Bản án số 614/2024/DS-PT ngày 12/12/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 614/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 614/2024/DS-PT ngày 12/12/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Dương
Số hiệu: 614/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 12/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền phát sinh hợp đồng dân sự Đ-T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 614/2024/DS-PT
Ngày 12-12-2024
V/v tranh chấp yêu cầu thực hiện
nghĩa vụ trả tiền phát sinh hợp
đồng dân sự
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Đinh Thị Mộng Tuyết.
Ông Nguyễn Văn Thanh;
Ông Nguyễn Văn Tài.
- Thư phiên tòa: Nguyễn ThHồng Xuân - Thư Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên
tòa: Bà Trần Thị Ngọc Tuyền – Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 509/2024/TLPT-DS ngày 29
tháng 10 năm 2024 về việc Tranh chấp yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền phát
sinh hợp đồng dân sự”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 129/2024/DS-ST ngày 21 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 446/2024/QĐ-PT ngày
06 tháng 11 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 521/2024/QĐ-
PT ngày 21 tháng 11 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số
547/2024/QĐ-PT ngày 21 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:Vương Thị Đ, sinh năm 1958; địa chỉ: số C, khu phố B,
phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Văn Quang T, sinh năm
1988; địa chỉ: ấp A, xã X, huyện C, tỉnh Đồng Nai; địa chỉ liên hệ: Văn phòng L,
số D, Đại lộ B, khu A, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương, người đại
diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 22/3/2024), có mặt.
- Bị đơn: Công ty TNHH P (viết tắt Công ty P); địa chỉ: số D, đường C, tổ
C, khu phố E, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
2
Người đại diện theo pháp luật: Nguyễn Thị Thu T1 - Chức vụ: Giám
đốc.
Người đại diện hợp pháp của bà Nguyễn Thị Thu T1: Ông Đoàn Văn A,
sinh năm 1998; địa chỉ: ấp Đ, Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương; địa chỉ liên hệ:
số I, đường H, khu phố C, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương, người
đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 11/12/2024), có mặt.
- Người kháng cáo: bị đơn Công ty TNHH P.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Nguyên đơn Vương Thị Đ người đại diện hợp pháp của nguyên
đơn bà Đ là ông Văn Quang T thống nhất trình bày:
Khoảng đầu tháng 9/2019, Đ T1 (người đại diện của Công ty P)
thỏa thuận cùng hợp tác mở đại bán nhớt cho Công ty P thành phố T,
tỉnh Bình Dương. Thỏa thuận trên chỉ bằng lời nói, không văn bản, còn loại
nhớt dự định hợp tác bán, bà T1 nói sẽ dẫn bà Đ đến công ty N để giới thiệu cho
Đ biết. Theo nội dung thỏa thuận thì bà Đng ty P mỗi bên hùn vốn với số
tiền 750.000.000 đồng để mở đại bán nhớt, T1 yêu cầu Đ chuyển trước
số tiền 250.000.000 đồng, tương ứng 30% tiền nhớt để bà T1 làm các thủ tục mở
đại lý.
Sau đó, (bà Đ không nhớ ngày của tháng 10/2019), T1 dẫn Đ
02 con của Đ qua công ty sản xuất nhớt thành phố D, thuộc nước Các Tiểu
Vương Quốc Rập Thống Nhất để tham quan hình sản xuất nhớt của công
ty này (công ty tên gì bà Đ không nhớ). Khi tham quan công ty nhớt trên, bà T1
trao đổi với giám đốc công ty nhớt đó như thế nào thì bà Đ không biết.
Khoảng đầu tháng 11/2019, T1 thông báo cho Đ biết không mở
được đại lý, cũng không nói do. Nghe vậy, Đ i với T1 trả lại số tiền
250.000.000 đồng đã chuyển cho Công ty P ngày 27/9/2019. T1 cho biết
T1 không tiền trả lại nói với Đ chờ Công ty P giới thiệu khách mua
nhớt của công ty nhớt D rồi trích phần trăm hoa hồng của công ty trả cho
Đ. Đ nghe vậy đồng ý. Tuy nhiên, sau đó Đ nhiều lần liên hệ với T1
yêu cầu trả tiền nhưng bà T1 cứ hẹn và đổ thừa do bị dịch bệnh C - 19 không
nhập hàng được nên không có tiền để trả.
vậy, bà Đ khởi kiện yêu cầu ng ty P trả lại cho bà Đ số tiền
250.000.000 đồng lãi suất tính từ ngày 29/9/2019 đến ngày Tòa án xét xử vụ
án với mức lãi suất 10%/năm, lãi suất tạm tính là 75.000.000 đồng. Tổng cộng là
325.000.000 đồng.
- Bị đơn Công ty TNHH P trình bày:
Khoảng tháng 9/2019, Đ Công ty P thỏa thuận bằng lời nói với
nhau về việc hùn hạp mở đại phân phối nhớt tại thành phố T, tỉnh Bình
Dương. Số tiền mỗi bên hùn 3.000.000.000 đồng để mua nhớt tại nhà máy D
về Việt Nam kinh doanh, khi kinh doanh thì lợi nhuận chia theo tỷ lệ bà Đ 51%,
3
Công ty P 49%. Đ chịu trách nhiệm làm thủ tục mở đại lý. Tuy nhiên, Đ
không thực hiện thủ tục mở đại lý như thỏa thuận. Sau đó, bà Đ có yêu cầu Công
ty P đặt hàng một nhớt tại Dubai, giá trị lô hàng 750.000.000 đồng; ngày
27/9/2019, Đ nộp số tiền 250.000.000 đồng vào tài khoản của Công ty P,
nội dung nộp tiền ghi “tạm ứng 30% tiền nhớt”. Sau khi bà Đ chuyển tiền, Công
ty P đã đặt hàng qua email chuyển toàn bộ số tiền đã nhận của Đ đđặt
cọc cho công ty nhớt tại D.
Ngày 20/11/2019, hàng nhớt container đã về cảng C, Thành phố Hồ
Chí Minh nhưng bà Đ từ chối nhận hàng. Công ty P thông báo cho bà Đ biết nếu
Đ từ chối nhận hàng thì sẽ mất 30% tiền cọc đơn hàng, tức mất số tiền
250.000.000 đồng thì bà Đ không có ý kiến.
Ngày 24/12/2019, Đ điện thoại mượn T1 số tiền 100.000.000 đồng
để trả tiền điện. Sau đó, bà Đ không trả bà T1 số tiền này mà yêu cầu cấn trừ qua
tiền cọc của hàng nhớt, T1 chấp nhận. Khoảng đầu năm 2021, Đ muốn
đòi Công ty P trả lại số tiền 250.000.000 đồng tiền của hàng nhớt, mối
quan hệ thân quen với Đ nên T1 nói với Đ là sẽ yêu cầu nhà máy trích
phần trăm tiền nhớt của mỗi hàng Công ty P nhập về để công ty trả cho Đ
hết số tiền 150.000.000 đồng. Mỗi một hàng nhớt nhập về thì Công ty P sẽ
được nhà máy nhớt tại Dubai trích % tiền nhớt 50.000.000 đồng. Công ty P
chỉ cần trích cho Đ % tiền nhớt của 03 hàng thể trả được tiền cho
Đ. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của tình hình hình dịch bệnh C - 19 nên Công ty P
chưa nhập lô nhớt nào về Việt Nam nên chưa thể thanh toán cho bà Đ.
Ngày 01/10/2021, T1 chuyển khoản cho Đ số tiền 5.000.000
đồng. Ngoài ra, trong khoảng thời gian gần Tết Nguyên đán năm 2022, bà T1
đưa Đ số tiền 3.000.000 đồng để Đ đi chợ Tết. Tổng số tiền Đ đã nhận
của T1 108.000.000 đồng nếu khấu trừ số tiền này vào số tiền 250.000.000
đồng bà Đ đã chuyển khoản cho Công ty P thì Công ty P chỉ còn trả bà Đ số tiền
142.000.000 đồng.
Đối với yêu cầu khởi kiện của Đ, Công ty P chỉ đồng ý trả lại cho bà Đ
số tiền 125.000.000 đồng (bút lục 78).
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 59/2022/DS-ST ngày 13 tháng 7 năm 2022
của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương đã xét xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Vương Thị Đ
đối với bị đơn Công ty TNHH P.
Buộc Công ty TNHH P nghĩa vụ trả cho Vương Thị Đ số tiền
319.722.222 đồng (ba trăm mười chín triệu bảy trăm hai mươi hai nghìn hai
trăm hai mươi hai đồng); trong đó gồm số tiền 250.000.000 đồng Công ty
TNHH P đã nhận của Vương Thị Đ số tiền 69.722.222 đồng (sáu mươi
chín triệu bảy trăm hai mươi hai nghìn hai trăm hai mươi hai đồng) tiền lãi.
Sau khi bản án dân sự thẩm trên hiệu lực thi hành, người đại diện
hợp pháp của bị đơn Nguyễn Thị Thu T1 khiếu nại bản án sơ thẩm trên theo
thủ tục giám đốc thẩm tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
4
Tại Quyết định Giám đốc thẩm số 258/2023/DS-GĐT ngày 15 tháng 11
năm 2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết
định:
Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 59/2022/DS-ST ngày 13 tháng 7 năm 2022
của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương, giao hồ sơ cho Tòa án nhân
dân thành phố T, tỉnh Bình Dương xét xử lại.
- Quá trình Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương thụ lý, giải
quyết lại vụ án, nguyên đơn bà Vương Thị Đ trình bày ý kiến và thay đổi yêu cầu
khởi kiện như sau:
Đ thừa nhận ngày 24/12/2019, Đ mượn T1 số tiền
100.000.000 đồng để trả tiền điện. Sau đó, bà Đ không trả mà nói cấn trừ vào số
tiền đặt cọc mua nhớt thì được T1 chấp nhận. Số tiền 150.000.000 đồng còn
lại Đ liên tục nhắn tin Zalo cho T1 hối thúc yêu cầu trả nhưng T1
không trả.
Đ thừa nhận tin nhắn Zalo do T1 giao nộp tên “Y Đẹp” số
điện thoại của Đ trao đổi tin nhắn Zalo với T1. Tại tin nhắn zalo ngày
31/10/2021, bà T1 có chụp lại màn hình tin Z trước đó trao đổi với bà Đ (bút lục
38), có nội dung: bà T1 xác nhận đúng ngày 29/9/2021 còn lại bao nhiêu tiền gửi
lại cho Đ. Đ nhắn lại tin Z cho T1, nội dung: Thôi con xác nhận 29/9
con trả y 150 triệu là được rồi”.
Tuy nhiên, ngày 30/9/2021, bà T1 chỉ trả cho bà Đ được số tiền 5.000.000
đồng. Sau đó, bà Đ nhắn tin đòi nợ nhưng bà T1 không trả nên ngày 06/10/2021,
Đ nhắn tin cho T1 nội dụng: Dứt khoát ngày mai 07/10/2021 con trả
lại y 145 triệu không nói nhiều nữa”. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, T1
là người đại diện hợp pháp của Công ty P vẫn chưa trả số tiền 145.000.000 đồng
còn lại cho bà Đ.
Do đó, bà Đ thay đổi yêu cầu khởi kiện buộc ng ty TNHH P trả cho bà
Đ số tiền 145.000.000 đồng; về tiền lãi, bà Đ yêu cầu Công ty TNHH P trả lãi kể
từ ngày 07/10/2021 cho đến ngày Tòa án xét xử thẩm, với mức lãi suất
10%/năm.
- Quá trình Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương thụ lý, giải
quyết lại vụ án, người đại diện hợp pháp của bđơn Nguyễn Thị Thu T1
trình bày:
T1 không đến hoặc đến nhưng không đúng ngày, gimà Tòa án thông
báo làm việc; không giao nộp văn bản trình bày ý kiến; không tham gia phiên
họp về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; bị đơn giao nộp
cho Tòa án: Hóa đơn chiếu lệ số 190929-01 lập ngày 29/9/2019 của Ngân hàng
A1.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
- Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn Đ ông Văn Quang T vẫn
giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về số tiền nợ gốc 145.000.000 đồng; về tiền lãi,
5
người đại diện hợp pháp của nguyên đơn yêu cầu Công ty P trả số tiền lãi từ
ngày 07/10/2021 đến ngày 21/8/2024 là 40.919.000 đồng, với mức lãi suất
10%/năm; tiền lãi sau ngày 21/8/2024 trở đi, người đại diện hợp pháp của
nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả theo quy định pháp luật.
- Người đại diện hợp pháp của bị đơn Công ty P là bà Nguyễn Thị Thu T1
trình bày: Đ Công ty P không thỏa thuận hợp tác mở đại để kinh
doanh nhớt. Đ biết Công ty P kinh doanh mặt hàng nhớt của ng ty nhớt
D nên nhờ Công ty P đặt mua giùm nhớt đbán lại cho bạn của bà Đ. Tuy
nhiên, sau khi Công ty P đặt hàng mua nhớt xong, khoảng tháng 11/2019,
hàng nhớt container đã về cảng C, Thành phố Hồ Chí Minh, T1 thông báo
cho Đ biết đnhận nhớt thì bà Đ không nhận. vậy, Công ty P văn bản
tchối nhận hàng, trả lại cho công ty nhớt D. Lỗi này của Đ nên Đ phải
chịu mất tiền cọc nên bà T1 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Đ.
T1 giao nộp thêm cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ sau: Thư từ chối
nhận hàng của Công ty P không ghi ngày tháng năm; Vận đơn số 300900055544
ngày phát hành 17/10/2019, địa điểm Dubai; Thông báo giao dịch truyền tin,
nội dung Công ty P yêu cầu Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á chuyển tiền
thanh toán trước 30% nhớt cho công ty nhớt nước Các Tiểu Vương Quốc
Rập Thống Nhất ngày 30/9/2019; Văn bản chứng nhận ngày 14/8/2024 của
Công ty M về việc hủy đơn hàng (nhớt) theo Hóa đơn số 190929-01 ngày
29/9/2019, công ty đã lấy lại container hàng hóa khách hàng đã hủy, không hoàn
lại khoản tiền tạm ứng; Hợp đồng đại lý độc quyền ngày 04/7/2019 giữa Công ty
M Công ty P; thư gửi ngày 18/5/2023 của Công ty M về việc xác nhận đại lý
độc quyền nhãn hiệu nhớt Makinalube” của Công ty P và 13 tờ giấy A4
chứa nội dung tin nhắn bằng mạng xã hội Zalo.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 129/2024/DS-ST ngày 21 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Vương Thị Đ
đối với bị đơn Công ty TNHH P về việc “Tranh chấp yêu cầu thực hiện nghĩa vụ
trả tiền phát sinh hợp đồng dân sự”.
Buộc Công ty TNHH P nghĩa vụ trả cho Vương Thị Đ tổng số tiền
nợ 185.919.000 đồng (một trăm tám mươi lăm triệu chín trăm mười chín nghìn
đồng), trong đó: tiền nợ gốc 145.000.000 đồng (một trăm bốn mươi lăm triệu
đồng) tiền lãi tính từ ngày 07/10/2021 đến ngày 21/8/2024 là 40.919.000
đồng (bốn mươi triệu chín trăm mười chín nghìn đồng) theo Giấy nộp tiền ngày
27/9/2019 của Đ cho Công ty TNHH P xác nhận của Ngân hàng Thương
mại Cổ phần Á.
Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí, nghĩa vụ chậm trả quyền
kháng cáo.
Sau khi xét xử thẩm, ngày 04/9/2024, bị đơn Công ty TNHH P đơn
kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
6
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của bị đơn Công ty
TNHH P ông Đoàn Văn A vẫn giữ yêu cầu kháng cáo. Người đại diện hợp
pháp của nguyên đơn vẫn giữ yêu cầu khởi kiện. Các đương sự không tự thỏa
thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
Trong phần tranh luận, người đại diện hợp pháp của bị đơn Công ty
TNHH P ông Đoàn Văn A đề nghị hủy bản án sơ thẩm Tòa án cấp sơ thẩm
có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, đưa thiếu người tham gia tố tụng chính
Nguyễn Thị Phương T2 chưa xem xét, thu thập chứng cứ như định tại
Quyết định Giám đốc thẩm số 258/2023/DS-GĐT ngày 15 tháng 11 năm 2023
của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã nêu.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng tham gia tố tụng đã thực
hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
- Về nội dung: Bị đơn kháng cáo cho rằng Tòa thẩm giải quyết không
khách quan nhưng chỉ là lời trình bày, quá trình tố tụng tại cấp phúc thẩm bị đơn
không cung cấp bất kỳ chứng cứ nào khác để chứng minh cho yêu cầu kháng
cáo của mình. Do đó, đnghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của
bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của các
đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Quá trình tố tụng sơ thẩm lần thứ nhất, bà Vương Thị Đ và bà Nguyễn
Thị Thu T1 (người đại diện theo pháp luật của Công ty P) trình bày thống nhất,
số tiền Đ chuyển vào tài khoản của Công ty P ngày 27/9/2019 là xuất phát từ
thỏa thuận bằng lời nói của Đ T1 về việc Đ sẽ hùn vốn cùng T1
để Công ty P mđại phân phối, kinh doanh mua bán nhớt tại thành phố T,
tỉnh Bình Dương cho Đ. Ngày 27/9/2019, Đ chuyển vào tài khoản của
Công ty P số tiền 250.000.000 đồng ghi nội dung “tạm ứng 30% tiền nhớt”.
[2] Sau khi vụ án bị hủy, giao về cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ
án, người đại diện hợp pháp của Công ty P cho rằng giữa Công ty P với Đ
không có thỏa thuận hợp tác mở đại để kinh doanh nhớt. Đ nhờ Công ty P
đặt mua nhớt giùm Đ của công ty N thành phố D thuộc nước Các T Rập
Thống Nhất để bán lại cho bạn bà Đ; khi, T1 trình bày Đ đặt cọc
mua nhớt của Công ty P Đ biết Công ty P kinh doanh mặt hàng này
theo đơn kháng cáo người đại diện hợp pháp của công ty cho rằng đó số tiền
Đ đặt cọc để đảm bảo việc cho việc mua bán hàng hóa với Công ty P.
[3] Người đại diện hợp pháp của Công ty P cho rằng số tiền trên là số tiền
Đ đặt cọc để đảm bảo việc cho việc mua bán hàng hóa với Công ty P, các
chứng cứ do T1 cung cấp tại Tòa án cấp thẩm T3 từ chối nhận hàng của
Công ty P không ghi ngày tháng năm; Thông báo giao dịch truyền tin nội
7
dung Công ty P yêu cầu Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á chuyển tiền thanh
toán trước 30% nhớt cho công ty nhớt nước Các Tiểu Vương Quốc Rập
Thống Nhất ngày 30/9/2019; Vận đơn số 300900055544 ngày phát hành
17/10/2019, địa điểm Dubai; Văn bản chứng nhận ngày 14/8/2024 của Công ty
M về việc hủy đơn hàng (nhớt) theo Hóa đơn số 190929-01 ngày 29/9/2019,
công ty đã lấy lại container hàng hóa khách hàng đã hủy, không hoàn lại khoản
tiền tạm ứng các tin nhắn Zalo giữa T1 Đ, giữa T1 NGA
CHIA, CHI CO để chứng minh Đ vi phạm đặt cọc mua nhớt nên bị mất tiền
cọc. Xét, các chứng cứ nêu trên, không bất k chứng cứ nào chứng minh
Đ thỏa thuận nhờ Công ty P đặt cọc mua giùm nhớt của Công ty M và Đ
không đồng ý nhận hàng. Do đó, Tòa án cấp thẩm không chấp nhận lời trình
bày trên của bị đơn xác định giữa Đ với Công ty P thỏa thuận, trao đổi
bằng lời nói với nhau về việc hợp tác mở đại phân phối, kinh doanh mua bán
nhớt nên ngày 27/9/2019, bà Đ chuyển vào tài khoản của Công ty P số tiền
250.000.000 đồng với nội dung “tạm ứng 30% tiền nhớt” là có căn cứ.
[4] Công ty P do Nguyễn Thị Thu T1 làm người đại diện cho rằng, sau
khi thực hiện thỏa thuận hùn vốn kinh doanh mua bán nhớt không thành, T1
Đ đồng ý cấn trừ số tiền 100.000.000 đồng tiền Đ mượn của T1
(ngày 24/12/2019) vào số tiền đặt hàng mua nhớt 250.000.000 đồng; còn lại
số tiền 150.000.000 đồng T1 sẽ yêu cầu Công ty P trích phần trăm tiền nhớt
của mỗi lô hàng Công ty P nhập về nhưng do chưa nhập được hàng về Việt Nam
nên chưa thể thanh toán được cho Đ. Ngày 01/10/2021, bà T1 chuyển tiếp
cho bà Đ số tiền 5.000.000 đồng dịp Tết Nguyên đán năm 2022, T1 trả
tiếp cho Đ số tiền 3.000.000 đồng. Tổng cộng, bà T1 người đại diện cho
Công ty P đã trả cho Đ số tiền là 108.000.000 đồng. Quá trình giải quyết
thẩm lần thứ nhất, Công ty P chỉ đồng ý trả cho bà Đ thêm 125.000.000 đồng,
điều này chứng minh T1 với tư cách người đại diện theo pháp luật của
Công ty P đã trình bày ý kiến số tiền đã chuyển cấn trừ vào số tiền
250.000.000 đồng đã nhận từ bà Đ nên lời trình bày của người đại diện hợp pháp
của Công ty P cho rằng phải đưa cá nhân bà T1 vào tham gia tố tụng với tư cách
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không cần thiết.
[5] Ngoài ra, tại tin nhắn ngày 27/10/2021 giữa Đ T1 thì Đ
xác nhận T1 chỉ còn nợ Đ số tiền 145.000.000 đồng. Như vậy, căn cứ
chứng minh Đ với Công ty P đã thỏa thuận được việc trả lại số tiền tạm ứng
tiền nhớt thực tế đã trả cho Đ được số tiền 105.000.000 đồng, còn lại số
tiền 145.000.000 đồng Công ty P chưa trả cho Đ. Đối với số tiền 3.000.000
đồng, Công ty P cho rằng đã đưa cho Đ đi chợ T4 năm 2022, không được
Đ thừa nhận, Công ty P cũng không giấy tờ, tài liệu chứng minh nên Tòa án
cấp sơ thẩm chấp nhận có việc thanh toán số tiền 3.000.000 đồng là có căn cứ.
[6] Đối với yêu cầu trả lãi: Thỏa thuận giữa các bên thỏa thuận hợp tác
không phải thỏa thuận vay tiền. Trong quá trình thực hiện thỏa thuận hợp tác do
không đạt được mục đích trong việc mở đại lý phân phối nhớt nên bà Đ rút phần
vốn đã tạm ứng là số tiền 250.000.000 đồng đã chuyển cho Công ty P được
Công ty P đồng ý thể hiện bằng việc T1 đã thanh toán hoàn trả lại cho Đ
8
số tiền 105.000.000 đồng, còn lại số tiền 145.000.000 đồng ng ty P chưa
thanh toán cho Đ. Căn cứ vào các tin nhắn do bị đơn giao nộp cho Tòa án
trong quá trình giải quyết vụ án và được nguyên đơn thừa nhận thể hiện bà Đ đã
nhắn tin nhiều lần yêu cầu T1 thanh toán số tiền 145.000.000 đồng còn lại.
Tại tin nhắn Zalo ngày 06/10/2021, Đ nhắn tin cho T1 với nội dung “Dứt
khoát ngày mai 07/10/2021, con trả lại y 145 triệu không nói nhiều”; ngày
07/10/2021, Đ tiếp tục nhắn tin T1 hôm nay chuyển tiền trả cho y nha”.
Người đại diện hợp pháp của bđơn cho rằng chỉ trả số tiền 150.000.000 đồng
khi bị đơn nhập được 03 hàng từ nước ngoài về Việt Nam nhưng Đ không
đồng ý thực tế bị đơn chuyển khoản stiền 5.000.000 đồng cho Đ.
Đồng thời, quá trình ttụng tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị đơn
thừa nhận có nhận được tin nhắn yêu cầu trả số tiền 145.000.000 đồng vào ngày
06/10/2021, ngày 07/10/2021 của Đ nhưng do các bên phát sinh tranh chấp
nên Công ty P không đồng ý thanh toán số tiền 145.000.000 đồng n lại cho
Đ từ ngày 07/10/2021 cho đến nay, Công ty P không thanh toán thêm cho
Đ bất k số tiền nào. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định Công ty P đã vi phạm
nghĩa vụ thanh toán với số tiền 145.000.000 đồng từ ngày 07/10/2021 áp
dụng mức lãi chậm trả 0,83%/tháng là phù hợp theo quy định tại Điều 280, Điều
357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
[7] T những phân tích trên, xét thấy kháng cáo của bị đơn Công ty
TNHH P là không có căn cứ chấp nhận.
[8] Đề nghị của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tại
phiên tòa là phù hợp.
[9] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do giữ nguyên bản án sơ thẩm nên người
kháng cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ Điều 148; khoản 1 Điều 308, Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH P.
2. Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm s 129/2024/DS-ST ngày 21 tháng
8 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn Công ty TNHH P phải chịu số tiền
300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí phúc thẩm, được khấu trừ vào tạm
ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003145
ngày 07 tháng 10 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh
Bình Dương (do bà Nguyễn Thị Thu T1 nộp thay).
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
9
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành ph T;
- TAND thành ph T;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Đinh Thị Mộng Tuyết
Tải về
Bản án số 614/2024/DS-PT Bản án số 614/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 614/2024/DS-PT Bản án số 614/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất