Bản án số 13/2025/DS-PT ngày 20/01/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 13/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 13/2025/DS-PT ngày 20/01/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lâm Đồng
Số hiệu: 13/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của bà Bùi Thị Yến N, giữ nguyên phần Quyết định của Bản án Dân sự sơ thẩm số 35/2024/DS-ST ngày 20/8/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng về việc giải quyết yêu cầu của nguyên đơn đối với số tiền 7.900.000.000đ; sửa Bản án sơ thẩm về án phí.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 13/2025/DS-PT
Ngày: 20-01-2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Huỳnh Châu Thạch
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Thanh
Ông Dư Thành Trung
- Thư phiên toà: Thị Ngọc Huyền – Tký Tỏa án, Toà án nhân dân
tỉnh Lâm Đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng: Nguyễn Thị Thanh
Hương – Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 20 tháng 01 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ số 207/2024/TLPT-DS ngày 09 tháng 10 năm 2024
về tranh chấp: “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do Bản án Dân sự thẩm số 35/2024/DS-ST ngày 20/8/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 414/2024/QĐ-PT ngày 22
tháng 10 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 08/2025/QĐ-PT ngày
08 tháng 01 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: i Thị Yến N, sinh năm: 1987; cư trú tại số D, lô B, cư xá
T, Phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Hoàng T, sinh năm: 1971; cư trú tại số
C, đường Y, phường N, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, là người đại diện theo ủy
quyền (Văn bản ủy quyền số 003058, quyển số 10/2024 TP/CC-SCC/HĐGD do n
phòng C1 chứng nhận ngày 07/10/2024); có mặt.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của N: Luật Nguyễn Thị Đ;
Luật sư của ng ty L - Đoàn Luật sư Thành phố H; có mặt.
- Bị đơn: Nguyễn Thị Mai H, sinh năm: 1989; trú tại số H, Bờ Bao T,
phường S, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; có đơn xin xét xử vắng mặt.
2
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Phan Thị T1, sinh năm: 1957;
trú tại H, xã H, huyện N, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp:
+ Ông Lê Nguyễn Bảo D, sinh năm: 1977; cư trú tại số C, đường C, Phường I,
thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng, người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền số
15217, quyển số 11/2024 TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng C2 chứng nhận ngày
12/11/2024); có mặt.
+ Trịnh Thị T2, sinh năm: 1989; trú tại số E, tổ C, phường Q, quận C,
Thành phố Nội (Văn bản ủy quyền số 5241, quyển số 01/2024 TP/CC-
SCC/HĐGD do Văn phòng C3 chứng nhận ngày 17/10/2024); đơn xin xét xử
vắng mặt.
- Người làm chứng:
+ Nguyễn Thị Bích C, sinh năm: 1974; cư trú tại số C, đường N, phường H,
quận H, thành phố Đà Nẵng; vắng mặt.
+ Ông Huỳnh Châu T3, sinh năm: 1986; cư trú tại T, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh
Quảng Nam; vắng mặt.
Người kháng cáo: Bà Bùi Thị Yến N Nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 01/02/2024 của bà Bùi Thị Yến N, lời trình
bày tại các bản tự khai và trong quá trình tham gia tố tụng tại giai đoạn sơ thẩm của
N của ông Nguyễn Anh T4, người đại diện theo ủy quyền của N, thì: o
ngày 16/01/2024 giữa bà Bùi Thị Yến N và bà Nguyễn Thị Mai H có lập hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với các bất động sản gồm: diện tích 816,78m
2
thuộc thửa 103, tờ bản đồ số 19 tại X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số DD 901963 do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh
L cấp ngày 14/4/2022; diện tích 458,7m
2
thuộc thửa 581 1.457,3m
2
thuộc thửa
582, cùng tờ bản đồ số 19 tại X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số CY 705053 do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh L cấp
ngày 30/10/2020. Giá chuyển nhượng 16.400.000.000đ, thỏa thuận thanh toán làm
02 đợt; đợt 1 N chuyển 8.500.000.000đ để thanh toán nợ tại T5 thay cho bà H
đợt 2 chuyển 7.900.000.000đ. Cùng ngày 16/01/2024 hai bên lập biên bản giao nhận
tiền đặt cọc là 7.900.000.000đ, bà H đã ký nhận.
Tuy nhiên, vào ngày 24/01/2024 H lại tiếp tục nhận cọc với số tiền
9.000.000.00của Nguyễn Thị Bích C; thường trú tại số C, đường N, phường
H, quận H, thành phố Đà Nẵng đchuyển nhượng các thửa đất nói trên. Vào thời
điểmH và bà C ký hợp đồng đặt cọc thì hợp đồng chuyển nhượng giữa bà N
bà H vẫn không bị hủy bỏ, chấm dứt vì bất kỳ lý do nào.
3
Quá trình giải quyết vụ án, bà N được biết bà H đã làm thủ tục rút Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất từ T5 chuyển nhượng các diện tích đất vừa nêu cho
Phan Thị T1 với số tiền là 15.500.000.000đ vào ngày 30/01/2024. Hiện nay Phan
Thị T1 đã nộp hồ thủ tục để đăng biến động sang tên tại Sở Tài nguyên môi
trường tỉnh L.
Nay nguyên đơn đơn khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ngày 16/01/2024 giữa bà Bùi Thị Yến NNguyễn Thị Mai H; buộc
H phải trả lại cho bà N số tiền cọc 7.900.000.000đ phải chịu phạt cọc với số
tiền 7.900.000.000đ, tổng cộng là 15.800.000.000đ.
Ngày 05/4/2024 ông Nguyễn Anh T4 xin rút một phần yêu cầu khởi kiện, không
yêu cầu phạt cọc và không yêu cầu thẩm định giá tài sản tranh chấp.
Đối với việc giao nhận số tiền cọc 7.900.000.000đ: Nguyên đơn thừa nhận
không giao tiền mặt hoặc chuyển khoản cho bị đơn mà thỏa thuận bằng lời nói
giữa nguyên đơn bị đơn về việc cấn trừ số tiền cọc này vào số tiền
13.044.950.000đ tiền ncủa Công ty trách nhiệm hữu hạn S (sau đây gọi tắt
Công ty S) do bà H làm Giám đốc đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn T6 (sau đây
gọi tắt Công ty T6) do N làm Giám đốc theo Biên bản xác nhận đối chiếu ng
nợ giữa 02 công ty vào ngày 31/12/2023.
- Theo lời trình bày của bà Nguyễn Thị Mai H thì: Giữa bà và bà Bùi Thị Yến
N chưa bao giờ thỏa thuận việc chuyển nhượng tài sản là diện tích 816,78m
2
thuộc
thửa đất 103; diện tích 458,7m
2
thuộc thửa 581 diện tích 1.457,3m
2
thuộc thửa
582, cùng tờ bản đồ số 19 tại X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng với giá
16.400.000.000đ. cũng chưa bao giờ nhận số tiền 7.900.000.000đ đặt cọc từ
N. Việc bà hợp đồng chuyển nhượng biên bản nhận cọc ngày 16/01/2024
để hỗ trợ việc làm hồ vay cho bà N tại ngân hàng. Bà N cam kết việc bà ký hợp
đồng này không giá trị pháp sẽ không tranh chấp khi tìm được người
nhận chuyển nhượng nên bà mới đồng ý ký. Giữa Phan Thị T1 là chuyển
nhượng quyền sử dụng đất đúng nghĩa, bà đã nhận tiền cọc và tiền chuyển nhượng
đầy đủ của T1 để thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên. Hiện tại
hồ đăng sang tên bị ngăn chặn tại Sở Tài nguyên môi trường tỉnh L làm ảnh
hưởng rất lớn đến danh dự của bà và quyền lợi của bà T1.
Nay N khởi kiện yêu cầu trả lại stiền cọc 7.900.000.000đ thì không
đồng ý chưa nhận số tiền trên từ N. Đồng thời, không thỏa thuận nào
giữa N về việc cấn trừ số tiền 7.900.000.000đ vào số tiền nợ
13.044.950.854đ giữa Công ty S và Công ty T6.
- Theo lời trình bày của ông Nguyễn Bảo D, người đại diện theo y
quyền của Phan Thị T1, thì: Vào ngày 30/01/2024 tại Văn phòng C4 giữa
Phan Thị T1 Nguyễn Thị Mai H đã lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
4
dụng đất đối với 02 thửa đất số: 581+582 số sổ CY 705053 tờ bản đồ số 19 và thửa
103 số sổ DD 901963 tbản đồ số 19 tại X, thành phố Đ với giá 15.500.000.000đ,
T1 đã chuyển đủ số tiền thỏa thuận theo số tài khoản thụ hưởng mà H chỉ định.
Phía bà T1 cũng đã tiến hành làm các thủ tục liên quan đến việc chuyển nhượng tài
sản đã đóng thuế vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật (có hóa
đơn nộp tiền vào ngân sách nhà nước kèm theo). Ngày 20/02/2024 bà T1 đến nhận
kết quả hồ chuyển nhượng theo giấy hẹn của bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của
Sở Tài nguyên môi Trường tỉnh L thì được biết hồ của T1 không được duyệt
do có đơn khởi kiện về việc bà Nguyễn Thị Mai H đã chuyển nhượng và nhận tiền
cọc 02 thửa đất trên cho bà Bùi Thị Yến N. Đề nghị bà H xử lý các vấn đliên quan
để T1 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng quy định của pháp
luật. Ngoài ra bà T1 không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề gì trong vụ án này.
- Theo lời trình bày của người làm chứng Nguyễn Thị Bích C thì: Giữa
Nguyễn Thị Mai H không biết mặt nhau không thỏa thuận đặt cọc
hay chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Bà không chuyển tiền giao dịch đặt cọc
không vào hợp đồng đặt cọc ngày 24/01/2024 với H. Đề nghị Tòa án không
đưa vào tham gia tố tụng với cách người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong
vụ án này.
- Theo lời trình bày của người làm chứng ông Huỳnh Châu T3 thì: Nguyễn
Thị Mai H có nhờ ông ký làm chứng trong hợp đồng đặt cọc ngày 24/01/2024 giữa
Nguyễn Thị Mai H Nguyễn Thị Bích C đthực hiện làm thủ tục ngân hàng.
Ông không thấy C mặt để ký. Thực tế ông được biết không giao dịch nào
giữa bà H và bà C.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại Bản án số 35/2024/DS-ST ngày 20 tháng 8 năm 2024; Tòa án nhân dân
thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng đã xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Bùi Thị Yến N đối
với bị đơn bà Nguyễn Thị Mai H.
Ghi nhận sthỏa thuận của nguyên đơn bà Bùi Thị Yến N bị đơn Nguyễn
Thị Mai H về việc hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (thỏa thuận đặt
cọc) ngày 16/01/2024 không có công chứng, chứng thực giữa bà Bùi Thị Yến N và
Nguyễn Thị Mai H đối với diện tích 816,78m
2
thuộc thửa đất 103, tờ bản đồ số
19 tại xã X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số DD 901963 do Sở Tài nguyên môi trường tỉnh L cấp ngày 14/4/2022; diện tích
458,7m
2
thuộc thửa 581 diện tích 1.457,3m
2
thuộc thửa 582, cùng tờ bản đồ số
19 tại xã X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số CY 705053 do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh L cấp ngày 30/10/2020 cho bà
Nguyễn Thị Mai H.
5
Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của Bùi Thị Yến N về việc buộc
Nguyễn Thị Mai H trả số tiền phạt cọc 7.900.000.000đ.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bùi Thị Yến N về việc buộc
Nguyễn Thị Mai H trả lại số tiền cọc 7.900.000.000đ.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và trách nhiệm thi hành
án của các bên đương sự.
Ngày 06/9/2024 Bùi Thị Yến N kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm
sửa Bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; buộc
bị đơn trả lại số tiền cọc là 7.900.000.000đ.
Tại phiên tòa,
Ông Nguyễn Hoàng T, người đại diện theo ủy quyền của Bùi Thị Yến N, vẫn
giữ nguyên kháng cáo.
Luật sư Nguyễn Thị Hà Đ - người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bà N, đề
nghị chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, sửa hoặc hủy Bản án sơ thẩm.
Ông Nguyễn Bảo D, người đại diện theo ủy quyền của Phan Thị T1,
không đồng ý với kháng cáo của nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng phát biểu về việc tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử các
đương sự tại giai đoạn phúc thẩm cũng như phiên tòa hôm nay: đã chấp hành đúng
quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Về nội dung: Đnghị Hội đồng xét
xử căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân snăm 2015,
hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Quan hệ tranh chấp giữa các bên đã được Tòa án cấp thẩm xác định theo
đúng quy định của pháp luật; đơn kháng cáo Bùi Thị Yến N; thủ tục kháng cáo
được thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 271, 272, 273, 276 và Điều 277 Bộ
luật Tố tụng Dân sự năm 2015 nên đủ điều kiện để Hội đồng xét xử xem xét, giải
quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của Bùi Thị Yến N thì:
[2.1] Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả lại số
tiền cọc 7.900.000.000đ thì thấy rằng: Tại các khoản 2, 3 Điều 2 của hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất (thỏa thuận đặt cọc) ngày 16/01/2024 (BL104-
105) thể hiện Cũng trong ngày 16/01/2024, Bên B (bà N) thanh toán cho bên A (bà
H) hết phần tiền còn lại 7.900.000.000đ, việc giao nhận tiền nêu trên do hai
bên thực hiện bằng biên nhận và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật”; tại Biên bản
giao nhận tiền đặt cọc cùng ngày thể hiện “Bên A (bà H) đã nhận đủ số tiền đặt cọc
6
do bên B (bà N) giao 7.900.000.000đ” (BL 101-102). Tuy nhiên, quá trình giải
quyết vụ án, bà N khẳng định không giao số tiền 7.900.000.000đ vừa nêu cho H
bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản mà cho rằng đó là thỏa thuận bằng lời nói của hai
bên theo đó sẽ cấn trừ số tiền cọc này vào tiền nợ 13.044.950.854đ theo Biên bản
đối chiếu công nợ lập ngày 31/12/2023 (BL107-111) giữa Công ty T6 (do N
người đại diện theo pháp luật) Công ty S (do H là người đại diện theo pháp
luật). Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã thực hiện việc đối chất giữa bà N và bà H và làm
việc với Công ty T6; qua đó xác định từ ngày 31/12/2023 cho đến ngày 31/7/2024,
giữa N H hay Công ty T6 Công ty S đều không việc xác nhận công
nợ hoặc cấn trừ nợ nào khác (BL148-149).
[2.2] Đồng thời, bà H xuất trình biên bản xác nhận đối chiếu công nợ vào ngày
12/8/2024 giữa 02 Công ty cũng như giữa cá nhân bà N và bà H, nội dung của biên
bản này không thể hiện nội dung hai bên thống nhất cấn trừ số tiền nợ
7.900.000.00vào việc đặt cọc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất như nguyên
đơn trình bày. Do vậy việc thanh toán công nợ Công ty T6 Công ty S hoặc cấn
trừ trong vụ án này không được đặt ra để giải quyết do N chyêu cầu Tòa án giải
quyết buộc H phải trả lại cho bà số tiền 7.900.000.000đ đã đặt cọc. Trong trường
hợp hai công ty vừa nêu tranh chấp thì sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác
theo quy định của pháp luật.
[2.3] Đối với biên bản xác nhận đối chiếu công nợ ngày 31/12/2023 do ông T,
người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, xuất trình tại giai đoạn phúc thẩm với
tổng số tiền 7.255.266.420đ thì nội dung của biên bản này cũng không thể hiện
sự thỏa thuận về việc cấn trừ tiền khi hai bên tiến hành đặt cọc nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất. Ngoài ra; cũng trong ngày 31/12/2023 hai bên cũng lập 01 biên
bản đối chiếu công nợ khác với số tiền là 13.044.950.854đ; hai biên bản này lập
trong cùng một ngày nhưng không thể hiện có sự thay thế nhau, cấn trừ tiền nợ với
nhau nên việc nguyên đơn cho rằng sau khi thỏa thuận cấn trừ tiền đặt cọc nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì mới lập biên xác nhận số nợ 7.255.266.420đ
là không có cơ sở xem xét..
[2.4] Từ những phân tích trên, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của
Bùi Thị Yến N, giữ nguyên Bản án sơ thẩm về việc giải quyết không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu b đơn phải trả lại số tiền
7.900.000.000đ.
[3] Các phần khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí: cấp thẩm hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa N H nhưng lại không tuyên bị đơn phải chịu án phí Dân sự thẩm
không có giá ngạch đối với phần này là có thiếu sót nên cần sửa lại, bà N phải chịu
7
án phí Dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận. Do kháng
cáo không chấp nhận nên bà N phải chịu án phí Dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
- Căn cứ các Điều 500, 501, 502 và Điều 503 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ khoản 4 Điều 26, khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của Bùi Thị Yến N, giữ nguyên phần Quyết
định của Bản án Dân sthẩm số 35/2024/DS-ST ngày 20/8/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng vviệc giải quyết yêu cầu của nguyên đơn
đối với số tiền 7.900.000.000đ; sửa Bản án sơ thẩm về án phí.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị Yến N về việc buộc
Nguyễn Thị Mai H phải trả lại số tiền 7.900.000.000đ (bảy tỷ chín trăm triệu đồng).
2. Các phần khác của Bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị đã
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Về án phí:
- Án phí sơ thẩm: Buộc Bùi Thị Yến N phải chịu 115.900.000đ án phí Dân
sự thẩm; được trừ vào số tiền 62.200.000đ tạm ứng án pDân sự thẩm đã nộp
theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000336 ngày 01/02/2024 của Chi
cục Thi hành án Dân sự thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. N còn phải nộp
53.700.000đ án phí Dân sự sơ thẩm.
Buộc bà Nguyễn Thị Mai H phải chịu 300.000đ án phí Dân sự sơ thẩm.
- Án phí phúc thẩm: Buộc i Thị Yến N phải chịu 300.000đ án phí Dân sự
phúc thẩm; được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí Dân sự phúc thẩm đã nộp
theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001122 ngày 19/9/2024 của Chi
cục Thi hành án Dân sự thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Bà N đã nộp đủ án phí
Dân sự phúc thẩm
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
8
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh m Đồng (01);
- Phòng TT - KT & THA (01);
- TAND thành phố Đà Lạt (01);
- Chi cục THADS thành phố Đà Lạt (01);
- Đương sự (03);
- Lưu: bộ phận lưu trữ, hồ sơ vụ án (03).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Châu Thạch
Tải về
Bản án số 13/2025/DS-PT Bản án số 13/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 13/2025/DS-PT Bản án số 13/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất