981; đến năm 1993 ông C được cấp GCNQSDĐ, năm 2003 ông C
chuyển nhượng cho ông Huỳnh Văn P, Bùi Thị H2; năm 2016 ông P, H2
chuyển nhượng cho bà Trần Thị H.
Ông Phạm Viết K chủ sử dụng hợp pháp thửa đất số 145 (nay thửa 764),
tờ bản đồ số 20 (nay là tờ E), diện tích 3.810m
2
theo GCNQSDĐ số V398420 do
UBND huyện K cấp ngày 23/10/2002. Nguồn gốc thửa đất do ông K khai phá và
sử dụng từ năm 1978 đến nay.
Xét lời khai của bà H trình bày, thực tế toàn bcạnh phía Bắc của thửa đất
số 147 đều giáp với đường đi đúng như GCNQSDĐ được cấp, trong đó
phần đường đi phía Đông dẫn vào thửa đất số 145, cũng là lối đi vào nhà của ông
K, bà T; mặc dù trước thời điểm năm 2016 ông K, T có trồng một số cây cau
nhưng khoảng cách rộng vẫn đi lại bình thường được, tuy nhiên từ tháng 4/2023,
ông K, T tự ý trồng thêm cây và xây tường rào, rào chắn lối đi vào thửa đất của
bà H nên bà H khởi kiện yêu cầu ông K phải trả lại lối đi chung. Xét kết quả xác
minh ngày 14/6/2024 tại UBND E, huyện K (BL 77) thể hiện: diện tích đất
tranh chấp nằm giữa thửa đất số 145 thửa 147 (nay thửa 764 thửa 787)
6
theo bản đồ đo vẽ năm 1988 thì giữa hai thửa đất con đường (BL 121)
GCNQSDĐ do UBND huyện K cấp ngày 03/01/1994 cho ông Văn C
GCNQSDĐ do UBND huyện K cấp ngày 19/5/2003 cho hộ ông Huỳnh Văn P đối
với thửa đất số 147, tờ bản đồ số 20, diện tích 2.430m
2
thì sơ đồ thửa đất đều thể
hiện phía Bắc của thửa 147 tiếp giáp đường đi. Như vậy, bản đđo vẽ năm 1988,
các GCNQSDĐ đất cấp cho các chủ sử dụng đất trước đây đều thể hiện con
đường và phù hợp với lời khai của ông P, bà H2 đều xác định từ khi ông bà nhận
chuyển nhượng đất của ông C đến khi chuyển nhượng lại cho bà H thì đã có con
đường và gia đình ông bà sử dụng con đường này để đi làm vườn. Riêng lời khai
của ông C tại cấp thẩm ông xác nhận giữa thửa đất của H thửa đất của
ông K không con đường, tuy nhiên, tại phiên tòa phúc phẩm ông xác nhận t
năm 1981 khi ông nhận chuyển nhượng đất của ông Hồ Trọng L1 thì giữa hai thửa
đất lối mòn đi lại rộng khoảng từ 2m đến 3m GCNQSDĐ cấp cho ông
thể hiện con đường. Bản thân ông K cũng thừa nhận con đường H khởi
kiện, phần diện tích đất này ông không được cấp GCNQSDĐ. Do đó, bản án
thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của H xác định diện tích đất tranh chấp
112,4m
2
nằm giáp ranh hai thửa đất 764 của ông K và thửa 787 của bà H là lối đi
chung là có căn cứ.
Xét lời khai nại của ông K cho rằng: lối đi này nằm trong thửa đất của gia
đình ông sử dụng từ năm 1978, trước đây nhà ông K gần đường đi vào nhà
C1, sau này ông làm nhà mới dời về phía Đông khoảng 20m thì mới con đường
đi vào nhà ông, hai bên lối đi ông có trồng còn sống 06 cây cau nhưng không
ai phản đối, tranh chấp nên thuộc quyền sử dụng hợp pháp của gia đình ông.
Hội đồng xét xử, thấy rằng: ông K thừa nhận phần diện tích lối đi ông K không
được cấp GCNQSDĐ, kết quả xem xét thẩm định tại chỗ thể hiện trên phần đất
tranh chấp ông K, T trồng 06 cây cau tnăm 2013, H xác nhận thời điểm
bà nhận chuyển nhượng đất đã thấy ông K trồng một số cây cau ở hai bên đường,
trồng với khoảng cách rất thưa nên đi lại vẫn bình thường, đến tháng 3/2023, ông
K, bà T trồng thêm cây cau với mật độ dày hơn và xây hàng rào bịt kín lối đi vào
vườn nên H khởi kiện. Xét lời trình bày của H là phù hợp với thực tế sử
dụng đất của hai gia đình, việc ông K rào chắn lối đi chung đã vi phạm khoản 4,
khoản 10 Điều 12 và Điều 170 Luật Đất đai năm 2013 nên cần buộc ông K, bà T
tháo dỡ, di dời hàng rào, cây trồng để trả lại lối đi chung như Bản án thẩm
có căn cứ.
Xét lời khai của người làm chứng ông Phạm Minh T1, Phạm Thị C1
những người sử dụng đất trước hoặc cùng thời điểm với ông K ông Văn C
là chủ sử dụng đất cũ đều xác định trước đây lối đi chung vào 3 hộ ông C, ông K,
C1 đến đầu đất ông K là rẽ trái lên bà C1 chứ không thẳng lên đất ông K, lối
đi chung 3 hộ chỉ đến cổng ông K hiện nay. Xét lời khai này phù hợp với lời khai
của ông K. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm ông C, ông T1 xác nhận giữa ranh
đất ông K ranh đất H từ trước chỉ lối đi mòn nhỏ khoảng từ 2m đến 3m
chứ không có con đường nào. Như vậy, lời khai tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp
với bản đồ giải thửa đo vnăm 1988 của cấp thẩm quyền, phù hợp với các
GCNQSDĐ đã cấp cho các chủ sử dụng đất đều thể hiện có con đường.
7
[2.2] Xét kháng cáo của ông K, bà T yêu cầu hủy bản án sơ thẩm với các lý
do:
Ông K, bà T cho rằng Toà án cấp thẩm xác định ông Văn C, ông Huỳnh
Văn P, Bùi Thị H2 người làm chứng không đúng cần xác định lại
cách người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án không căn cứ, không
phù hợp quy định tại khoản 4 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự. Vì, ông C, ông P và
H2 các chủ của thửa đất 147 không còn quyền lợi ích liên quan,
chỉ là những người biết các tình tiết có liên quan đến nội dung tranh chấp. Do đó,
cấp sơ thẩm xác định là những người làm chứng là phù hợp với quy định tại Điều
77 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Thủ tục hòa giải tranh chấp tại cấp (UBND E) không đúng thành
phần nên yêu cầu hủy bản án để tiến hành hòa giải lại, Hội đồng xét xử thấy: tranh
chấp giữa các bên tranh chấp vlối đi chung, không phải tranh chấp ai
người có quyền sử dụng đất do đó biên bản hòa giải tại cấp cơ skhông tuân thủ
đúng thành phần được quy định tại khoản 4 Điều 202 Luật Đất đai 2013, khoản 2
Điều 88 Nghị định 43/2014/NĐ-CP không làm thay đổi bản chất của vụ án cũng
như quyết định của bản án thẩm. Do đó, không cần thiết phải hủy bản án
thẩm để tiến hành hòa giải lại tại cơ sở.
[2.3] Từ những phân tích và lập luận trên, xét thấy kháng cáo của bị đơn ông
Phạm Viết K và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T về việc
huỷ bản án sơ thẩm là không có căn cứ chấp nhận.
[3] Về chi phí tố tụng: Ông K phải chịu chi phí đo đạc, xem xét thẩm định
tại chỗ và định giá tài sản, tổng cộng là 12.376.000 đồng. Bà H được nhận lại số
tiền trên sau khi thu được của ông K.
[4] Về án phí:
- Án phí dân sự thẩm: Ông K phải chịu án phí dân sự thẩm không
giá ngạch là 300.000 đồng, bà H được trả lại tạm ứng án phí đã nộp.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Do không chấp nhận kháng cáo nên ông K, bà T
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
V các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo ca bị đơn ông Phạm Viết K và người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T.
Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 53/2024/DS-ST ngày 24/9/2024 của
Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
Tuyên xử:
8
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị H;
- Công nhận diện tích đất 112,4m
2
nằm giữa ranh một phần thửa đất số 147
(nay 787), tờ bản đsố 20 (nay 52) của Trần Thị H và ranh thửa đất số
145 (nay là 764), tờ bản đồ số 20 (nay là 52) của ông Phạm Viết K, tại thôn C, xã
E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk lối đi chung tứ cận như sau: Phía Đông giáp đất
(sân) nhà ông K dài 5,65m (đường chéo theo bản đồ); phía Tây giáp đường dài
3,95m; phía Nam giáp đất nhà H dài 23,96m; phía Bắc giáp đất ông K dài
21,53m (Theo bản trích đo hiện trạng thửa đất ngày 02/5/2024 của Công ty TNHH
Đ1).
- Buộc bị đơn ông Phạm Viết K người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Nguyễn Thị T phải tháo dỡ hàng rào, di dời cây cối, tài sản vật kiến trúc
gồm: 02 trcổng xây gạch; 02 cánh cổng sắt (1,8mx2m); 23,96m hàng rào có cọc
bê tông kéo lưới B40; 20 cây cau mới trồng tháng 4/2023; 06 cây cau trồng năm
2013 trên diện tích đất của lối đi này, để trả lại lối đi chung cho Trần Thị H
các hộ liền kề sử dụng.
2. Về chi phí tố tụng:
Buộc ông Phạm Viết K phải chịu chi phí đo đạc, thẩm định tại chỗ định
giá tài sản 12.376.000 đồng (mười hai triệu ba trăm bảy mươi sáu nghn đồng),
Trần Thị H được nhận lại số tiền trên sau khi thu được ca ông K.
3. Về án phí:
- Án phí dân sự thẩm: Bị đơn ông Phạm Viết K phải chịu 300.000 đồng
(ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Nguyên đơn bà Trần Thị H được nhận lại khoản tiền tạm ứng án phí 800.000
đồng (tám trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai số AA/2022/0003328 ngày
09/10/2023 và số AA/2023/0005755 ngày 10/5/2024 tại Chi cục thi hành án dân
sự huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Phạm Viết K, Nguyễn Thị T mỗi người
phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm. Được
khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo các biên lai số 0006081 và
0006082 cùng ngày 09/10/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự K, tỉnh Đắk Lắk.
[2] Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng o, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[3] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện Krông Pắc;
- Chi cục THADS huyện K;
- Đương sự;
- Cổng thông tin điện tử TA;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Lê Thị Thanh Huyền
9
Tải về
Bản án số 42/2025/DS-PT Bản án số 42/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 42/2025/DS-PT Bản án số 42/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất