Bản án số 352/2024/DS-PT ngày 19/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 352/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 352/2024/DS-PT ngày 19/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 352/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: - Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn bà Dương Thị T. - Huỷ toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 173/2024/DS-ST ngày 21/8/2024 của Tòa án nhân dân thành phố B. Giao hồ sơ cho Toà án nhân dân thành phố B giải quyết lại vụ án từ giai đoạn sơ thẩm theo thủ tục chung.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc
Bản án số: 352/2024/DS-PT
Ngày: 19 - 12 - 2024
V/v: “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền góp vốn”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Y Thông Kbuôr.
Các Thẩm phán: Ông Hoàng Kim Khánh;
Ông Y Phi Kbuôr;
- Thư phn a: Ông Hoàng Vấn - T a án nhân dân tỉnh Đk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa:
Thị Bích Thủy - Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ số 26/l0/2024/TLDS-PT ngày
15/10/2024, về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền góp vốn”. Do Bản
án dân sthẩm s173/2024/DS-ST ngày 21/8/2024 của Tòa án nhân dân thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 350/2024/QĐ-PT, ngày
14/11/2024 Quyết định hoãn phiên tòa số 336/2024/QĐ-PT ngày 03/12/2024,
giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Dương Thị T;
Địa chỉ: Thôn 4, E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – vắng mặt;
- Đại diện theo ủy quyền: ông Bùi Văn C; Địa chỉ: Số 05 đường A1, Buôn K
P, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – có mặt.
2. Bị đơn:Nguyễn Thị Ngọc L; Địa chỉ: Số 97 D Nguyễn Văn L, phường
Tân A, thành phố B, tnh Đắk Lắk – vắng mặt;
- Người đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn Xuân S sinh năm 1961; Địa
chỉ: Số 97D Nguyễn Văn L, phường Tân A, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – có mặt.
2
- Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn: Bà Đặng Phương L Luật
sư – Văn phòng Luật sư HĐ Đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk – có mặt.
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Hợp tác Lộc N Đại diện
theo ủy quyền: ông Nguyễn Ngọc T
Địa chỉ: Số 97 D Nguyễn Văn L, phường Tân A, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk
có đơn đề nghị xét xử vắng mặt;
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn Dương ThT.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
*/ Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa, nguyên đơn
người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông i Văn C trình bày có nội
dung như sau:
Vào ngày 26 tháng 9 năm 2020 bà Dương Thị T thỏa thuận chuyển nhượng
lại cho Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1999; Địa chỉ: Số 194 Chu Văn An, phường
Tân A, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, một lô đất Kiốt số 1, diện tích đất sử dụng
4,5m x 15m = 67,5m²; đất tại 99 Nguyễn Văn L, phường Tân A, thành phố B, tỉnh
Đắk Lắk với giá là 350.000.000 đồng (Ba trăm năm mươi triệu đồng).
Nguồn gốc diện tích đất T bán cho L do T thoả thuận nộp
tiền góp vốn vào Hợp tác xã trái cây LN được bàn giao mặt bằng, căn cứ vào hợp
đồng số 48/HĐ/HTX ngày 25/5/2018. Do đó, T quyền bán quyền sử dụng diện
tích đất trên cho bà L .
Sau khi thỏa thuận mua bán xong, ơng Thị T đã bàn giao đất cho
Nguyễn Thị Ngọc L để sửa chữa ở, nhưng từ đó cho đến nay L không trả
Dương Thị Trinh được một khoản tiền mua bán đất nào. T đã đến yêu cầu L
nhiều lần nhưng bà L không trả. vậy, đã làm ảnh hưởng, xâm phạm đến quyền
và lợi ích hợp pháp của bà T.
Tại biên bản hoà giải ngày 12/7/2024 Đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn
đề nghị bị đơn Nguyễn Thị Ngọc L trả số tiền 350.000.000 đồng theo hợp dồng
chuyển nhượng đất ngày 26/9/2020 giữa bà Dương Thị Tbà Nguyễn Thị Ngọc L
và yêu cầu trả một lần.
Tuy nhiên ngày 17/7/2024 tại phiên toà Đại diện theo uỷ quyền của nguyên
đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện đề nghị tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 26/9/2020 giữa bà T và bà Nguyễn Thị Ngọc L vô hiệu và giải quyết
3
hậu quả của hợp đồng hiệu, buộc bị đơn phải bàn giao lại hiện trạng Quyền sử
dụng đất d đất diện tích đất là chiều rộng 4,5m x dài 15 m=67,5m
2
cho nguyên đơn.
Nguyên đơn trách nhiệm trả lại giá trị tài sản bị đơn đã tạo dựng trên đất. (Căn
cứ theo biên bản định giá tài sản của Toà án ngày 23/5/2024).
Đối với giấy trả tiến ngày 09/01 bị đơn cung cấp tại phiên tcho rằng bị
đơn đã trả cho nguyên đơn số tiền 10.000.000 đồng thì nguyên đơn không chấp nhận
vì nội dung trong giấy không thể hiện việc trả tiền mua bán đất không liên quan đến
vụ án.
Đối với yêu cầu buộc bà Nguyễn Thị Ngọc L phải trả tiền thuê đất và Kiốt từ
ngày 26/9/2020 đến ngày 26/9/2023 37 tháng x 1.500.000 đồng x 37 tháng =
55.000.000đồng. Nguyên đơn xin rút yêu cầu khởi kiện về nội dung này.
*/ Qúa trình giải quyết vụ án đại diện theo uỷ quyền của bị đơn ông Nguyễn
Xuân S trình bày:
Vào ngày 26 tháng 9 năm 2020 bà Dương Thị T thỏa thuận chuyển nhượng
lại cho Nguyễn Thị Ngọc L một lô đất Kiôt số 1, diện tích sử dụng 4,5m x
15m = 67,5m²; đất tại 99 Nguyễn Văn L, phường Tân A, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk
với giá 350.000.000 đồng. Tuy nhiên đây thỏa thuận chuyển nhượng quyền góp
vốn vào Hợp tác trái cây LN . Do đó L, T cùng thống nhất thành Hợp
đồng chuyển nhượng đất ngày 26/9/2020 với giá 350.000.000 đồng.
Tại Hợp đồng cũng nói rõ bàn giao cho bà L mặt bằng đất trống thuộc khu C
diện tích 66m² để đầu tư xây dựng trên mặt bằng đã bàn giao. Ngoài ra, các hộ thành
viên của Hợp tác xã liền kề với lô kiôt của bà L đều xác nhận lô đất bàn giao cho L
là đất trống, không Kiốt, chưa xây dựng nhà (Theo Giấy xác nhận ngày 8/3/2024
kèm theo). Bản chất thoả thuận nhận quyền góp vốn vào Hợp tác xã trái cây LN và
giấy sang nhượng đất ngày 26/9/2020 cùng mục đích gia đình L trả cho T
350.000.000 đồng để được quyền sử dụng thửa đất diện tích 67,5tại địa chỉ 97 D
Nguyễn Văn L, phường Tân A, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Sau khi ký giấy sang
nhượng đất đất ngày 26/9/2020 thì cháu L đã Hợp đồng thỏa thuận góp vốn
bàn giao mặt bằng với Hợp tác xã trái cây LN vào ngày 26/9/2020.
Sau khi Hợp đồng thoả thuận góp vốn gia đình L đã đổ vật liệu xây Kiốt
(Nhà) theo Giấy phép xây dựng chung của Hợp tác xã và Sở xây dựng đã cấp đồng
thời đã bắt điện, nước, sử dụng Kiot (nhà), đóng tiền thuê đất hàng năm, nộp các
khoản thuế, phí, lệ phí các khoản thu kc, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Hợp
4
tác xã (Đã cung cấp các tài liệu, chứng cứ qT sử dụng đất cho Tòa án); Chúng tôi
đã sử dụng diện tích đất trên từ năm 2020 ổn định cho tới nay không tranh chấp với
ai.
T nhiều lần kiện gia đình tôi ra Toà án với nhiều số tiền khác nhau nên
không thống nhất được số tiền nhượng quyền góp vốn. Đó do sao gia đình
đến nay chưa trả số tiền liên quan đến việc chuyển nhượng quyền góp vốn với hợp
tác xã cho bà T.
Trong quá T mua bán đất tNhung (mẹ L) trả cho T số tiền
10.000.000 đồng theo giấy ngày 09/01, T xác nhận trong giấy. Đề nghị
nguyên đơn khấu trừ số tiền 10.000.000 đồng cho bị đơn. Hiện nay bà L đồng ý trả
cho bà T số tiền 340.000.000 đồng theo giấy sang nhượng ngày 26/9/2020 giữa chị
L và bà T.
* Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn Đặng Phương L trình
bày:
Dương Thị T khởi kiện bà Nguyễn Thị Ngọc L yêu cầu tuyên bhợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 26/9/2020 giải quyết hậu quả của hợp
đồng vô hiệu, buộc phía b đơn trả lại hiện trạng đất cho T là hoàn toàn không
căn cứ bởi lẽ:
Thoả thuận này là bà T chuyển nhượng lại quyền góp vốn vào Hợp tác xã trái
cây LN, sau đó L T thống nhất thành Giấy sang nhượng đất đngày
26/9/2020 với giá chuyển nhượng là 350.000.000 đồng.
Bản chất của Giấy sang nhượng đất đề ngày 26/9/2020 giữa T, L thỏa
thuận chuyển nhượng lại quyền góp vốn vào Hợp tác xã trái cây LN cùng mục đích
gia đình bà L trả tiền cho bà T để được quyền sử dụng thửa đất diện tích 67,5m² tại
địa chỉ số 01, số 99 đường Nguyễn Văn L thuộc đất của Hợp tác xã, thời hạn sử
dụng đến năm 2061.
Bà T không hề có đất để chuyển nhượng theo quy định tại Điều 188 Luật đất
đai năm 2013. Diện tích trên là đất của Hợp tác xã trái cây LN . Phía bị đơn không
thuê đất, không thuê Ki ôt cũng như không mua đất của bà T thể hiện tại các chứng
cứ sau: Tại Giấy sang nhượng đất ngày 26/9/2020 giữa bà L,T thể hiện nội dung
chuyển nhượng “lô đất Kiot số 01 khu dịch vụ địa chỉ 99 Nguyễn Văn L thuộc
HTX LN phường Tân A;
5
Tại Hợp đồng thỏa thuận bàn giao mặt bằng và góp vốn số 48/HĐ-HTX ngày
25/5/2018 giữa HTX Dương Thị T do nguyên đơn cung cấp (Bút lục 88) thể
hiện bà T góp vốn số tiền 200.000.000đồng để đầu tư, xây dựng được sử dụng diện
tích 67,5m² (4,5m x15m). Các căn cứ hợp đồng này thể hiện “Căn cứ vào Hợp
đồng thuê đất số 106/HĐTĐ ngày 7/10/2011 của Sở tài nguyên và môi trường tỉnh
Đăk Lăk Hợp tác trái cây LN ; Quyết định số 2417/QĐ- UBND ngày 16/9/2011
của UBND tỉnh Đăk Lăk" Thể hiện diện tích đất này Hợp tác xã trái cây LN được
Nhà nước cho thuê đất, T chgóp vốn vào Hợp tác để được sdụng chứ không
phải đất của T;
Tại các tài liệu, chứng cứ phía nguyên đơn cung cấp cho Tòa án kèm theo đơn
khởi kiện “Biên bản hòa giải ngày 20/6/2023 tại TAND TP Buôn Ma Thuột trong
vụ án Tranh chấp vay tài sản thụ số: 253/2023/TLST-DS" thể hiện do hai
bên (Bà T, L ) ký giấy sang nhượng đất ngày 26/9/2020 nhằm mục đích chuyển
nhượng lại quyền góp vốn vào Hợp tác xã trái cây LN , không phải chuyển nhượng
đất hay chuyển nhượng Kiốt.
Giấy xác nhận của các viên Hợp tác cung cấp cho Tòa án chứng minh
người bàn giao đất cho L Hợp tác xã. Không phải T bàn giao mặt bằng ngày
26/9/2020 với bà Nguyễn Thị Ngọc L Hợp tác xã đã bàn giao lô đất này do L
đang quản lý, sử dụng.
Căn cứ vào Hợp đồng số 58/HĐ/HTX thỏa thuận góp vốn bàn giao mặt
bằng về việc đầu tư xây dựng Trung tâm Thương mại Trái cây Buôn Ma Thuột với
Hợp tác xã trái cây LN ngày 26/9/2020 do ông Võ Đức Khiêm đại diện tên, đóng
dấu theo đó Hợp tác đã bàn giao mặt bằng đất trống tại dịch v01 khu C,
diện tích 66m² (4,4m X 15m) tại 94D Nguyễn Văn L, phường n A cho bà L quản
lý, sử dụng.
Sau khi Hợp đồng thoả thuận góp vốn bố L ông Sơn thay mặt L
đổ vật liệu xây Kiốt (Nhà) theo Giấy phép xây dựng chung của Hợp tác Sở
xây dựng đã cấp đồng thời đã bắt điện, nước, sử dụng Kiot (nhà), đóng tiền thuê đất
hàng năm, nộp các khoản thuế, phí, lệ phí các khoản thu khác, thực hiện đầy đ
nghĩa vụ với Hợp tác xã (Theo các tài liệu, chứng cứ đã cung cấp cho Tòa án).
do gia đình bị đơn chưa thực hiện việc trả tiền chuyển nhượng lại quyền
góp vốn để sử dụng thửa đất trên của Hợp tác xã trái cây LN do các bên tranh chấp
về giá tiền chuyển nhượng. Nguyên đơn khởi kiện vụ án tranh chấp hợp đồng vay
6
tài sản giữa T và bà Nhung, sau đó đã rút đơn, vụ án b đình chỉ. Trong quá T giải
quyết vụ án gia đình bị đơn hoàn toàn có thiện chí trả số tiền chuyển nhượng quyền
góp vốn cho T nhưng phía nguyên đơn liên tục thay đổi yêu cầu khởi kiện, thay
đổi ý kiến. Gia đình bị đơn đồng ý trả cho nguyên số tiền 340.000.000 đồng, sau khi
đã khấu trừ số tiền 10.000.000 đồng theo giấy ngày 09/01 bị đơn cung cấp. Đề
nghị HĐXX xem xét giải quyết vụ án theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn bà Dương Thị T.
* Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn trình bày ý kiến bổ sung:
Đối với diện tích đất 67.5m
2
như trong hợp đồng số 48/HĐ/HTX ngày
25/5/2018 giữa T Hợp tác Lộc N thì do T góp vốn 200 triệu đồng vào
Hợp tác xã nên bà T được Hợp tác xã Lộc N giao đất sdụng. Do đó Bà T không
nhu cầu sử dụng nên bán quyền góp vốn cho L. Bà L đã nhận đất từ năm 2020
sử dụng cho tới nay nhưng chưa trả tiền cho T là xâm phạm quyền lợi của T.
Đối với giấy ngày 09/01 mà bị đơn T bày tại phiên toà thì nguyên đơn không chấp
nhận khấu trừ 10.000.000 đồng giấy này không thể hiện nội dung trả tiền gì, nội
dung trả tiền cũng không ràng. Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Đề
nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Hợp tác xã Lộc N – Đại diện
theo pháp luật ông Nguyễn Ngọc T trình y: Giữa hợp tác Lộc Nguyên
Dương Thị T cóhợp đồng thỏa thuận góp vốn và bàn giao mặt bằng vào ngày
25/5/2018. Diện tích mặt bằng là 67,5m
2
. Sau đó giữa bà T và bà L có sự mua bán
trao đổi với nhau nên vào năm 2020 Hợp tác xã Lộc N hợp đồng số 58 thỏa thuận
góp vốn bàn giao mặt bằng với L. Diệnch mặt bằng đo lại tại thời điểm
kết là 66m
2
. Khi bàn giao mặt bằng là đất trống không có tài sản gì trên đất. Nguồn
gốc lô đất trong hợp đồng với L là của Hợp tác xã Lộc N nên việc Hợp tác
ký kết hợp đồng góp vốn và bàn giao mặt bằng với L là đúng theo quy định của
pháp luật, việc mua bán giữa T L là không đúng T không quyền
bán lô đất trên cho L . Hiện nayđất đang do bà L quản lý sử dụng, Hợp tác
không liên quan đến tranh chấp giữa T L đề nghị giải quyết theo quy
định của pháp luật.
Tại Bản án dân sự thẩm số: 173/2024/DS-ST ngày 21/8/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, đã quyết định:
7
- Căn cứ các khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 147, Điều 157, Điều 244; Điều 273 B luật tố tụng dân sự;
- Điều 116, 280, 385, 500, 501, 502, 503 Bộ luật dân sự;
- Căn cứ Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Dương Thị T.
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu tuyên bố
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 26/9/2020 giữa bà Dương Thị T
Nguyễn Thị Ngc L vô hiệu.
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn phải
bàn giao lại hiện trạng Quyền sử dụng đất diện tích đấtchiều rộng 4,5m x dài 15m
= 67m
2
cho nguyên đơn và nguyên đơn trách nhiệm trả lại giá trị tài sản bị
đơn đã tạo dựng trên đất.
- Công nhận thoả thuận chuyển nhượng quyền góp vốn giữa Dương Thị T
và bà Nguyễn Thị Ngọc L. Buộc bà Nguyễn Thị Ngọc L trả lại cho bà Dương Thị T
số tiền 350.000.000 đồng. Bị đơn quyền khởi kiện đối với stiền 10.000.000
đồng theo giấy đề ngày 09/01 thành 01 vụ án khác theo quy định của pháp luật.
- Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu
Nguyễn Thị Ngọc L phải trả tiền thuê đất và Kiốt từ ngày 26/9/2020 đến ngày
26/9/2023 là 37 tháng x 1.500.000 đồng x 37 tháng = 55.000.000 đồng.
- Về chi phí tố tụng: Bị đơn phải chịu 50% chi phí thẩm định định giá tài
sản. Nguyên đơn đã np tạm ứng chi phí thẩm định và định giá tài sản với số tiền
5.000.000 đồng nên hoàn trả lại cho nguyên đơn số tiền 2.500.000 đồng, sau khi thu
của bị đơn.
- Về án phí: Nguyên đơn Dương Thị T không phải chịu án phi dân
thẩm. Bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc L phải án phí dân sự sơ thẩm về số tiền phải trả
cho nguyên đơn là 17.500.000 đồng.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên quyền kháng cáo, quyền yêu cầu thi hành
án cho các đương sự theo quy định pháp luật.
Sau khi xét xử thẩm, ngày 30/8/2024 nguyên đơn ơng Thị T đơn
kháng cáo, với nội dung: kháng cáo toàn bộ bản án thẩm, đề nghị HĐXX chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà.
8
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn và đại diện nguyên đơn giữ nguyên yêu
cầu khởi kiện và nội dung yêu cầu kháng cáo. Người đại diện theo ủy quyền của bị
đơn vẫn giữ nguyên quan điểm về việc giải quyết vụ án.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn Đăng Phương L T bày:
vẫn giữ nguyên quan điểm như đã T bày tại các buổi làm việc, hòa giải cũng như
phiên tòa sơ thẩm và đề nghị HĐXX xem xét giải quyết vụ án theo hướng bác toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Dương Thị T.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lk tham gia phiên tòa trình bày ý
kiến xác định:
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán cũng như tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự đã tuân thủ đúng các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự;
Vnội dung: Tòa án cấp thẩm chưa thu thập, làm rõ tư cách thành viên của
bà T và bà L trong hợp tác xã. Chưa làm rõ việc chuyển giao quyền góp vốn giữa
T L trong số tiền 350.000.000 đồng đã bao gồm cả số tiền 200.000.000 đồng
bà T góp vốn vào Hợp tác xã Lộc N không, quá T ký kết hợp đồng góp vốn mới
giữa bà L Hợp tác xã Lộc N L nộp số tiền 200.000.000 đồng cho hợp tác
hay không. Tòa án cấp thẩm cũng chưa xác minh nguồn gốc đất, chưa thu thập
hợp đồng thuê đất của Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Đắk Lắk và Hợp tác xã có
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không. Toà án cấp thẩm chưa
thu thập tài liệu, chứng cứ đầy đủ, giải quyết vụ án chưa triệt để làm ảnh hưởng đến
quyền lợi ích hợp pháp của các đương sự, cấp phúc thẩm kng thể khắc phục
được.
Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:
- Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật T tụng dân sự;
- Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn bà Dương Thị T.
- Huỷ toàn bộ Bản án dân sự thẩm số 173/2024/DS-ST ngày 21/8/2024 của
Tòa án nhân dân thành phố B. Giao hồ cho Toà án nhân dân thành phố B giải
quyết lại vụ án từ giai đoạn sơ thẩm theo thủ tục chung
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết
quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng
9
cứ, lời T bày của các đương sự và ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận
định như sau:
[1] Đối với kháng cáo của nguyên đơn bà Dương Thị T, xét thấy:
[1.1] Quá trình khởi kiện nguyên đơn người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn yêu cầu Tòa án tuyên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
26/9/2024 giữa bà T và bà L là vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu,
còn đối với yêu cầu buộc bà L phải trả tiền thuê đất và Kiot thì xin rút.
[1.2] Về quá trình chuyển nhượng và ký kết hợp đồng góp vốn thì thấy:
Hợp tác Lộc N đã hợp đồng góp vốn bàn giao mặt bằng số 48/HĐ/HTX
vào ngày 25/5/2018 với bà Dương Thị T thời hạn sử dụng đất đến này 16/09/2061
Hợp đồng góp vốn bàn giao mặt bằng số 58/HĐ/HTX 26/9/2020 với
Nguyễn Thị Ngọc L thời hạn sử dụng đất đến ngày 16/9/2061 cùng với một lô đất
diện tích đấtKiot số 01, khu dịch vụ tại địa chỉ 99 Nguyễn Văn L diện tích là
chiều rộng 4,5m x dài 15m = 67m². Tuy nhiên, trong hồ vụ án không chứng
cứ, tài liệu nào chứng minh hợp đồng giữa T Hợp tác Lộc N đã chấm dứt
hay chưa, bà T được cấp giấy chứng nhận phần vốn góp hay không, số tiền p
vốn 200.000.000 đồng mà bà T đã góp vốn với hợp tác giải quyết như thế nào,
được trả lại vốn góp khi ra khỏi hợp tác xã và sau khi góp vốn bà T có là thành viên
hợp tác không, trước khi ký kết hợp đồng với L hợp tác đã chấm dứt
cách thành viên của bà T hay chưa theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 10, Điều
16; khoản 10 Điều 14 Luật hợp tác xã năm 2012. Mặt khác tại phiên tòa phúc thẩm
đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cũng như đại diện theo ủy quyền của bị đơn
cũng không xác định được việc bà T còn là thành viên hợp tác xã hay không.
Việc kết hợp đồng sang nhượng đất giữa T và L với số tiền 350.000.000
đồng có bao gồm việc chuyển giao luôn phần vốn góp T đã nộp cho hợp tác
xã hay không, trong khi hợp đồng góp vốn và bàn giao mặt bằng giữa hợp tác xã
L vẫn thỏa thuận L góp số tiền 200.000.000 đồng cho hợp tác xã nghĩa là cùng
một đất hợp tác được góp vốn 02 lần. Quá T giải quyết vụ án Tòa án cấp
thẩm cũng chưa xác minh nguồn gốc đất, chưa thu thập hợp đồng thuê đất của Sở
Tài nguyên và môi trường tỉnh Đắk Lắk Hợp tác được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất hay không, Việc kết các hợp đồng góp vốn bàn giao mặt
bằng giữa T và L được thực hiện vào thời điểm ông Đức Khiêm giám
đốc hợp tác nhưng Tòa án không triệu tập ông Khiêm để làm rõ, bởi lẽ đối với
ông Nguyễn Ngọc T tại bản tự khai (BL 81) ông chỉ xác định được đất là do hợp tác
10
quản nên việc T tý bán cho bà L là không đúng pháp luật thời điểm bán
giao đất cho L là đất trống ngoài ra việc ký hợp đồng với T và L ông không
nắm được và không cung được tài liệu chứng nào chứng minh.
Quá T giải quyết vụ án nguyên đơn xác định bà Nhung (m L) có trả cho bà
T số tiền 10.000.000 đồng nên đề nghị nguyên đơn khấu trừ theo giấy sang nhượng
ngày 26/9/2020 giữa chị L và bà T nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa bà Nhung
vào tham gia tố tụng là chưa đảm bảo.
Từ những phân tích, nhận định nói trên, XX xét thấy Toà án cấp thẩm
chưa thu thập tài liệu, chứng cứ đầy đủ, giải quyết vụ án chưa triệt đlàm ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, cấp phúc thẩm không thể khắc
phục được. Do đó, cần chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn Dương
Thị T, huỷ toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 173/2024/DS-ST ngày 21/8/2024 của
Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Giao hồ sơ cho Toà án cấp sơ thẩm giải
quyết lại theo thủ tục chung.
[2]. Về án phí và chi phí tố tụng:
[2.1]. Về án pdân sự thẩm chi phí tố tụng: Do hủy toàn bộ bản án sơ
thẩm nên chi phí tố tụng án phí DSST sđược quyết định khi vụ án được giải
quyết lại theo quy định của pháp luật.
[2.2]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Dương Thị T không phải chịu án pdân
sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1]. Căn cứ vào khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn bà Dương Thị T.
- Huỷ toàn bộ Bản án dân sự thẩm số 173/2024/DS-ST ngày 21/8/2024 của
Tòa án nhân dân thành phố B. Giao hồ cho Toà án nhân dân thành phố B giải
quyết lại vụ án từ giai đoạn sơ thẩm theo thủ tục chung.
[2]. Về chi phí tố tụng và án phí: Căn cứ Điều 18, khoản 3 Điều 29, Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vQuốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
[2.1]. Về án pdân sự thẩm chi phí ttụng: Do hủy toàn bộ bản án sơ
thẩm nên chi phí tố tụng án phí DSST sđược quyết định khi vụ án được giải
quyết lại theo quy định của pháp luật.
11
[2.2]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Dương Thị T không phải chịu án pdân
sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND Tp. Buôn Ma Thuột;
- Chi cục THADS Tp. Buôn Ma Thuột;
- Đăng Cổng TTĐT TANDTC
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ.
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
(Đã ký)
Y Thông Kbuôr
Tải về
Bản án số 352/2024/DS-PT Bản án số 352/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 352/2024/DS-PT Bản án số 352/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất