Bản án số 296/2024/GĐT-DS ngày 26/12/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 296/2024/GĐT-DS

Tên Bản án: Bản án số 296/2024/GĐT-DS ngày 26/12/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 296/2024/GĐT-DS
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: chấp nhận quyết định kháng nghị
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Quyết định giám đốc thẩm
Số: 296/2024/DS-GĐT
Ngày 26-12-2024
V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ỦY BAN THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Thành phần Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: bà Phạm Thị Duyên
Các Thẩm phán: ông Phan Thanh Tùng
ông Hoàng Thanh Dũng
Thư ký phiên tòa: ông Phạm Anh Quân – Thẩm tra viên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: ông Đỗ Xuân Lượng Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 26 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về “Tranh
chấp hợp đồng vay tài sản” giữa:
1. Nguyên đơn: bà Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1988;
Địa chỉ: số A Đại lộ B, tổ G, khu phố E, phường Đ, thành phố T, tỉnh Bình
Dương.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Văn Bé B, sinh năm 1981;
Địa chỉ: tổ B, khu phố K, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
2. Bị đơn: ông Nguyễn Thanh T1, sinh năm 1973;
Địa chỉ: tổ I, khu phố H, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Hữu T2, sinh năm 1983 ông
Hữu T3, sinh năm 1981;
Cùng địa chỉ: xóm E, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.
Cùng địa chỉ liên hệ: số D, khu phố B, phường B, thành phố T, tỉnh Bình
Dương.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
3.1. Ông Nguyễn Hữu K, sinh năm 1983;
Địa chỉ: tổ E, khu phố I, phường C, thành phố B, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của ông K: ông Nguyễn Văn Bé B, sinh năm 1981.
3.2. Bà Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1976;
Địa chỉ: tổ I, khu phố H, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của H: ông Hữu T2, sinh năm 1983 ông
Lê Hữu T3, sinh năm 1981.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyễn Ngọc T ông Nguyễn Thanh T1 mối quan hệ quen biết nên
từ ngày 01/12/2020 đến ngày 01/7/2021 bà T đã cho ông T1 vay nhiều lần bằng
hình thức lập giấy mượn tiền thỏa thuận thời hạn vay 01 tháng hình thức
chuyển khoản. Tổng cộng T đã cho ông T1 vay 5.800.000.000 đồng (Năm tỷ
tám trăm trăm triệu đồng), khi vay các bên không có thỏa vlãi suất. Sau khi vay,
ông T1 không trả nợ cho nên T khởi kiện yêu cầu ông T1 trả vốn lãi suất
10%/năm trên tổng số tiền vay gốc cho mỗi thời điểm vay đến thời điểm xét xử
thẩm ngày 15/9/2022.
Ông T1 thừa nhận nợ 5.800.000.000 đồng như T trình bày nhưng ông
T1 cho rằng việc vay nợ trên chỉ là giao dịch giả tạo, thực chất là giữa T và ông
T1 ng thỏa thuận việc ông T1 sẽ tìm người quen để bà T cho vay với lãi suất cao
để hai bên cùng hưởng lợi nhuận. Tuy nhiên, thỏa thuận này không được bà T thừa
nhận. Sau khi vay, ông T1 cho rằng đã trả cho T tổng vốn và lãi
1.834.000.000 đồng (một tỷ tám trăm ba mươi bốn triệu đồng), trong đó có
500.000.000 đồng là tiền lãi mà ông T1 đã trả với mức lãi suất cao so với quy định
của Nhà nước. Do vậy, ông T1 yêu cầu phản tố đề nghị được khấu trừ vào
tiền nợ vốn vay còn thiếu. Đối với yêu cầu phản tcủa ông Nguyễn Thanh T1 thể
hiện tại bản sao tài khoản tại ngân hàng của T, từ ngày 26/4/2021 đến ngày
15/10/2021 ông T1 đã chuyển trả cho T tổng cộng 1.750.000.000 đồng (một tỷ
bảy trăm năm mươi triệu đồng). Tuy nhiên, T chỉ thừa nhận đã nhận tổng cộng
1.731.000.000 đồng (một tỷ bảy trăm ba mươi mốt triệu đồng) đồng ý cho ông
T1 khấu trừ khoản tiền chuyển trả ngày 20/7/2021 737.000.000 đồng (bảy trăm
ba mươi bảy triệu đồng), còn các khoản chuyển trả khác bà T không đồng ý khấu
trừ T cho rằng các khoản tiền ông T1 đã chuyển trả cho bà trước ngày
20/7/2021 là thanh toán cho các khoản nợ khác trước đó mà ông T1 vay và hai bên
đã tất toán xong.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 81/2022/DS-ST ngày 29/9/2022, Tòa án nhân
dân thị xã Tân Uyên (nay là thành phố T) quyết định:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Ngọc
T đối với bđơn ông Nguyễn Thanh T1 về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài
sản”.
3
Buộc ông Nguyễn Thanh T1 Nguyễn Thị Ngọc H phải nghĩa vụ liên
đới trả cho Nguyễn Ngọc T số tiền 5.717.603.229 đồng, trong đó tiền nợ gốc
5.063.000.000 đồng và tiền lãi là 654.603.229 đồng.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn
Ngọc T về việc tính lãi với số tiền là 42.647.323 đồng.
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Thanh T1 đối với
nguyên đơn Nguyễn Ngọc T về việc khấu trừ số tiền 1.834.000.000 đồng, bao
gồm 1.334.000.000 đồng tiền nợ gốc đã thanh toán 500.000.000 đồng tiền
lãi mà bà T đã thu vượt quá mức lãi suất quy định trong giao dịch dân sự.
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm còn quyết định về việc áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời, án phí, lãi suất do chậm thi hành án, quyền kháng cáo và quyền,
nghĩa vụ thi hành án.
Ngày 06/10/2022, bị đơn ông Nguyễn Thanh T1 đơn kháng cáo toàn bộ
bản án sơ thẩm.
Ngày 11/10/2022, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Th
Ngọc H có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại Bản án dân sphúc thẩm số 232/2023/DS-PT ngày 19/6/2023, Tòa án
nhân dân tỉnh Bình Dương quyết định:
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Thanh T1 chấp
nhận kháng cáo của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Ngọc
H.
2. Sửa một phần Bản án dân sự số 81/2022/DS-ST ngày 29/9/2022 của Tòa
án nhân dân thị xã (nay là thành phố ), tỉnh Bình Dương.
2.1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn
Ngọc T đối với bị đơn ông Nguyễn Thanh T1 về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay
tài sản” đối với số tiền nợ gốc 5.063.000.000 đồng (năm tỷ không trăm sáu
mươi ba triệu đồng).
2.2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Thanh T1
đối với nguyên đơn Nguyễn Ngọc T về việc khấu trừ số tiền 203.000.000 đồng
(hai trăm lẻ ba triệu đồng) vào số tiền nợ gốc.
Sau khi khấu trừ, ông Nguyễn Thanh T1 trách nhiệm thanh toán cho
Nguyễn Ngọc T số tiền nợ gốc 4.860.000.000 đồng (bốn tỷ m trăm sáu mươi
triệu đồng).
2.3. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn
Ngọc T đối với bị đơn ông Nguyên Thanh T4 về việc tính tiền lãi. Buộc ông Nguyễn
Thanh T1 phải thanh toán cho Nguyễn Ngọc T số tiền lãi 635.193.658 đồng
(sáu trăm ba mươi lăm triệu một trăm chín mươi ba nghìn sáu trăm năm mươi tám
đồng).
2.4. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Nguyễn Ngọc T về việc tính tiền lãi với số tiền 42.647.323 đồng (bốn mươi hai
4
triệu sáu trăm bốn mươi bảy nghìn ba trăm hai mươi ba đồng).
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí, lãi suất do chậm
thi hành án, quyền và nghĩa vụ thi hành án.
Ngày 20/02/2024, bị đơn ông Nguyễn Thanh T1 có đơn đề nghị xem xét bản
án dân sự phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.
Tại Quyết định số 253/QĐKN-VKS-DS ngày 04/11/2024, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị giám đốc thẩm
đối với bản án dân sự phúc thẩm nêu trên, đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự
phúc thẩm bản án dân sthẩm để giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định
của pháp luật.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Căn cứ vào giấy mượn tiền, các chứng từ giao dịch bằng hình thức
chuyển khoản cũng như sthừa nhận của ông Nguyễn Thanh T1 các tài liệu
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở xác định:
Từ năm 2020 đến năm 2021, Nguyễn Ngọc T đã nhiều lần cho ông T1
vay tiền bằng hình thức viết giấy mượn nchuyển khoản. Về thời hạn vay hai
bên thống nhất một số khoản vay khạn 01 tháng (đối với những khoản
vay có viết giấy mượn nợ) và có một số khoản vay chuyển khoản thì không có thỏa
thuận về thời hạn trả. T đã cho ông T1 vay tổng cộng tiền vốn: 5.800.000.000
đồng. Sau khi vay, theo sthừa nhận của T, ông T1 đã trả được 737.000.000
đồng (trả vào ngày 20/7/2021). Do vậy, bà T khởi kiện yêu cầu ông T1 trả nợ gốc
là: 5.800.000.000 đồng - 737.000.000 đồng = 5.063.000.000 đồng tiền lãi theo
mức lãi suất 10%/năm tương ứng với từng thời gian vay đến thời điểm xét xử
thẩm ngày 15/9/2022. Tòa án hai cấp căn cứ vào nội dung Biên bản làm việc ngày
23/02/2022 Biên bản hòa giải ngày 01/3/2022 của Tòa án nhân dân thị Tân
Uyên, tuyên xử buộc ông T1 phải trách nhiệm trả cho bà T nợ gốc tiền lãi
theo mức lãi suất do Ngân hàng N quy định hoàn toàn sở phù hợp vi
quy định tại khoản 4 Điều 466 Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên, quá trình thụ và xác
minh thu thập chứng cứ đối với yêu cầu phản tố của ông T1 về việc xem xét số tiền
ông đã chuyển khoản trả cho T tổng cộng 1.834.000.000 đồng (gồm nợ gốc
1.334.000.000 đồng tiền lãi vượt qquy định 500.000.000 đồng) thì Tòa án
hai cấp thu thập chứng cứ chưa đầy đđể đảm bảo cho quá trình giải quyết xét
xử vụ án, cụ thể:
Chưa tiến hành đối chất lấy lời khai giữa bà T với ông T1 đối với các khoản
tiền ông T1 đã trả cho T, được T thừa nhận nhưng T lại cho rằng
không phải chuyển trả cho khoản nợ vốn 5.800.000.000 đồng, trả cho các
5
khoản nợ khác, làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của ông T1, không
bảo đảm tính thật của chứng cứ theo quy định tại Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân
sự và chưa phù hợp với những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
[2]. Căn cứ vào sự thừa nhận của bà T và sau khi đối chiếu với các giao dịch
chuyển khoản tại tài khoản của ông T1 và bà T tại Ngân hàng TMCP P xác định từ
ngày 26/4/2021 đến ngày 15/10/2021 (trong khoảng thời gian diễn ra giao dịch vay
theo khởi kiện, ông T1 đã chuyển trả cho T tổng cộng 1.750.000.000 đồng (một
tỷ bảy trăm năm mươi triệu đồng) nhưng bà T chỉ thừa nhận ông T1 đã chuyển trả:
1.731.000.000 đồng (một tỷ bảy trăm ba mươi mốt triệu đồng) bằng hình thức
chuyển khoản. Cụ thể gồm các khoản như sau:
- Ngày 26/4/2021, ông T1 chuyển khoản trả cho bà T số tiền 6.000.000 đồng
(sáu triệu đồng);
- Ngày 11/5/2021, ông T1 đã chuyển khoản trả cho bà T số tiền 525.000.000
đồng (Năm trăm hai mươi lăm triệu đồng);
- Ngày 07/6/2021, ông T1 chuyển khoản trả cho T số tiền 35.000.000
đồng (ba mươi lăm triệu đồng);
- Ngày 08/6/2021, ông T1 chuyển khoản trả cho T số tiền 19.000.000
đồng (mười chín triệu đồng);
- Ngày 16/6/2021, ông T1 chuyển khoản trả cho T số tiền 105.000.000
đồng (một trăm lẻ năm triệu đồng);
- Ngày 10/7/2021, ông T1 chuyển khoản trả cho T số tiền 54.000.000
đồng (năm mươi bốn triệu đồng);
- Ngày 14/7/2024, ông T1 chuyển khoản trả cho T số tiền 66.000.000
đồng (sáu mươi sáu triệu đồng);
- Ngày 20/7/2021, ông T1 chuyển khoản trả cho T số tiền 737.000.000
đồng (bảy trăm ba mươi bảy triệu đồng);
- Ngày 23/7/2021, ông T1 chuyển khoản trả cho T số tiền 56.000.000
đồng (năm mươi sáu triệu đồng);
- Ngày 28/7/2021, ông T1 chuyển khoản trả cho T số tiền 77.000.000
đồng (bảy mươi bảy triệu đồng);
- Ngày 20/8/2021, ông T1 chuyển khoản trả cho T số tiền 50.000.000
đồng (năm mươi triệu đồng);
- Ngày 15/10/2021, ông T1 chuyển khoản trả cho T số tiền 20.000.000
đồng (hai mươi triệu đồng).
Như vậy, thực tế ông T1 đã chuyển khoản trả cho T tổng cộng
1.750.000.000 đồng (một tỷ bảy trăm m mươi triệu đồng) nhưng T chỉ thừa
nhận ông T1 đã chuyển: 1.731.000.000 đồng (một tỷ bảy trăm ba mươi mốt triệu
đồng). Tuy là sự chênh lệch không lớn nhưng bà T chỉ đồng ý cho ông T1 khấu trừ
khoản tiền ông T1 chuyển trả ngày 20/7/2021 với số tiền là: 737.000.000 đồng
(bảy trăm ba mươi bảy triệu đồng) vào tổng số vốn 5.800.000.000 đồng (năm tỷ
6
tám trăm triệu đồng), số tiền chuyển khoản còn lại khoảng 01 tỷ đng, ông T1
chuyển cho bà T nhưng bà T không đồng ý khấu trừ với lý do là ông T1 thanh toán
cho các khoản vay khác hai bên đã tất toán xong. c khoản vay khác các
khoản vay cụ thể như thế nào thì bà T chưa cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng
minh và Tòa án hai cấp cũng chưa đối chất lời khai giữa bà T với ông T1 để làm rõ
nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông T1
về việc cho khấu trừ 04 khoản tiền tổng cộng 203.000.000 đồng (hai trăm lba
triệu đồng) không dựa trên sở chứng cứ nào, trong khi T thừa nhận đã
nhận của ông T1 tổng cộng 1.731.000 đồng (một tỷ bảy trăm ba mươi mốt triệu
đồng) không p hợp. Nếu chấp nhận cho khấu trừ các khoản tiền sau ngày
20/7/2021 ông T1 đã chuyển khoản tổng cộng 940.000.000 đồng (737.000.000
đồng + 203.000.000 đồng) Tòa án hai cấp đã chấp nhận cho khấu trừ vào tổng
số tiền vốn vay ông T1 nT thì cũng phải chấp nhận cho ông T1 khấu trừ
các khoản tiền ông T1 đã chuyển khoản cho bà T trước ngày 20/7/2021 (trong tổng
số 1.731.000 đồng mà bà T thừa nhận) tổng cộng là 791.000.000 đồng, cụ thể:
- Ngày 26/4/2021, ông T1 chuyển khoản trả cho bà T số tiền 6.000.000
đồng;
- Ngày 11/5/221, ông T1 đã chuyển khoản trả cho T số tiền 525.000.000
đồng;
- Ngày 07/6/2021, ông T1 chuyển khoản trả cho T số tiền 35.000.000
đồng;
- Ngày 16/6/2021, ông T1 chuyển khoản trả cho T số tiền 105.000.000
đồng;
- Ngày 10/7/2021, ông T1 chuyển khoản trả cho T số tiền 54.000.000
đồng;
- Ngày 14/7/2024, ông T1 chuyển khoản trả cho T số tiền 66.000.000
đồng.
[3]. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự về nghĩa vụ
chứng minh, trong vụ án này ông T1 đã cung cấp được chứng cứ chứng minh cho
yêu cầu phản tố và chứng cứ này cũng đã được bà T thừa nhận, thể hiện ông T1 đã
chuyển khoản trả cho T tổng cộng 1.731.000 đồng (một tỷ bảy trăm ba mươi
mốt triệu đồng). Còn T chưa cung cấp được chứng cứ chứng minh các khoản
tiền ông T1 chuyển khoản trả cho T trước ngày 20/7/2021 để trả nợ cho
các khoản vay trước đó nên đđảm bảo yếu tố khách quan cần phải c minh làm
ngoài số nợ vốn 5.800.000.000 đồng hai bên đã thống nhất thì cần phải làm
ông T1 còn vay số tiền nào khác của T hay không để sở giải quyết đối
với yêu cầu phản tố của ông T1.
Từ những phân tích trên, thấy rằng Tòa án hai cấp đã áp dụng không đúng
quy định của pháp luật, quyết định không phợp với những tình tiết khách quan
của vụ án làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của ông T1. Do đó, cần
chấp nhận quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
7
tại Thành phố Hồ Chí Minh, hủy bản án dân sự phúc thẩm bản án dân sự
thẩm để giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 337 và Điều 343 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm s253/QĐKN-VKS-
DS ngày 04/11/2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh.
2. Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 232/2023/DS-PT ngày 19/6/2023 của
Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương và Bản án dân sthẩm số 81/2022/DS-ST
ngày 29/9/2022 của Tòa án nhân dân thị (nay thành phố) Tân Uyên về vụ án
“Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn Nguyễn Ngọc T với bị
đơn ông Nguyễn Thanh T1 những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
khác. Giao hồ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên để giải quyết
thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
3. Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.
Nơi nhận:
- Chánh án TANDCC tại TP. HCM (để báo cáo);
- Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học TANDTC;
- VKSNDCC tại TP. HCM;
- TAND tỉnh Bình Dương;
- TAND TP. Tân Uyên, tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS TP. Tân Uyên, tỉnh Bình Dương;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu P.LTHS, P.GĐKT2, HS, THS (AQ).
TM. ỦY BAN THẨM PHÁN
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Thị Duyên
8
Tải về
Bản án số 296/2024/GĐT-DS Bản án số 296/2024/GĐT-DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 296/2024/GĐT-DS Bản án số 296/2024/GĐT-DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất