Bản án số 476/2024/DS-PT ngày 04/12/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 476/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 476/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 476/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 476/2024/DS-PT ngày 04/12/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Cà Mau |
Số hiệu: | 476/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 04/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bà H yêu cầu ông N trả lại đất lấn chiếm tổng diện tích 706,5m2 |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 476/2024/DS-PT
Ngày 04 - 12 - 2024
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa: Ông Ninh Quang Thế
Các Thẩm phán: Các Thẩm Phán: - Ông Nguyễn Thành Lập
- Ông Đặng Minh Trung
- Thư ký phiên tòa: Bà Hứa Như Nguyện – Là Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Cà Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa: Ông
Nguyễn Văn Hùng - Kiểm sát viên.
Ngày 04 thàng 12 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 413/2024/TLPT-DS ngày 21 tháng 10
năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 243/2024/DS-ST ngày 16 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 445/2024/QĐ-PT ngày
04 tháng 11 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Đặng Thị H, Sinh năm 1959 (có mặt); Địa chỉ cư trú: Ấp
K, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà H: Luật sư Vũ Ngọc C -
Văn phòng L thuộc đoàn luật sư Thành phố C (có mặt).
- Bị đơn: Ông Lê Tấn N, Sinh năm 1963 (có mặt); Địa chỉ cư trú: Ấp K, xã
K, huyện T, tỉnh Cà Mau.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông N: Luật sư Lê Anh T - Văn
phòng Luật sư Lê Anh T thuộc đoàn luật sư Tỉnh C (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Lê Văn D, Sinh năm 1958.
2. Anh Lê Văn T1, 45 tuổi
3. Chị Nguyễn Ngọc N1, sinh năm 1980.
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp K, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.
4. Bà Võ Thị T2, sinh năm 1965.
5. Anh Lê Như Ý, sinh năm 1986.
6. Anh Lê Ý N2, sinh năm 1995.
7. Chị Tạ Hồng D1, sinh năm 1983.
Cùng địa chỉ: Ấp K, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.
- Người kháng cáo: Bà Đặng Thị H là nguyên đơn và ông Lê Tấn N là bị
đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Tại đơn khởi kiện ngày 28/02/2024, quá trình giải quyết vụ án, tại phiên
tòa bà Đặng Thị H trình bày: Nguồn gốc phần đất vợ chồng bà đang quản lý sử
dụng, giáp ranh với đất ông Lê Tấn N là chuyển nhượng của người khác, trong đó
có 20.434,2m
2
đất trồng lúa, 1.813,1m
2
đất trồng cây lâu năm và đất ở, tọa lạc ở ấp
K, xã K, huyện T, Cà Mau do bà và chồng bà ông Lê Văn D đứng tên quyền sử
dụng đất ngày 30/10/2009. Phần đất của bà chiều ngang mặt tiền 57,5m, ngang hậu
69,6m, trong quá trình quản lý sử dụng vợ chồng bà không có đo đạc phần đất bà
đang quản lý sử dụng, ông N giáp ranh lấn đất của bà theo đo đạc thực tế tại thửa
số 3 diện tích 595,3m
2
, thửa số 4 diện tích 111,2m
2
tổng diện tích 706,5m
2
. Bà yêu
cầu ông N trả lại đất lấn chiếm tổng diện tích 706,5m
2
.
Ông Lê Tấn N trình bày: Nguồn gốc phần đất ông đang quản lý sử dụng,
giáp ranh với đất bà H, ông D là chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn Đ năm
1982, phần đất này ông đứng tên quyền sử dụng đất, diện tích đất 16 công tầm lớn,
phần đất ông ngang tiền 19 tầm (3m), ngang hậu 21 tầm 1m, bà H cho rằng ông lấn
đất là không có. Trước yêu cầu khởi kiện của bà H ông không đồng ý. Khi ông
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì không có đo đạc thực tế, chỉ cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo bản đồ không ảnh, do đó diện tích đất
được cấp so với diện tích đất thực tế có thay đổi nhưng phần đất của ông và bà H,
quá trình sử dụng giữa ông và bên bà H thống nhất cậm cộc móc nhưng gia đình bà
H đã nhổ bỏ.
Ông Lê Văn D, chị Nguyễn Ngọc N1 thống nhất ý kiến trình bày của bà H,
không có ý kiến khác, xin xét xử vắng mặt.
Bà Võ Thị T2, anh Lê Ý N2, anh Lê Như Ý thống nhất ý kiến trình bày của ông N,
không có ý kiến khác, bà T2, anh N2 xin xét xử vắng mặt.
Tại phiên tòa các đương sự trình bày tranh luận:
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà H trình bày: Đất bà H
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thiếu so với thực tế đo đạc, mặt khác tại
biên bản hòa giải thành ngày 11/02/2022 cảu Ủy ban nhân dân xã K, ông N thừa
nhận chiều ngang tiền đất của bà H 57m, ngang hậu 69,6m, tuy nhiên đo đạc thực
tế thì thiếu. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn
buộc bị đơn trả nguyên đơn phần đất tranh chấp theo đo đạc thực tế diện tích
706,5m
2
.
Bà H không tham gia tranh luận.
Ông N trình bày tranh luận: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, ông cho rằng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hai bên là
không đúng hiện trạng thực tế, việc sử dụng hai bên đã thống nhất cấm cộc móc
bằng trụ đá nhưng phía nguyên đơn đã nhổ, trong quá trình sử dụng đất nguyên
đơn cho thuê, người thuê đất là ông C1 đã thuê máy cày của ông Đ1 cày vào chân
bờ của ông được ông C1 và ông Đ1 thừa nhận, bờ hiện hữu là của ông.
Anh Ý trình bày tranh luận: Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
của bên bà H và bên anh thực tế là không chính xác, tuy nhiên quá trình sử dụng
đất canh tác hai bên thống nhất ranh nhưng phía bà H nhổ cộc móc, bờ hiện hữu là
của cha mẹ anh, cha mẹ anh quá trình quản lý đất không lấn đất của bà H, do đó
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H.
Từ nội dung trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 243/2024/DS-ST ngày 16
tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời Quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị H. Buộc ông Lê
Tấn N và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đang cùng quản lý đất là bà Võ
Thị T2, anh Lê Như Ý, anh Lê Ý N2, chị Tạ Hồng D1 trả lại phần đất tranh chấp
M3M3
’
M11
’
M11M15 diện tích 515,4m
2
có kích thước cạnh M11M11
’
dài 2,22m,
cạnh M3M3
’
dài 0,67m, cạnh M11
’
M3
’
dài 356,56m, cạnh M11M15 dài 42,58m,
cạnh M15M3 dài 314,04m đất tọa lạc tại ấp K, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.
Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị H đối với
ông Lê Tấn N phần đất có diện tích 191,1m
2
đất tọa lạc tại ấp K, xã K, huyện T,
tỉnh Cà Mau.
(Kèm theo Trích đo hiện trạng)
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, quyền kháng cáo
của đương sự.
Ngày 26/8/2024 bà H kháng cáo yêu cầu sửa án sơ thẩm buộc ông N trả cho
bà phần đất diện tích 705,6m
2
tại vị trí số 3,4 theo bản trích đo 09/7/2024.
Ngày 30/8/2024 ông N kháng cáo bản án nêu trên yêu cầu cấp phúc thẩm
sửa án sơ thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của bà H.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bà H và Luật sư bảo vệ cho bà H không cung cấp thêm chứng cứ gì mới mà
vẫn giữ yêu cầu kháng cáo, và cho rằng cả hai bên được cấp QSDĐ thì đó là cơ sở
pháp lý, lúc hai bên mua đất đều không có kích thước chiều ngang chiều dài mà chỉ
có diện tích, giấy chứng nhận QSDĐ nguyên đơn được cấp 22.247.3m
2
, so với đo
đạc thực tế diện tích đất của nguyên đơn còn thiếu, trong khi đó diện tích của bị
đơn là thừa 164m
2
, khi hòa giải tại xã ông N thừa nhận số đo mặt tiền mặt hậu của
bà H, cấp sơ thẩm chỉ buộc bị đơn trả cho nguên đơn hơn 500m
2
và không chấp
nhận yêu cầu của bà hương hơn 100m
2
là không phù hợp, nếu tính cả lộ giới thì
phía bị đơn thừa hơn 1.000m
2
, phía mặt tiền bà H có đào một cái ao nằm trên phần
đất tranh chấp sử dụng cho đến nay, vì vậy kiến nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo
của bà H
Ông N và Luật sư bảo vệ quyền lợi cho ông N trình bày khi khởi kiện cũng
như hòa giải bà H khai ông N lấn đất của bà chiều ngang 4m, ngoài ra không có
chứng cứ nào khác, khi đo đạc làm lộ đất bà H mặt tiền chỉ có 53m bà H đóng tiền
trên số đo này, trong quá trình xét xử bà H khai bà được cấp giấy chứng nhận
QSDĐ chỉ có tổng diện tích đất chứ không có kích thước chiều ngang chiều dài,
như vậy bà H hoàn toàn không biết kích thước chiều ngang của bà là bao nhiêu,
đồng thời bà xác định phần bờ giữa hai bên có khoảng khai long bà đã ban phần bờ
của bà để làm ruộng bà không ban phần khai long, bà cho ông C1 thuê đất ông C1
sử dụng toàn bộ phần mặt ruông không sử dụng phần bờ, tại lời khai của ông Đ1 là
người cày ruộng cho ông C1, ông Đ1 khai khi cày ông có cày lấn vào chân bờ đất,
khi Tòa án đi thẩm định lại có cây trụ đá nằm tiếp giáp giữa đất ruộng và đất vườn
của bà H phía tiếp giáp đất ông N, trụ đá này phù hợp với lời khai của ông C1 là
ông có cùng ông D, ông N cặm trụ đá phần tiếp giáp giữa đất ruộng và đất vườn
nên đây là ranh đất giữa hai bên, khi cấp đất không đo đạc đã sử dụng ổn định đến
nay đo lại thừa hay thiếu diện tích, đây không phải là căn cứ để xác định ông N lấn
đất, do đó không có căn cứ xác định ông N lấn đất nên kiến nghị HĐXX chấp nhận
đơn kháng cáo của ông N bác yêu cấu khởi kiện của bà H.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau phát biểu: Về tố tụng, Thẩm
phán, Hội đồng xét xử, các đương sự tuân thủ các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự. Về nội dung, đất của hai đương sự được cấp QSDĐ đại trà không đo vẽ
cặm ranh thực tế, mà cấp theo bản đồ không ảnh do đó diện tích được cấp không
chính xác, bà H thừa nhận khi bà mua đất thì ranh đất cả hai đều có bờ, khi bà
chuyển đổi làm ruộng bà đã cày phá bỏ toàn bộ phần đất bờ của mình nên phần bờ
còn lại là của ông N, ông N sử dụng bà H không sử dụng, bà H không xác định
được ông N lấn đất thời gian nào, sự việc ông N lấn chiếm là không có, nên kiến
nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm nêu trên, không chấp nhận kháng cáo của
bà H, chấp nhận kháng cáo của ông N, bác yêu cầu khởi kiện của bà H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về hình thức, về nội dung và thời hạn kháng cáo được bà H, ông N thực
hiện đúng quy định tại các Điều 272, 273 Bộ luật TTDS, đủ điều kiện để Hội đồng
xét xử xem xét kháng cáo của ông, bà theo quy định. Về thẩm quyền cấp sơ thẩm
thụ lý, giải quyết đúng thẩm quyền theo quy định tại các Điều 26, 35 Bộ luật
TTDS.
[2] Do hai đương sự tranh chấp và kháng cáo cùng diện tích, vị trí đất tranh
chấp nên HĐXX xét đồng thời kháng cáo của hai đương sự. Sau khi thụ lý phúc
thẩm, theo yêu cầu của ông N ngày 18/11/2024 Tòa án đã tiến hành thẩm định lại
phần đất tranh chấp, phần hậu đất vị trí cột mốc ông N chỉ và vị trí cột mốc bà H
chỉ cách nhau 0,2m, còn số đo bản vẽ ngày 14/8/2024 là 1,26m, chênh lệch nhau
1,06m. Tại phiên tòa phúc thẩm bà H, ông N xác định phía sau hậu hai bên tranh
chấp 0,2m, cho nên phần tranh chấp phía sau hậu được xác định có chiều ngang
0,2m.
Về kích thước chiều ngang hậu đất bà H khai đất của bà kích thước 69,6m,
nhưng theo bản trích đo hiện trạng ngày 14/8/2024 do Công ty TNHH P đo vẽ trên
cơ sở do bà H chỉ mốc giới là cạnh M1M4 (M1M4 = M1M2+M2M3+M3M4) bằng
63,52m, trong đó M3M4 = 1,26m là kích thước tranh chấp. Như vậy cùng là chiều
ngang hậu đất kích thước khi khởi kiện với kích thước do bà chỉ thực tế khi đo vẽ
đã có sự chênh lệch hơn 6m. Khi cấp phúc thẩm xem xét thẩm định lại (Có chụp
ảnh hai người đứng ngay vị trí cột mốc do mình chỉ) thì kích thước tranh chấp giữa
hai bên chỉ là 0,2m, nếu tính tranh chấp là 0,2m thì chiều ngang hậu đất của bà là
62,46m. Điều này chứng minh rằng bà H không xác định chính xác được kích
thước chiều ngang phần mặt hậu đất của mình cụ thể là bao nhiêu?
Đối với mặt tiền tiếp giáp lộ hiện hữu giữa hai bên không có cột mốc, bà H
khai chiều ngang mặt tiền đất của bà là 57,5m nhưng không có chứng cứ gì chứng
minh, bà chỉ căn cứ vào tổng diện tích đất bà được cấp QSDĐvà hỏi số liệu cán bộ
địa chính. Tuy nhiên cả hai lần bà được cấp QSDĐ vào năm 1995 và 2009 đều cấp
theo việc tự kê khai của người sử dụng đất mà không đo vẽ thực tế có các hộ giáp
ranh ký xác nhận. Nên không có kích thước các cạnh cụ thể là bao nhiêu, điều
quan trọng là sau khi xét xử sơ thẩm phía ông N cung cấp danh sách các hộ dân
cùng chính quyền xã đo đạc chiều dài mặt tiền đất để đóng tiền làm lộ, chính ông
D chồng bà H kê khai chiều ngang mặt tiền đất của ông, bà là 53m và đóng tiền
trên kích thức này cho nhà nước làm lộ hiện hữu, như vậy việc bà H khai kích
thước mặt tiền đất của bà dài 57,5m là không có cơ sở.
Cũng theo biên bản thẩm định ngày 18/11/2024 phát hiện trụ đá tại vị trí tiếp
giáp giữa đất ruộng và đất vườn của bà H nằm tiếp giáp đất ông N, tuy bà H không
thừa nhận trụ đá này là ranh đất giữa hai bên, nhưng lời khai của ông Huỳnh Văn
C1 là người thuê đất của bà H khoảng từ năm 2009 cho đến nay còn đang thuê, tại
bút lục số 137 ông C1 khai bà H và ông N có thỏa thuận căm trụ đá làm ranh đất,
ông chứng kiến và có cùng cặm một trụ đá phía ngoài cặp mé ruộng chưa ra lộ, còn
trụ đá sau hậu ông không nhớ, trong quá trình thuê đất ông thuê máy cày để cày
ruộng từ mí ruộng do bà H chỉ cày ra ngoài ruộng, còn việc máy cày có cày vào bờ
hay không thì ông không biết, hơn nữa lời khai của bà H xác định trước đây đất hai
bên đều có bờ, ở giữa bờ có mí khai long, sau đó bà đã ban bờ của bà để làm
ruộng, đồng thời tại phiên tòa phúc thẩm bà H khẳng định nhiều lần phần bờ hiện
tại là của ông N, như vậy phần bờ đất của bà là không còn, mặt khác theo QSDĐ
mà bà H và ông N được cấp thì ranh giới giữa hai bên là đường thẳng, hiện bờ
ruộng giữa bà H và ông N cũng được ông C1 rong thẳng từ trước ra sau. Về diện
tích đất nếu tính diện tích đúng như bà H chỉ khi đo vẽ, thì tổng diện tích đất của
bà H cộng cả phần diện tích tranh chấp là 21.260m
2
, nếu so với diện tích đất bà H
được cấp QSDĐ 22.247,3m
2
thì tổng diện tích đất của bà H còn thiếu hơn 1.000m
2
,
phần đất thiếu này do nhà nước cấp thiếu hay các hộ tiếp giáp lấn chiếm? bà H
không lý giải được điều này, hơn nữa tại phiên tòa phúc thẩm bà H khai khi bà
mua đất có giấy viết tay nhưng hiện thất lạc không còn, trong giấy chuyển nhượng
cũng không có kích thước các cạnh nhưng có tổng diện tích 16 công tầm lớn, nếu
tính theo diện tích 16 công thì tổng diện tích của bà là 20.736m
2
do đó theo diện
tích bà được cấp QSDĐ năm 2009 là không phù hợp, ngược lại theo diện tích đất
bà H được cấp QSDĐ năm 1995 là phù hợp với lời khai của bà khi chuyển nhượng
phần đất này diện tích 16 công tầm lớn. Ngược lại về phía ông N nếu cộng diện
tích đất như cách cộng diện tích đất của bà H thì diện tích đất của ông đủ so với
diện tích được cấp, ngoài diện tích theo giấy chứng nhận QSDĐ được cấp, thì ông
N còn quản lý một giấy chuyển nhượng đất viết tay của chủ cũ là ông Nguyễn Văn
Đ sang cho ông với diện tích 16 công tầm lớn, tương đương với diện tích ông được
nhà nước cấp mà ông đang sử dụng.
Như vậy không có căn cứ xác định ông N lấn đất của bà H, hiện trạng ranh
đất của hai bên hiện tại được xác định là hai cột mốc M3 đến M11 theo bản vẽ
ngày 14/8/2024 của Công ty TNHH P, nên HĐXX chấp nhận kháng cáo của ông N
và không chấp nhận kháng cáo của bà H.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phù hợp với nhận
định của Hội đồng xét xử.
[3] Án phí dân sự phúc thẩm ông N không phải chịu theo quy định tại Điều
148 Bộ luật tố tụng dân sự. Chi phí thẩm định tại chỗ giai đoạn phúc thẩm bà H
phải chịu theo quy định tại điều 157 Bộ luật TTDS.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, các Điều 148, 157, 309 Bộ luật tố tụng dân sự;
Nghị quyết 326/2016 UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban T3 quy định về
án phí và lệ phí Toà án. Không chấp nhận kháng cáo của bà Đặng Thị H, chấp
nhận kháng cáo của ông Lê Tấn N. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 243/2024/DS-ST
ngày 16/8/2024 của Toà án nhân dân huyện Trần Văn Thời. Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị H về việc yêu cầu
ông Lê Tấn N hoàn trả cho bà phần đất có diện tích 706,5m
2
tọa lạc tại ấp K, xã K,
huyện T, tỉnh Cà Mau. (Kèm theo trích đo hiện trạng ngày 14/8/2024 của Công ty
TNHH P)
2. Chi phi phí tố tụng: Bà Đặng Thị H phải chịu 25.045.160 đồng chi phí tố
tụng ở giai đoạn sơ thẩm, bà đã tạm ứng thanh toán xong.
Chi phí thẩm định tại chỗ ở giai đoạn phúc thẩm bà H có trách nhiệm hoàn
trả cho ông N 400.000đ. Nếu bà H chậm thanh toán số tiền này bà phải chịu thêm
khoản lãi theo mức lãi quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự trên số tiền
và thời gian chậm trả.
3. Về án phí dân sự:
- Án phí sơ thẩm bà Đặng Thị H được miễn nộp.
- Án phí phúc thẩm Ông Lê Tấn N được miễn nộp.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân huyện TVT;
- Chi cục THADS huyện TVT;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Ninh Quang Thế
Tải về
Bản án số 476/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 476/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Bản án số 988/2024/DS-PT ngày 25/11/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 08/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm