Bản án số 25/2021/DS-PT ngày 21/01/2025 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 25/2021/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 25/2021/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 25/2021/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 25/2021/DS-PT ngày 21/01/2025 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Cần Thơ |
Số hiệu: | 25/2021/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 21/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Nguyễn Phước T - Trần Ngọc T1 - Tranh chấp HĐCN QSDĐ |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ CẦN THƠ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 25/2025/DS-PT
Ngày: 21.01.2025
V/v “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
- Thành phần hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa: Bà Hà Thị Phương Thanh
Các Thẩm phán: Ông Phạm Văn Bình
Ông Nguyễn Văn Hải
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Trí Khương – Thẩm tra viên Tòa án
nhân dân thành phố Cần Thơ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ tham gia phiên
tòa: Ông Trần Thanh Vũ - Kiểm sát viên.
Vào ngày 21 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố
Cần Thơ xét xử công khai vụ án thụ lý số 465/2024/TLPT-DS ngày 09 tháng 12
năm 2024 về “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 128/2024/DS-ST ngày 29 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Thới Lai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 556/2024/QĐPT-DS
ngày 19 tháng 12 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Nguyễn Phước T, sinh năm 1978. (có mặt)
2. Bà Trần Thị Tuyết D, sinh năm 1982. (vắng mặt)
Cùng địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, thành phố Cần Thơ.
Người đại diện hợp pháp cho nguyên đơn: Ông Lê Huỳnh Đ (Văn bản ủy
quyền ngày 12/8/2024). (có đơn xin vắng mặt)
Địa chỉ liên hệ: Số F, đường số A, TTHC D, Khu phố N, phường D, thành
phố D, tỉnh Bình Dương.
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông T: Luật sư Nguyễn Ngọc
Đ1 – Công ty L1 – Chi nhánh B1. (có mặt)
- Bị đơn: Ông Trần Ngọc T1, sinh năm 1968.
Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt)
Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Trường S (Văn bản uỷ quyền ngày
26/12/2024). (có mặt)
Địa chỉ liên hệ: Số E, đường H, phường T, quận N, thành phố Cần Thơ.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị P, sinh năm
1969.
Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt)
Người đại diện hợp pháp cho bà P: Ông Nguyễn Trường S (Văn bản uỷ
quyền ngày 26/12/2024). (có mặt)
- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Phước T và bà Trần Thị Tuyết D là
nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Nguyên đơn ông T, bà D trình bày nội dung và yêu cầu khởi kiện như
sau:
Vào năm 2008, ông T có nhận tặng cho của cha ruột là ông Nguyễn Hiền
L phần đất có diện tích 7.500m
2
, thuộc thửa 247, tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại ấp T,
xã T, huyện T, thành phố Cần Thơ. Mặc dù, được nhận tặng cho vào năm 2008
nhưng ông T đã sử dụng trước đó nên vào khoảng năm 2002 ông T có chuyển
chượng cho ông Trần Ngọc T1 diện tích đất 650m
2
, giá chuyển nhượng không
còn nhớ là bao nhiêu, nhưng ông đã nhận vàng xong và có lập hợp đồng chuyển
nhượng bằng giấy tay nhưng ông T không còn giữ. Việc chuyển nhượng này chỉ
làm giấy tờ mua bán, không có cắm ranh hay chỉ vị trí cụ thể nằm ở đâu nhưng
được hiểu là bán phần giáp với đất của ông T1 đã nhận trước đó (đã tách giấy
sang tên). Ngoài ra, vào khoảng năm 1994 mẹ ông T là bà Cao Thị H tự ý
chuyển nhượng cho ông T1 phần đất khoảng 02 công tầm 03m, nhưng thời điểm
này cha ông T là người đang đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nhưng bà H đứng ra bán là không hợp pháp. Vì vậy, ông L đã nhiều lần đến
phần đất ông T1 nhận chuyển nhượng để đòi lại và ông T đi theo để đòi lại đất
nhưng ông T1 không trả và hai bên xảy ra tranh chấp. Vụ việc được hòa giải ở
ấp vào khoảng năm 1996 - 1997 nhưng không thành và ông T cũng không còn
nhớ ai là người hoà giải. Kể từ đó ông L cũng bỏ mặc không khởi kiện để đòi lại
và ông T đi làm nên cũng không kiện để đòi lại đất.
Đến năm 2023 trong thời gian đang chấp hành án, thì Ban quản lý dự án
có đến trại giam để làm việc với ông T, nhưng người của Bản quản lý dự án chỉ
nói làm việc về việc bàn giao mặt bằng làm cao tốc thì ông T mới biết đất của
ông bị ảnh hưởng bởi dự án được cao tốc. Nội dung làm việc ông T không trình
3
bày về việc ranh đất đã chuyển nhượng cho ông T1, ông T không đọc biên bản
mà chỉ ký và ghi họ tên. Ngoài ra, Biên bản làm việc tại Ban quản lý dự án ngày
19/9/2023 và Biên bản làm việc tại đất ruộng ngày 21/9/2023 ông T có ký tên
vào biên bản, nhưng ông T không thống nhất với nội dung biên bản, ông không
trình bày ý kiến về việc thống nhất tổng diện tích chuyển nhượng cho ông T1 là
5.740m
2
. Vì vậy, ông T và bà D (vợ ông T) yêu cầu Tòa án buộc ông T1 phải trả
lại phần đất đang sử dụng theo Bản trích đo địa chính được ký hiệu (B) có diện
tích 2.558,2m
2
. Ông T, bà D đồng ý tách nửa công đất đã chuyển nhượng cho
ông T1 có diện tích 650m
2
được ký hiệu (A) và (D) trong Bản trích đo địa chính.
* Trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn ông T1 có ý kiến và
phản tố như sau:
Vào ngày 21/3/1994, ông có nhận chuyển nhượng của bà Cao Thị H (mẹ
ông T) 02 công tầm 03m với giá 04 chỉ vàng 24k. Tại thời điểm bà H chuyển
nhượng, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông Nguyễn Hiền L là chồng bà
H đứng tên sử dụng nhưng ông L không phản đối hay tranh chấp. Việc chuyển
nhượng có làm hợp đồng chuyển nhượng bằng giấy tay và T2 ấp xác nhận. Sau
khi nhận chuyển nhượng thì ông và bà P (vợ của ông T1) đã quản lý sử dụng ổn
định phần đất này từ năm 1994 cho đến nay.
Đến ngày 21/3/2002, ông tiếp tục nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn
Phước T 0,5 công tầm 03m với diện tích khoảng 650m
2
, giá chuyển nhượng 4,5
chỉ vàng 24k, có lập hợp đồng bằng giấy tay và ông T đã nhận đủ vàng. Lần
chuyển nhượng này ông T chỉ ký tên trên Tờ sang đất và nhận đủ số vàng,
nhưng ông T không chỉ vị trí đất chuyển nhượng và cũng không cắm ranh
chuyển nhượng. Tuy nhiên, việc ông có ranh để sử dụng cho đến nay là do anh
của ông T là ông Trần Văn C (anh một mẹ khác cha với ông T, hiện nay không
rõ ở đâu) đã cắm ranh cho ông T. Phần đất được cắm ranh là toàn bộ phần đất
ông nhận chuyển nhượng từ bà H vào năm 1994 chưa sang tên và phần nhận
chuyển nhượng của ông T vào năm 2002. Vì vậy, ông và bà P không đồng ý với
yêu cầu khởi kiện của ông T, đồng thời ông yêu cầu Tòa án công nhận phần đất
ông nhận chuyển nhượng của bà H và ông T với tổng diện tích là 3.238,2m
2
được ký hiệu (A), (B), (D) trong Bản trích đo địa chính.
* Vụ việc hòa giải không thành nên được đưa ra xét xử công khai. Tại
Bản án dân sự sơ thẩm số 128/2024/DS-ST ngày 28 tháng 9 năm 2024 của Tòa
án nhân dân huyện Thới Lai xét xử và quyết định như sau:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu
Toà án buộc bị đơn phải trả lại phần đất có diện tích 2.558,2m
2
được ký hiệu (B)
trong Bản trích đo địa chính số 131/VPĐKĐĐ ngày 29/5/2024 của Văn phòng
Đăng ký đất đai.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
2.1.Công nhận hiệu lực của Giấy sang đất ngày 21/3/1994 giữa ông Trần
Ngọc T1 với bà Cao Thị H và Tờ nhượng đất ngày 03/3/2002 giữa ông Trần
Ngọc T1 với ông Nguyễn Phước T. Ông Trần Ngọc T1 có quyền đăng ký quyền
4
sử dụng đất có diện tích 3.238,2m
2
được ký hiệu (A), (B), (D) trong Bản trích đo
địa chính số 131/VPĐKĐĐ ngày 29/5/2024 của Văn phòng Đăng ký đất đai.
2.2.Kiến nghị UBND huyện T thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất có số vào sổ H01265, thửa đất số 247, tờ bản đồ số 07, thửa đất toạ lạc tại ấp
T, xã T, huyện T, thành phố Cần Thơ do UBND huyện C (cũ) cấp cho ông
Nguyễn Phước T ngày 30/5/2008. Để cấp lại quyền sử dụng đất được công nhận
cho ông Trần Ngọc T1, đồng thời chỉnh lý lại quyền sử dụng đất còn lại của thửa
247 cho ông Nguyễn Phước T.
3. Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí dân sự, chi phí thẩm định và quyền
kháng cáo của các đương sự.
* Ngày 30 tháng 8 năm 2024, nguyên đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và không chấp
nhận phản tố của bị đơn.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và kháng cáo
- Đại diện bị đơn không đồng ý yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn và đề
nghị giữ nguyên án sơ thẩm.
- Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn phát biểu
quan điểm:
Giấy sang đất giữa bà H và ông T1 nhìn kỹ có hai màu mực khác nhau,
thực tế không có ký giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, vì bà H không
biết chữ. Hơn nữa năm xác nhận trong Giấy sang đất có dấu hiệu bị tẩy xoá và
màu mực mới trong năm, năm xác nhận nhìn mới hơn nội dung sang bán.
Trường hợp nếu bà H có ký giấy sang đất cho ông T1 thì cũng không hợp pháp
vì phần đất này không thuộc quyền sử dụng của bà H, đó là tài sản riêng của ông
L, giữa bà H và ông L không có mối quan hệ vợ chồng nên trong Sổ hộ khẩu
của ông L không có tên bà H mà chỉ có tên của những người con. Việc bị đơn
đang sử dụng phần đất tranh chấp là lấn chiếm của nguyên đơn, do nguyên đơn
đi làm xa nên không quản lý được phần đất này. Đối với giấy xác nhận năm
2023 mà bị đơn cung cấp chỉ xác nhận bị đơn có sử dụng phần đất tranh chấp,
không có giá trị chứng minh có việc chuyển nhượng, bà H và ông T không phải
là người có quyền sử dụng đất. Trường hợp này cấp sơ thẩm áp dụng án lệ là
không đúng tình tiết sự kiện như án lệ. Vì vây, đề nghị Hội đồng xét xử chấp
nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn và bác yêu cầu phản tố của bị đơn.
* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu tại phiên tòa phúc thẩm:
- Về tố tụng: Người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực
hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
- Về nội dung: Qua tranh tụng tại phiên tòa cùng với các chứng cứ có
trong hồ sơ, có cơ sở xác định bị đơn nhận chuyển nhượng từ nguyên đơn và bà
H phần đất hơn 3000m
2
và canh tác từ khi nhận chuyển nhượng đến nay nên
5
công nhận cho bị đơn là có cơ sở. Án sơ thẩm xét xử là đúng và đề nghị giữ
nguyên án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Đại diện hợp pháp cho nguyên đơn bà D có yêu cầu xét xử
vắng mặt, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng có
người đại diện nên tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định Điều
228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn, qua kết quả tranh tụng tại phiên tòa
cũng như đối chiếu với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định:
[2.1] Phần đất các đương sự tranh chấp thuộc một phần thửa đất 247 có
diện tích 7.500m
2
, thuộc tờ bản đồ bản đồ số 07, toạ lạc tại ấp T, xã T, huyện T,
thành phố Cần Thơ là của ông Nguyễn Hiền L được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất ngày 01/12/1991. Đến ngày 28/4/2008, ông Lương T3 lại cho con là
ông Nguyễn Phước T và ông T được cấp lại giấy đất mới vào ngày 19/05/2008.
[2.2] Phía nguyên đơn đề nghị bác yêu cầu phản tố của bị đơn, nhưng
quá trình giải quyết vụ việc tại cấp sơ thẩm và phiên tòa hôm nay phía nguyên
đơn thống nhất tách phần đất tại vị trí A và D trong bản trích đo số 131 của Văn
phòng đăng ký đất đai cho bị đơn, ý chí này phù hợp với lời khai của các bên và
chứng cứ mua bán giấy tay năm 2002. Do đó, có cơ sở công nhận phần đất cho
bị đơn tại vị trí A và D.
[2.3] Đối với phần đất tại vị trí B thì nguyên đơn không thống nhất,
không thừa nhận bà H (mẹ nguyên đơn ông T) có chuyển nhượng cho bị đơn,
nhưng qua tranh tụng tại phiên tòa có cơ sở xác định ngày 21/3/1994, bà Cao
Thị H là vợ ông L và cũng là mẹ ông T đã chuyển nhượng cho ông Trần Ngọc
T1 phần đất có diện tích 02 công tầm 03m với giá 04 chỉ vàng 24k và bà H đã
nhận đủ vàng, ông T1 đã nhận đất và quản lý sử dụng từ khi nhận chuyển
nhượng cho đến nay. Việc chuyển nhượng có lập thành văn bản, có chữ ký của
bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng, nhưng không có công chứng
và không có chữ ký của người đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là
ông Nguyễn Hiền L và tuy không có ông Lương K vào giấy bán đất nhưng ông
L không hề khiếu nại hay khởi kiện bị đơn đòi lại đất. Phía nguyên đơn cho rằng
có tranh chấp đòi lại nhưng không có chứng cứ chứng minh mặc nhiên ông L
chấp nhận việc bà H chuyển nhượng đất cho bị đơn, tình tiết này phù hợp với sự
kiện pháp lý của Án lệ số 04/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố: “bên
nhận chuyển nhượng nhà đất đã nhận và quản lý, sử dụng nhà đất đó công khai;
người không ký tên trong hợp đồng biết mà không có ý kiến phản đối gì” do đó,
có căn cứ công nhận việc bà H chuyển nhượng đất cho bị đơn ông T1.
[2.4] Nguyên đơn còn cho rằng giữa bà H và ông L không có mối quan
hệ vợ chồng nên không được ghi nhận trong sổ hộ khẩu của ông L là không
đúng bởi bà H mất năm 1995, nhưng sổ hộ khẩu mà nguyên đơn cung cấp được
Cơ quan có thẩm quyền cấp cho ông L vào ngày 15/9/1996. Do sổ hộ khẩu này
6
được cấp sau khi bà H mất nên bà H không được ghi nhận là thành viên trong hộ
ông L là phù hợp với thực tế. Mặt khác, sổ hộ khẩu này không có giá trị chứng
minh ông L và bà H không có mối quan hệ vợ chồng, việc công nhận là vợ
chồng là trên cơ sở giấy chứng chứng nhận kết hôn do cơ quan có thẩm quyền
cấp, ký xác nhận. Thực tế, bà H và ông Lương C1 sống với nhau từ trước năm
1987 cho dù không đăng ký kết hôn thì cũng được xem là hôn nhân thực tế.
[2.5] Nguyên đơn cho rằng không biết bà H chuyển nhượng đất cho bị
đơn nhưng tại biên bản đo đạc, xác định ranh đất vào ngày 21/9/2023 (bút lụt
124) và biên bản ngày 19/9/2023 (bút lụt 118) do Ban Q, nguyên đơn ông T thừa
nhận và thống nhất toàn bộ phần đất mà bị đơn ông T1 đã nhận chuyển nhượng
03 lần với tổng diện tích là 5.740m
2
(trong đó diện tích 2.500m
2
đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa 1183) còn lại hơn 3000m
2
chưa
tách giấy tại vị trí A, B, D là phù hợp với phần đất hiện nay bị đơn đang quản lý
sử dụng. Trong biên bản các bên chưa xác định ranh đất nhưng cuối biên bản
này nguyên đơn ông T cũng ghi lại ý kiến của ông là ông thống nhất nội dung
ông trình bày trên. Như vậy, nội dung biên bản trên đã thể hiện nguyên đơn ông
T biết mẹ ông đã chuyển nhượng phần đất tranh chấp này cho bị đơn. Điều đó
cho thấy phần đất ông T1 đang quản lý sử dụng có nguồn gốc từ việc chuyển
nhượng, không phải do tự ý lấn chiếm mà có để sử dụng. Nguyên đơn ông T lại
còn cho rằng có biên bản làm việc nhưng ông không đọc nội dung chỉ ký là
không đúng bởi bản thân ông biết chữ và ông ký thì phải chịu trách nhiệm cho
lời trình bày của mình, không có chứng cứ chứng minh bị ép buộc ký, mặt khác,
biên bản làm việc có rất nhiều người nên việc trình bày và ký biên bản cho lời
trình bày của ông T là đảm bảo khách quan.
[2.6] Nguyên đơn còn cho rằng khi cấp lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất có tiến hành đo đạc lại thửa đất và ký giáp ranh là không đúng. Qua
xem xét hồ sơ cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2008 chỉ đổi
từ tên người tặng cho sang tên ông Nguyễn Phước T, không có việc đo đạc lại
thửa đất. Hơn nữa trong giai đoạn hoà giải, nguyên đơn đều xác định bị đơn ông
T1 nhận chuyển nhượng đất từ bà H, sau đó khoảng năm 1996 – 1997 thì ông
Lương B và đòi đất lại nhưng không được nên đã bỏ mặc không đòi lại. Đồng
thời, phần đất này bị đơn ông T1 đã quản lý sử dụng từ trước khi nguyên đơn
được nhận tặng cho vào năm 2008. Mặc dù, ông T là người được tặng cho thửa
đất 247 vào năm 2008, nhưng thực tế phần đất còn lại sau khi bà H và nguyên
đơn chuyển nhượng cho bị đơn ông T1 thì đã không còn đủ diện tích 7.500m
2
như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp và ông T cũng đương nhiên biết
việc đó. Từ những phân tích trên có căn cứ công nhận việc chuyển nhượng đất
giữa bà H và bị đơn ông T1 năm 1994 và giữa nguyên đơn ông T với bị đơn ông
T1 vào năm 2002. Do đó, lời trình bày của Luật sư và kháng cáo của nguyên
đơn là không có căn cứ chấp nhận.
[3] Đối với việc thu hồi một phần đất đang tranh chấp để làm dự án cao
tốc thì cơ quan có thẩm quyền thực hiện theo quy định đối với phần đất các
đương sự được công nhận theo bản án.
7
[4] Với những nhận định trên nên đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại
phiên tòa phúc thẩm là phù hợp, đúng quy định. Cấp sơ thẩm đánh giá chứng cứ
và không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận phản tố của
bị đơn là đúng quy định pháp luật nên giữ nguyên.
[5] Về chi phí tố tụng: giữ nguyên như án sơ thẩm.
[6] Về án phí sơ thẩm và phúc thẩm:
[6.1] Án phí sơ thẩm: Giữ nguyên như án sơ thẩm
[6.2] Án phí phúc thẩm: Nguyên đơn kháng cáo không được chấp nhận
nên phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: - Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử: - Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn
Phước T và bà Trần Thị Tuyết D.
- Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 128/2024/DS-ST ngày
29/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Thới Lai.
- Về án phí phúc thẩm: Nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng,
nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0004434
ngày 08/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Lai.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b
và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Nơi nhận: THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Các đương sự;
- VKSND TPCT;
- TAND huyện Thới Lai;
- Chi cục THADS huyện Thới Lai; (Đã ký)
- Lưu hồ sơ vụ án.
Hà Thị Phƣơng Thanh
Tải về
Bản án số 25/2021/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 25/2021/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 12/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm