Bản án số 366/2024/DS-PT ngày 26/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 366/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 366/2024/DS-PT ngày 26/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 366/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Hoàng Q. Giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm số 11/2024/DS-ST, ngày
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 366/2024/DS-PT
Ngày 26 12 2024
“V/v Kiện đòi tài sản”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
Thành phần Hội đồng xét xphúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Duy Thuấn;
Các Thẩm phán: Ông Thanh Hà và bà Đinh Thị Tuyết.
Thư ký phiên tòa: Ông Lê Khc Anh Thư ký TAND tỉnh Đắk Lắk.
Đại diện VKSND tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Lê Thị Bích Thủy
Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 12 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lk tiến hành
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 234/2024/TLPT-DS, ngày
07/10/2024 về việc: Kiện đòi tài sản. Do kháng cáo của bị đơn. Theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 396/2024/QĐ-PT, ngày 29/11/2024 và Quyết định
hoãn phiên tòa số 354/2024/QĐ-PT, ngày 10/12/2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Bùi Thị Kiều O; Địa chỉ: 1416 HV, phường ThN, thị xã BH,
tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt
- Đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Ngọc N; Địa chỉ: Số 57 đường A5, thôn 1,
xã CÊ, thành ph B, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt
- Bị đơn: Ông Hoàng Q; Địa chỉ: TDP 14, thị trấn PĐ, huyện KB, tỉnh Đắk Lắk.
Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn: Đinh Thị V, Luật Văn
phòng luật sư TN, Đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk . Có mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông Nguyễn Văn P; Địa chỉ: 1416 HV, phường ThN, thị BH, tỉnh Đắk
Lắk; Vắng mặt
2
2/ Ông Nguyễn Tứ Q1; Địa chỉ: TDP 4, phường BT, thị xã BH, tỉnh Đắk Lắk.
Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia ttụng tại phiên tòa đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn ông Phan Ngọc N trình bày:
Bà Bùi Thị Kiều O là chủ sở hữu chiếc xe ô tô nhãn hiệu Toyota, loại xe Hiace
16 chỗ ngồi, biển số 47B-011.XX, màu sơn vàng. Giấy chứng nhận đăng số
031510, do Phòng cảnh sát giao thông tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 11/8/2017, mang tên
Bùi Thị Kiều O. Quá trình sử dụng ông Nguyễn Tứ Q1 hàng xóm của O
mượn chiếc xe nói trên để sử dụng. Sau một thời gian dài ông Q1 không trlại xe,
bà O tìm hiểu thì được biết ông Nguyễn Tứ Q1 đã thế chấp chiếc xe nói trên cho ông
Hoàng Q, ttại thôn 15, xã (nay là tổ dân phố 14, thị trấn ), huyện KB để lấy
tiền tiêu sài nhân. O gặp ông Q1 u cầu ông Q1 trả lại xe, nhưng ông Q1
không trả.
Vì vậy bà O khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện KB giải quyết buộc ông
Hoàng Q phải trả lại chiếc xe ô tô nhãn hiệu Toyota, loại xe Hiace 16 chỗ ngồi, biển
số 47B-011.XX cho bà Bùi Thị Kiều O làchủ sơ hữu theo quy định.
Quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa bị đơn ông Hoàng Q trình bày:
Tại bản tự khai ngày 14/12/2022 ông Hoàng Q tự khai như sau: Ông Hoàng Q
đã nhận được thông báo về việc thụ lý vụ án số 324/2022/TB-TLVA, ngày
04/11/2022 của Tòa án nhân dân huyện KB, đối với người khởi kiện Bùi Thị
Kiều O, ông Q1 có ý kiến như sau:
Ông Hoàng Q và ông Nguyễn Văn P, ông Nguyễn Tứ Q1 là bạn bè thân và sau
đó gọi điện thoại cho ông Q1 cầm chiếc xe biển số 47B-011.XX để vay số tiền
2000.000.000 đồng vào khoàng tháng 11/2020. Do chỗ quen thân và tin tưởng
nhau nên khi nhận cầm cố xe các bên không làm hợp đồng chỉ nói miệng với
nhau và thể hiện việc nhận cầm cố xe qua lệnh chuyển tiền số tiền 200.000.000 đồng
vào tài khoản ngân hàng của ông Q1. Do tin tưởng ông P nên ông Q1 không xem
đăng ký xe đứng tên ai mà nghĩ là đứng tên ông P chủ sở hữu. Khi ông P đơn
khởi kiện ông Hoàng Q vào đầu năm 2022 về việc đòi lại chiếc xe này thì ông Q1
mới biết chiếc xe này là do bà Bùi Thị Kiều O đứng tên giấy đăng ký xe, sau đó ông
P rút đơn khởi kiện và vụ án đã được Tòa án đình chỉ. Vào ngày 04/11/2022 bà Bùi
Thị Kiều O khởi kiện ông Hoàng Q đòi trả lại chiếc xe trên. Ông Q1 không đồng ý
với đơn khởi kiện của Bùi Thị Kiều O với do ông Q1 không mối quan hệ,
quen biết Bùi Thị Kiều O, không nhận cầm cố tài sản của bà Kiều O, ông Q1
cũng không đến nhà bà Kiều O để lấy tài sản của bà Kiều O. Ông Hoàng Q chỉ biết
ông P, ông Q1 nhận cầm cố xe của ông P với số tiền 200.000.000 đồng. Ông
Hoàng Q không đồng ý trả lại chiếc xe biển số 47B-011.XX như đơn khởi kiện của
Kiều O, ông chỉ đồng ý trả lại xe cho ông P khi ông P, ông Q1 trả khoản tiền
3
200.000.000 đồng cho ông Q1. Hiện nay xe ô biển số 47B-011.XX đang do ông
Q1 quản lý.
Quá trình giải quyết vụ án ông Hoàng Q không có yêu cầu độc lập đối với ông
Nguyễn Văn P và ông Nguyễn Tứ Q1.
Tại biên tự khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn P trình
bày:
Ông P và bà Bùi Thị Kiều O là vợ chồng, bà Kiều O là chủ sở hữu xe ô tô biển
kiểm soát 47B-011.XX, màu sơn vàng. Ông Nguyễn Tứ Q1 bạn của ông P, ngày
16/11/2020, ông Q1 hỏi mượn xe ô nói trên nói đi công việc, hẹn hai ngày
sau sẽ trả. Do bạn bè, hàng xóm của nhau nên ông P đã cho ông Q1 mượn xe để
đi lại giải quyết công việc riêng, việc cho mượn xe bà Bùi Thị Kiều O không biết.
Sau khi không thấy xe thì Kiều O hỏi ông P thì ông P nói cho ông Q1
mượn đi công chuyện. Sau đó ông P được biết sau khi ợn xe thì ông Nguyễn Tứ
Q1 đã cầm cố chiếc xe cho ông Hoàng Q trú tại thôn 15, xã PĐ, huyện KB, tỉnh Đắk
Lắk.
Nay bà Bùi Thị Kiều O khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện KB buộc ông
Hoàng Q trả lại chiếc xe biển số 47B-011.XX cho Bùi Thị Kiều O ông P đồng ý
và không có ý kiến gì.
Tại biên bản lấy lời khai và tại phiên toà người quyền lợi nghĩa v liên quan
ông Nguyễn Tứ Q1 trình bày:
Ông Q1 không mối quan hệ thân thích với Bùi Thị Kiều O, ông Nguyễn
Văn P ông Hoàng Q, chỉ quen biết làm ăn ngoài hội. Đối với chiếc xe ô tô nhãn
hiệu Toyota, loại Hiace, biển số 47B-011.XX, ông Q1 không mượn xe của ông P,
không giao dịch gì liên quan đến chiếc xe.
Vào ngày 16/11/2020 ông P cầm cố xe cho ông Hoàng Q, ông Q1 biết việc đó
do ông P nhờ lên chở về vì khi đã cầm cố xe ông P không có xe để đi về. Ông P cầm
cố xe lấy 200.000.000 đồng, nhưng khi đó ông P không có tài khoản ngân hàng nên
lấy số tài khoản của ông Q1 để ông Q1 chuyển tiền vào. Số tiền 200.000.000 đồng
ông Q1 chỉ nhận thay cho ông P đã trả lại cho ông P, ông Q1 không giao dịch cầm
cố với ông Q1. Về nội dung thỏa thuận cầm cố, lãi suất cầm cố ông Q1 không biết.
Nay bà Bùi Thị Kiều O khởi kiện yêu cầu ông Q1 trả lại xe ô tô cho O, việc này
ông Q1 không có ý kiến gì, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án sơ thẩm số 11/2024/DS-ST, ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Tòa
án nhân dân huyện KB đã quyết định:
“1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Bùi Thị Kiều O.
Buộc ông Hoàng Q phải giao trả lại 01 chiếc xe ô nhãn hiệu Toyota, loại
xe Hiace 16 chỗ, biển số 47B-011.XX, màu sơn vàng; 01 Giấy chứng nhận
đăng xe ô s031510, do Phòng cảnh sát giao thông tỉnh Đắk Lắk cấp
4
ngày 11/8/2017 mang tên bà Bùi Thị Kiều O cho bà Bùi Thị Kiều O là chủ sở
hữu hợp pháp.”
Ngoài ra bản án thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng
cáo theo quy định pháp luật.
Sau khi xét xử thẩm, ngày 09/7/2024 bị đơn ông Hoàng Q kháng cáo toàn bộ
bản án sơ thẩm.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Đại diện u quyn của nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, lời trình
bày, các tài liệu, chứng cứ đã cung cấp tại cấp sơ thẩm.
- Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn giữ nguyên nội dung kháng
cáo của bị đơn.
Quá trình tranh luận, các đương sự giữ nguyên ý kiến, không tranh luận thêm.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm giải quyết
vụ án:
+ V t tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử phúc thm, thư đương sự đã
thực hiện đúng quy định của pháp luật t tụng dân s.
+ V nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1
Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bđơn, giữ nguyên
nội dung quyết định của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn c o c tài liu, chứng cứ có trong hsơ v án đã đưc thẩm tra tại phiên a,
căn cứ vào kết quả tranh lun tại phiên a, trên cơ sở xem xét đầy đủ ci liệu chng
cứ, lời trình y của các đương sự, ý kiến của Kiểm t vn, Hi đồng xét xnhận thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn kháng cáo bản án trong
thời hạn luật định và đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm nên vụ án được giải quyết và
xét xử theo trình tphúc thẩm, thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
[2] Xét kng cáo của bị đơn ông Hoàng Q, Hi đồng t xử phúc thm t thấy:
Quá trình giải quyết vụ án, các đương sđã ThN các nội dung như sau: Vào
ngày 16/11/2020, bị đơn ông Hoàng Q nhận 01 chiếc xe ô tô biển kiểm soát 47B-
011.XX mang tên bà Bùi Thị Kiều O vợ ông Nguyễn Văn P, sau đó ông Hoàng Q
chuyển tiền vào tài khoản của ông Nguyễn Tứ Q1 với nội dụng: “HOANG QUYNH
chuyen tien cam xe 47B 011.XX”, việc cầm cố, giao tiền, giao xe các bên không lập
giấy tờ gì. Đây là các tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh.
Về mục đích việc giao, nhận chiếc xe ô 47B - 011.XX, Hội đồng xét xử nhận
thấy các bên trình bày không ThN với nhau, cụ thể:
5
Ông Q1 cho rằng: Ông P cầm cố xe cho ông Q1 mục đích là để ông P vay ông
Q1 200.000.000 đồng rồi đưa lại cho ông Q1 vay, nhưng do ông P không tài khoản
ngân hàng nên ông Q1 đã chuyển thẳng tiền vào tài khoản của ông Q1 số tiền
200.000.00 đồng. Tuy nhiên ông P và ông Q1 không thừa nhận toàn bộ lời trình bày
của ông Q1.
Ông P cho rằng: Ông không vay mượn, không cầm cố xe cho ông Q1, ông cho
ông Q1 ợn xe nhưng ông Q1 tự ý cầm cố xe cho ông Q1 để vay tiền;
Còn ông Q1 thì cho rằng: Ông P vay tiền của ông Q1 nên mới cầm cố xe, nhưng
ông Q1 không có tài khoản ngân hàng nên nhờ chuyển cho vào tài khoản ngân hàng
của ông Q1 sau đó ông Q1 đã rút tiền mặt ra đưa lại toàn bộ số tiền 200.000.000 đồng
cho ông P.
Xét thấy, các lời trình bày trên là mâu thuẫn với nhau, các bên đều không thừa
nhận, không bên nào có tài liệu chứng cứ chứng mình cho lời trình bày của mình
đúng, nên không có giá trị pháp lý chứng minh.
Xét việc bị đơn ông Hoàng Q đã nhận chiếc xe ô biển số 47B-011.XX giấy
đăng ký xe ô tô đang đứng tên bà Bùi Thị Kiều O, bị đơn ông Q1 cho rằng chồng bà
O ông P cầm cố để vay số tiền 200.000.000 đồng, tuy nhiên bị đơn không cung
cấp văn bản, tài liệu gì đchứng minh, số tiền vay này bị đơn cũng không chuyển
cho ông P hay O, ông P và bà O cũng không thừa nhận vay tiền của ông Q1
cũng không đồng ý việc cầm cố xe cho ông Q1. Bị đơn không cung cấp được tài liệu,
chứng cứ nào để xác định ông P hay bà O có bất kỳ nghĩa vụ nào đối với ông Q1 về
số tiền 200.000.000 đồng ông Q1 đã chuyển cho ông Q1. Do đó, không căn
cứ để xác định phát sinh giao dịch cầm cố tài sản giữa bên nhận cầm cố ông
Hoàng Q với bên cầm cố là ông Nguyễn Văn P hay bà Bùi Thị Kiều O, để đảm bảo
cho việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay của số tiền 200.000.000 đồng như bị đơn
trình bày.
Từ những lập luận trên, xác định việc bị đơn ông Hoàng Q đã chiếm hữu tài sản
chiếc xe biển số 47B-01120 đang đứng tên trên giấy đăng xe Bùi Thị Kiều
O đang thuộc quyền sở hữu chung của vợ chồng O ông P không có căn cứ pháp
luật. Vì vậy, bà O đầy đủ các quyền đối với tài sản của vợ chồng mình được quy
định trong Bộ luật dân sự năm 2015 trong đó có quyền đòi lại tài sản mà mình đang
chủ sở hữu theo Điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015. Do đó, bản án thẩm đã
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bùi Thị Kiều O, buộc ông Hoàng Q trả lại tài sản
là 01 chiếc xe biển số 47B-011.XX có căn cứ. Kháng cáo của bị đơn là không
căn cứ nên không được chấp nhận. Quyết định của bản án sơ thẩm là có căn cứ nên
cần giữ nguyên là phù hợp.
Ngoài ra, đối vi vic b đơn ông Hoàng Q cho rng ông Nguyễn Văn P, ông
Nguyn T Q1 còn n chưa tr cho ông v s tiền 200.000.000 đồng. Quá trình gii
quyết v án ông Hoàng Q không có đơn yêu cầu nên bn án sơ thm không xem xét,
6
gii quyết là đúng. Ông Hoàng Q có quyn khi kin bng v án dân s khác khi có
yêu cu.
- Về án phí dân sự phúc thẩm: Kháng cáo ca bị đơn không được chấp nhận nên
bị đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
[1]. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Hoàng Q. Giữ nguyên quyết định
của Bản án thẩm s11/2024/DS-ST, ngày: 28 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân
dân huyện KB, tỉnh Đắk Lắk.
[2]. Căn cứ Điều 166 của Bộ luật dân sự;
Áp dụng khoản 2 Điều 26, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/UBTVQH 12,
ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên x:
[2.1]. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Bùi Thị Kiều
O. Buộc ông Hoàng Q phải giao trả lại cho bà Bùi Thị Kiều O tài sản là: 01 chiếc xe
ô tô nhãn hiệu Toyota, loại xe Hiace 16 chỗ, biển số 47B-011.XX, màu sơn vàng; 01
Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 031510, do Phòng cảnh sát giao thông tỉnh Đắk
Lắk cấp ngày 11/8/2017 mang tên bà Bùi Thị Kiều O,.
[2.2]. Về chi ptố tụng: Chi phí định giá tài sản (02 lần) số tiền 1.000.000
đồng, Bùi Thị Kiều O đã nộp tạm ứng chi phí tố tụng tại Toà án đã chi phí
xong. Ông Hoàng Q phải hoàn trả lại số tiền 1.000.000 đồng chi phí tố tụng cho bà
Bùi Thị Kiều O trong giai đoạn thi hành án.
[2.3]. Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm: Hoàn trả lại cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kiều O
tạm ứng án phí đã nộp là 5.000.000 đồng theo biên lai s AA/2021/0020712, ngày
01/11/2022 ca Chi cc Thi nh án dân s huyện KB. Bị đơn ông Hoàng Q phải
chịu 10.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
- Án phí dân sphúc thẩm: Bị đơn ông Hoàng Q phải chịu 300.000 đồng án
phí n sự phúc thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai
thu tạm ứng án phí, lphí Tòa án số 0006316, ngày 10/7/2024 của Chi cục Thi hành
án dân sự huyện KB, tỉnh Đắk Lắk.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
7
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 Luật Thi nh án dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân
sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TANDCC Đà Nẵng;
- Viện KSNDCC Đà nẵng;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện KB;
- Cục THADS huyện KB;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ VA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Duy Thuấn
Tải về
Bản án số 366/2024/DS-PT Bản án số 366/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 366/2024/DS-PT Bản án số 366/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất