Bản án số 338/2024/DS-PT ngày 12/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 338/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 338/2024/DS-PT ngày 12/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 338/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 12/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: - Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH H6; - Không chấp nhận đơn kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Tô Thị Mỹ H1 và bà Đỗ Thị Minh T3; - Giữ nguyên quyết định của Bản án dân sự sơ thẩm số
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 338/2024/DS-PT
Ngày 12 - 12 - 2024
V/v: “Tranh chấp hợp đồng
mua bán tài sản”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Y Phi Kbuôr.
Các thẩm phán: Ông Văn Công Dần, ông Nguyễn Ngọc Sâm.
- Thư phiên toà: Nguyễn Thị Khánh Chi Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa:
Thị Bích Thủy - Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 279/2024/DS - PT ngày 15/10/2024 về
việc: “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”.
Do Bản án dân sự thẩm: 32/2024/DS-ST ngày 24/6/2024 của Tòa án nhân
huyện Ea H’leo, tỉnh Đăk Lăk theo thủ tục phúc thẩm.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xphúc thẩm số 288/2024/QĐ-PT ngày 30
tháng 10 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thùy T; địa chỉ: Tổ dân phố A, thị trấn E, huyện
E, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà T: Luật sư Đinh Xuân T1, thuộc
Văn phòng L1 Đoàn luật tỉnh Đ; địa chỉ: B A L, Phường T, thành phố B, Đắk
Lắk (có mặt).
2
- Bị đơn: ng ty TNHH H6.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Quang T2 Chức vụ: Giám đốc.
Cùng địa chỉ: Thôn B, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền: Hoàng Thị H; địa chỉ: A L, thành phố B, tỉnh
Đắk Lắk (có mặt).
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Tô Thị Mỹ H1; địa chỉ: Thôn B, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
Người đại diện theo ủy quyền: Lưu Thị Thu H2; địa chỉ: 383/63/27 N, thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
+ Bà Đinh Thị M; địa chỉ: Thôn B, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
+ Bà Hồ Thị Mỹ H3; địa chỉ: Thôn C, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
+ Ông Nguyễn Triệu V; địa chỉ: Thôn A, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk (có mặt);
Địa chỉ 2: Số nhà A T, phường H, thành phố T, thành phố Hồ Chí Minh;
+ Ông Hồ Xuân L, bà Đỗ Thị Minh T3; địa chỉ: Số B N, phường T, thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk (đều vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của T3: Lưu Thị Thu H2; địa chỉ:
383/63/27 N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
+ Ông Nguyễn Đình H4; địa chỉ: Tổ dân phố A, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk
Lắk (có mặt);
Địa chỉ 2: Thôn A, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk
- Người kháng cáo: Bị đơn Công ty TNHH H6; người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan Đỗ Thị Minh T3Tô Thị Mỹ H1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thùy T trình bày:
Tôi Nguyễn Thị Thùy T Công ty TNHH H6 (sau đây gọi tắt Công ty H6)
mua bán hàng hóa nông sản với nhau. Tôi người bán, còn Công ty H6 người
mua. Ngày 30/4/2021 tôi Công ty H6 chốt công nợ với nhau, theo đó Công ty
H6 còn nợ tôi tổng số tiền 1.791.478.000 đồng. Sau khi chốt nợ thì Công ty H6 đã
thanh toán cho tôi nhiều lần, cụ thể như sau:
3
Ngày 05/5/2021 trả 91.748.000 đồng;
Ngày 31/12/2021 trả 50.000.000 đồng;
Ngày 11/9/2022 trả 20.000.000 đồng;
Ngày 28/12/2023 trả 30.000.000 đồng;
Ngày 23/01/2024 trả 25.000.000 đồng;
Ngày 03/02/2024 trả 25.000.000 đồng;
Ngày 06/02/2024 trả 20.000.000 đồng.
Những lần trả nợ nêu trên đều do ông Hồ Văn P (con của ông T2, H1), một
số lần do H3 (là cháu của ông T2, H1), bà Đỗ Thị Minh T3 (là con dâu của ông
T2, bà H1) trả tiền mặt cho tôi.
Tiếp đến ngày 19/02/2024, bà H1 chuyển cho tôi số tiền 600.000.000 đồng.
Sáng ngày 20/02/2024, cháu H1, ông T2 vào cân phê cho nhà H1,
ông T2, sau khi trả tiền cà phê cho tôi thì còn thừa lại số tiền 42.631.000 đồng nên tôi
khấu trừ số tiền này vào tiền nợ.
Sáng ngày 20/02/2024, H1 có nói con dâu Đỗ Thị Minh T3 chuyển cho tôi
số tiền 600.000.000 đồng.
Như vậy, sau những lần trả tiền mặt và chuyển khoản, Công ty H6 đã thanh toán
cho tôi tổng số tiền 1.533.338.000 đồng, còn nợ lại số tiền 257.100.000 đồng. Do đó,
tôi đề nghị Tòa án giải quyết buộc Công ty H6 phải trả cho tôi tổng số tiền gốc
257.100.000 đồng và lãi suất phát sinh theo quy định của pháp luật.
T cho rằng số tiền 1.500.000.000 đồng mà Công ty H6 chuyển vào tài khoản
của ông H4 (chồng tôi) vào ngày 09/02/2023 khoản tiền Công ty H6 mua của
tôi 49.382,4kg phê nhân với giá 43.800đ/kg không liên quan đến khoản tiền
chốt nngày 30/4/2021 giữa tôi Công ty H7 thành trước đó. Hơn nữa, quá trình
giao dch mua bán phê với nhau thì rất nhiều lần Thị Mỹ H1 Đỗ
Thị Minh T3 đã thay Công ty H6 thanh toán tiền hàng cho tôi, nên việc H1
T3 cho rằng khoản tiền 600.000.000 đồng do bà H1 chuyển khoản cho vào ngày
19/02/2024 khoản tiền 600.000.000 đồng do T3 chuyển khoản cho tôi
chuyển nhầm là không đúng.
* Bị đơn Công ty H6, người đại diện theo pháp luật ông Trần Quang T2
Giám đốc Công ty trình bày:
4
Giữa bà T với Công ty H6 mua bán nông sản với nhau như nội dung T
trình bày, Công ty H6 xác nhận đến ngày 30 tháng 4 năm 2021, còn nợ T tổng số tiền
1.791.478.000 đồng. Tuy nhiên, khoản nợ này đã được Công ty thanh toán xong cho
bà T, cụ thể như sau:
Ngày 09/02/2023, Công ty H6 trả cho T thông qua số tài khoản của ông
Nguyễn Đình H4 (chồng bà T) số tiền 1.500.000.000 đồng;
Đồng thời, trong các ngày từ ngày 05/5/2021 cho đến ngày 06/02/2024 Công ty
H6 đã trả số tiền 291.478.000 đồng (Số tiền này T thừa nhận đã nhận đủ). Đến
nay, Công ty H6 đã trả đủ tiền cho T nên không đồng ý với nội dung yêu cầu khởi
kiện của bà T.
T cho rằng số tiền 1.500.000.000 đồng Công ty H6 chuyển trả khoản
tiền trả cho các chứng từ giao dịch khác, thì Công ty H6 không đồng ý. Đối với
khoản tiền 1.241.860.000 đồng Thị Mỹ H1 Đỗ Thị Minh T3 chuyển
cho T, thì số tiền này không liên quan đến Công ty H6. H1 T3
người làm công ăn lương nên không có nghĩa vụ trả tiền cho bà T thay cho Công ty.
* Bà Tô Thị Mỹ H1 trình bày:
H1 là vợ của ông T2 (Giám đốc Công ty H6), H1 thừa nhận giữa T với
Công ty H6 mua bán hàng hóa với nhau. Đến ngày 30/4/2021, Công ty H6 còn nợ
T tổng số tiền 1.791.478.000 đồng nhưng việc mua bán đó không liên quan đến
bà nên bà đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.
Trong khoảng thời gian từ ngày 05 đến ngày 20/02/2024, mua phê của
T với số lượng đơn giá như sau: Lần 1: 38 tấn, giá 79.500đ/kg; Lần 2: 09 tấn,
giá 78.500đ/kg (Đều thực hiện bằng tin nhắn + gọi điện).
Ngày 06/02/2024, bà T ký nhận 200.000.000 đồng;
Ngày 07/02/2024 bà chuyển khoản 10.000.000 đồng;
Ngày 19/02/2024 T nhận 240.000.000 đồng chuyển khoản
600.000.000 đồng. Cùng NgàyT đã giao cho bà: 6.382kg, giá 79.500đ/kg;
Ngày 20/02/2024 bà đưa cho tiếp cho bà T 100.000.000 đồng.
Tổng cộng đưa cho T 1.150.000.000 đồng. Sau khi trừ đi số tiền
507.369.000 đồng (6.382kg cà phê) bà mua, số tiền còn lại 642.631.000 đồng (Tương
5
đương 8.134kg) nhưng T chưa giao cà, nên đã khởi kiện yêu cầu giải quyết
bằng vụ án khác.
* Bà Đỗ Thị Minh T3 trình bày:
là người phụ việc cho Công ty H6, nhiệm vụ chính cân hàng mỗi khi
khách đưa đến. Không nhận trả tiền thay cho Công ty. Việc mua bán nông sản
giữa bà T với Công ty H6 như thế nào thì bà không biết.
Ngày 20/02/2024, bà chuyển nhầm cho bà T số tiền 600.000.000 đồng. số
tiền này chuyển cho Nguyễn Thị Thu T4 Thanh Hóa để thực hiện việc
chuyển nhượng quyền sdụng đất. Tòa án yêu cầu cung cấp tên tuổi, địa chỉ (lý
lịch) chứng cứ giao dịch chuyển nhượng thì không cung cấp được, đó
người quen.
Việc bà T4 kiện Công ty H6 không liên quan gì đến bà, do đó bà đề nghị Tòa án
giải quyết theo pháp luật.
* Ông Nguyễn Triệu V, ông Nguyễn Đình H4 trình bày: Đồng ý với ý kiến
nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thùy T.
* Ông Hồ Xuân L trình bày: Ông chỉ người làm công ăn lương cho Công ty
H6, không liên quan đến việc mua bán, đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.
* Hồ Thị Mỹ H3 trình bày: không thay mặt Công ty H6 đến nhà T để
bốc hàng, mà bà chỉ đến nhà bà T để bốc hàng cho bà H1.
Tại Bản án sơ thẩm số 32/2024/DS-ST ngày 24/6/2024 của Tòa án nhân
huyện Ea H’leo, tỉnh Đăk Lăk đã quyết định:
Áp dụng khoản 3 Điều 26; các điều 147; 227; 235; 271Điều 273 của Bộ luật
Tố tụng dân sự;
Căn cứ các điều 430, 433, 436 và Điều 440 của Bộ luật dân sự;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị Thùy T, buộc Công ty trách
nhiệm hữu hạn H6 phải trả cho bà Nguyễn Thị Thùy T số tiền 257.100.000 đồng.
6
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân
sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm còn quyết định án phí, tuyên về quyền kháng cáo
cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 01/7/2024, bị đơn Công ty H6, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
Thị Mỹ H1, Đỗ Thị Minh T3 kháng cáo bản án thẩm với nội dung như
sau:
- Bị đơn Công ty TNHH H6 đề nghị cấp phúc thẩm hủy bản án thẩm và
chuyển hồ sơ vụ án đến cơ quan Cảnh sát điều tra để làm rõ về hành vi lừa đảo chiếm
đoạt tài sản của bà Nguyễn Thị Thùy T.
- Bà Tô Thị Mỹ H1 và bà Đỗ Thị Minh T3 đề nghị cấp phúc thẩm hủy bản án sơ
thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T, chuyển hồ cho quan
điều tra giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa nguyên đơn vẫn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện, bị đơn
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Thị Mỹ H1 Đỗ Thị Minh T3 vẫn
giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự đã chấp hành đúng
các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Qua phân tích đánh giá các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án
và tranh tụng tại phiên tòa, xét thấy không có căn cứ để chấp nhận đơn kháng cáo của
bị đơn Công ty TNHH H6; kháng cáo của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Tô Thị Mỹ H1 Đỗ Thị Minh T3. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều
308 Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, kháng cáo của
những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và giữ nguyên án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, n
cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên sở xem xét đầy đủ các tài liệu, chứng
cứ lời trình bày của các đương sý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử phúc
thẩm nhận định như sau:
7
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn, người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan làm trong hạn luật định và đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên được xem
xét, giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
Xét thấy vụ án dân sự phúc thẩm thụ số: 300/2024/DS - PT ngày 15/10/2024
về việc: “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số
279/2024/DS - PT ngày 15/10/2024 vviệc: “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”
hai vụ án cùng đương sự, cùng quan hệ tranh chấp mối quan hmật thiết
với nhau, lẽ ra cấp thẩm nên nhập 02 vụ án này đgiải quyết trong cùng 01 vụ án
nhằm giải quyết vụ án một cách toàn diện, triệt để. Tuy nhiên, cấp thẩm đã giải
quyết thành 02 vụ án riêng biệt, do đó cấp phúc thẩm tiếp tiếp xét xử 02 vụ án
đúng quy định.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét đơn kháng cáo của bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà
Thị Mỹ H1 bà Đỗ Thị Minh T3, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy toàn
bộ bản án sơ thẩm, Hội đồng xét xử xét thấy:
Quá trình giải quyết vụ án, tất cả các đương sự đều thừa nhận giữa Công ty H6
và bà Nguyễn Thị Thùy T mua bán nông sản với nhau (bà T là bên bán và Công ty
H6 bên mua). Theo đó, ngày 30/4/2021 các bên có tiến hành chốt nợ với nhau theo
nội dung “Biên bản đối chiếu công nợ” đề ngày 30/4/2021 (bút lục 49), theo đó các
bên xác định: Tính đến thời điểm ngày 30/4/2021, Công ty H6 còn nợ chú Sáu
Hướng (tức vợ chồng Nguyễn Thị Thu T4 ông Nguyễn Đình H4) tổng số tiền
hàng 1.791.478.000 đồng (Một tỷ, bảy trăm chín mươi mốt triệu, bốn trăm bảy
mươi tám ngàn đồng). Ngoài ra, các bên còn thỏa thuận vthời gian thanh toán như
sau: Ngày 03/5/2021 thanh toán một phần công nợ, ngày 30/12/2021 thanh toán một
phần công nợ ngày 30/4/2022 thanh toán dứt điểm công nợ. Bên cạnh đó, các bên
cũng thửa nhận sau khi chốt công nợ, mặc dù phía Công ty H6 chưa thực hiện xong
nghĩa vụ trả nợ nhưng sau đó các bên vẫn tiếp tục thực hiện nhiều giao dịch khác với
nhau.
Tại đơn khởi kiện cũng như quá trình giải quyết vụ án, phía nguyên đơn
Nguyễn ThThùy T xác nhận Công ty H6 đã thanh toán cho nhiều lần với tổng số
tiền 1.533.338.000 đồng, trong đó có: 1.200.000.000 đồng (tiền do H1 T3
chuyển khoản vào tài khoản của T), 291.478.000 đồng T nhận tiền mặt nhiều
8
lần từ con cháu của ông T2, H1 42.631.000 đồng số tiền khấu trừ vào số
tiền cân cà phê còn dư vào ngày 20/02/2024.
Xét ý kiến trình bày của Thị Mỹ H1 cho rằng: Ngày 19/02/2024, H1
chuyển vào số tài khoản của T số tiền 600.000.000 đồng để thực hiện giao dịch
khác không liên quan đến giao dịch của Công ty H6 bà T là không sở. Bởi
lẽ, giữa Thị Mỹ H1 ông Trần Quang T2 (Giám đốc ng ty H6) mối
quan hệ vợ chồng nên strách nhiệm với nhau trong các quan hgiao dịch dân
sự cũng như về nghĩa vụ trả nợ. Đồng thời quá trình giải quyết vụ án, phía H1
cũng thừa nhận nhiều lần thay mặt Công ty H6 thực hiện các giao dịch mua bán nông
sản với T. Bên cạnh đó, phía H1 cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ
chứng minh cho việc chuyển khoản tiền 600.000.000 đồng nêu trên cho bà T là khoản
tiền riêng của H1 dùng để thực hiện giao dịch mua bán nông sản riêng giữa
H1 và bà T là không liên quan đến Công ty H6.
Xét ý kiến trình bày của T3 cho rằng bà chuyển khoản cho T số tiền
600.000.000 đồng vào ngày 20/2/2024 chuyển nhầm người. ngày này T3
chuyển tiền cho bà T Thanh Hóa để thực hiện giao dịch mua bán đất, tthấy rằng:
Trong nội dung tin nhắn chuyển tiền của bà T3 không thể hiện việc bà T3 chuyển tiền
để mua đất. Quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm, T3 cung cấp một bản
phô tô “Giấy thỏa thuận” về việc nhờ 01 người tên “Nguyễn Thị Thu T4” mua hộ đất
tại Thanh Hóa. Tuy nhiên, đây chỉ bản ptô, không công chứng chứng thực
theo quy định. Hơn nữa, T3 cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng
minh cho việc vào ngày 20/02/2024 T3 thực hiện việc giao dịch mua bán đất
Thanh Hóa cũng như địa chỉ của Nguyễn Thị Thu T4 Thanh Hoá như T3
trình bày. Trong khí đó, T3 con dâu của ông T2 H1, đồng thời nhân
viên của Công ty H6, thường xuyên thực hiện các giao dịch mua bán phê thay
Công ty H6. Ngoài ra, tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự đều thừa nhận: Từ trước
đến nay bà T3 chỉ thực hiện giao dịch chuyển tiền cho T4 một lần duy nhất vào
ngày 20/2/2024 (số tài khoản của Nguyễn Thị Thuỳ T4 do phía công ty H6 cung
cấp cho bà T3). Do đó, lời trình bày trên của bà T3 là không có căn cứ để chấp nhận.
Công ty H6 cho rằng số tiền 1.500.000.000 đồng Công ty H6 chuyển khoản
cho ông H4 (chồng T4) để thanh toán cho số tiền 1.791.478.000 đồng, nhưng
Công ty H6 lại không chứng cứ đchứng minh (cụ thể nội dung chuyển số tiền
trên để thanh toán cho khoản tiền 1.791.478.000 đồng). Trong khi đó, bà T4 cung cấp
nội dung tin nhắn các cuộc hội thoại, hình ảnh và sổ sách mua bán thể hiện ngày
9
09/02/2023 vào các ngày 19/02/2024 giữa T4 Công ty H6 giao dịch mua
bán cà phê với nhau. Do đó, lời trình bày của bà T4 về số tiền 1.500.000.000 đồng mà
Công ty H6 chuyển khoản cho ông H4 để thực hiện giao dịch mua 49.382,4 kg
phê nhân xô là có cơ sở và phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Từ những phân tích nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử đủ căn cứ để xác
định: Giữa T4 với Công ty H6 đã nhiều lần thực hiện giao dịch mua bán nông sản
phê với nhau thông qua ông T2, H1 những người làm ng ăn lương cho
Công ty H6. Tính đến ngày 30/4/2021, Công ty H6 còn nợ T4 tổng số tiền
1.791.478.000 đồng đến ngày 20/02/2024 Công ty H6 đã thanh toán cho T4
được số tiền 1.533.338.000 đồng, trong đó: 1.200.000.000 đồng (do H1 và bà T3
chuyển khoản cho T4) + 291.478.000 đồng (thanh toán bằng tiền mặt) +
41.860.000 đồng (khấu trừ t tiền mua hàng còn của Công ty vào ngày
20/02/2024), còn nợ lại số tiền 257.100.000 đng. Như vậy, yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn Nguyễn Thị Thùy T căn cứ, do đó Toà án cấp thẩm tuyên
buộc Công ty H6 phải trả cho T số tiền còn nợ gốc 257.100.000 đồng là đúng
quy định của pháp luật, nên cần giữ nguyên án sơ thẩm đã tuyên là phù hợp.
[2.2] Xét kháng cáo của bị đơn Công ty H6 đề nghị Tòa án chuyển hồ sơ sang cơ
quan Cảnh sát điều tra để điều tra truy tố về hành vi “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản” của Nguyễn Thị Thùy T, thì thấy: Quá trình giải quyết ván, Đỗ Thị
Minh T3 đã nộp đơn tố cáo hành vi của bà T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an
thành phố B, ngày 06/11/2024 Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk Công văn
1415/2024/CV-TA đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra trả lời cho Tòa án được biết kết
quả giải quyết đơn tố giác của H1 T3. Tại Thông báo về việc giải quyết đơn
số 2176/ĐTTH ngày 02/12/2024 của quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố
B thông báo đơn tố giác của T3 đối với T tranh chấp dân sự trong việc mua
bán tài sản nên đã hướng dẫn cho T3 khởi kiện vụ việc tại Toà án. Do đó, yêu cầu
kháng cáo này của bị đơn là không có căn cứ để chấp nhận.
[3] Từ những nhận định trên Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Không có căn
cứ để chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH H6, đơn kháng cáo của
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Thị Mỹ H1 bà Đỗ Thị Minh T3, cần
giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm là phù hợp.
10
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị
đơn Công ty H6, người quyền lợi, nghĩa vliên quan Thị Mỹ H1 Đỗ
Thị Minh T3 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của Bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 29 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án;
- Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH H6;
- Không chấp nhận đơn kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Tô Thị Mỹ H1 và bà Đỗ Thị Minh T3;
- Giữ nguyên quyết định của Bản án dân sthẩm số: 32/2024/DS-ST ngày
24/6/2024 của Tòa án nhân huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thùy T.
Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn H6 phải trả cho Nguyễn Thị Thùy T số
tiền 257.100.000 đồng (Hai trăm năm mươi bảy triệu một trăm ngàn đồng).
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân
sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
[2] Về án phí:
[2.1] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Công ty trách nhiệm hữu hạn H6 phải chịu 12.855.000 đồng (Mười hai triệu,
tám trăm năm mươi lăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Nguyễn Thị Thùy T không phải chịu án phí dân sự thẩm. Được nhận lại
số tiền 6.427.000 đồng (Sáu triệu, bốn trăm hai ơi bảy ngàn đồng) đã nộp tại Chi
cục thi hành án dân sự huyện E, tỉnh Đắk Lắk theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí
Tòa án số AA/2023/ 0001903 ngày 13/3/2024.
11
[2.2] Về án phí dân sự phúc thẩm:
- Công ty TNHH H6 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Được
khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu số 0002187
ngày 04/7/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
- Thị Mỹ H1 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Được
khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu số 0002188
ngày 04/7/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
- Đỗ Thị Minh T3 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Được
khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu số 0002186
ngày 04/7/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
Như vậy, Công ty TNHH H6, Thị Mỹ H5 bà Đỗ Thị Minh T3 đã thực
hiện xong nghĩa vụ nộp án phí dân sự phúc thẩm.
[3] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã
có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án
dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TANDCC; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện Ea H’leo; (đã ký)
- Chi cục THADS H. E;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án.
Y Phi Kbuôr
Tải về
Bản án số 338/2024/DS-PT Bản án số 338/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 338/2024/DS-PT Bản án số 338/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất