Bản án số 22/2025/DS-PT ngày 10/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 22/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 22/2025/DS-PT ngày 10/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 22/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 10/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại đất lấn chiếm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Lưu Thị Thu Hường.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Huờn; Bà Đinh Thị Tuyết.
- Thư ký phiên tòa: Ông Vũ Đức Anh - Thư ký TAND tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa:
Trương Thị Thu Thủy - Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 01 năm 2025, tại trsở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 317/2024/TLPT-DS, ngày 30 tháng 10
năm 2024 về việc Tranh chấp quyền sử dụng đất”. Do bn án dân sự thẩm số
33/2024/DS-ST ngày 29/8/2024 của Toà án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk
Lắk bị kháng o. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số:
374/2024/QĐXX-PT ngày 25 tháng 11 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số:
359/2024/QĐ-PT ngày 11 tháng 12 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hữu M, sinh năm 1963.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Thị Thanh T, sinh năm
1959.
Cùng địa chỉ: C G, tổ dân phố I, thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
- Bị đơn:Tiêu Thị L, sinh năm 1952.
Địa chỉ: C G, tổ dân phố I, thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Tiêu Thị L: Ông Ngọc C,
Luật sư thuộc Văn Phòng L3 - Thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đ. Địa chỉ: D L, thị trấn P,
huyện K, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Thị Thanh T, sinh năm 1959. Địa chỉ: C G, tổ dân phố I, thị trấn P,
huyện K, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
2. Ủy ban nhân dân huyện K. Địa chỉ: C G, Tổ dân phố B, thị trấn P, huyện K,
tỉnh Đắk Lắk.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 22/2025/DS-PT
Ngày 10 01 2025.
“V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đặng Minh Đ, chức vụ: Trưởng phòng tài
nguyên môi trường huyện K. Địa chỉ: C G, Tổ dân phố B, thtrấn P, huyện K,
tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
3. y ban nhân dân thị trấn P, huyện K. Địa chỉ: Tổ dân phố F, thị trấn P, huyện
K, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Ngọc Y, chức vụ: Công chức địa chính
UBND thị trấn P. Địa chỉ: Tổ dân phố F, thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (có đơn
xin xét xử vắng mặt).
4. Ông Nguyễn Hữu Á, sinh ngày: 11/4/1987; có mặt
5. Ông Nguyễn Hữu T1, sinh ngày: 08/02/1989; có mặt
Cùng địa chỉ: C G, tổ dân phố I, thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk;
6. Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1993; có mặt
7. Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1991; vắng mặt
8. Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1988; có mặt
9. Bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1986; có mặt
Cùng địa chỉ: C G, tổ dân phố I (trước đây là tổ dân phố 10), thị trấn P, huyện
K, tỉnh Đắk Lắk;
10. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1979; vắng mặt
Địa chỉ: Thôn F, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.
- Người làm chứng:
1. Ông Nguyễn Văn D1, sinh năm 1973. Địa chỉ: Số nhà B, đường L, Tổ dân
phố B, thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; có mặt
2. Bà Nguyễn Thị D2, sinh năm 1976; vắng mặt
3. Bà Nguyễn Thị T3, sinh năm 1974; vắng mặt
4. Ông Nguyễn Xuân T4, sinh năm 1982; vắng mặt
Cùng địa chỉ: C G, tổ dân phố I (trước đây là tổ dân phố 10), thị trấn P, huyện
K, tỉnh Đắk Lắk;
5. Ông Phạm Văn C1, sinh năm 1963. Địa chỉ: Tổ dân phố I, thị trấn P, huyện
K, tỉnh Đắk Lắk (có đơn xin xét xử vắng mặt).
6. Ông Dương L1, sinh năm 1955. Địa chỉ: Số nhà A G, tổ dân phố I, thị trấn
P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Người kháng cáo: Bị đơn bà Tiêu Thị L.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện ngày 11/7/2023, quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn
ông Nguyễn Hữu M người đại diện theo ủy quyền đồng thời người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án làLê Thị Thanh T trình bày:
Thị Thanh T với ông Nguyễn Hữu M vợ chồng; Tiêu Thị L là hàng
xóm. Gia đình ông M được nhà nước cấp cho thửa đất diện tích 803m
2
vào năm
1985. Ngày 07/10/1991, UBND huyện K cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
3
mang tên ông Nguyễn Hữu M theo GCNQSDĐ số A 089693, thửa đất số 268, tờ
bản đồ số 02, diện tích 803m
2
, đất khu dân cư.
Ngay sau khi được cấp đất vào năm 1985 thì gia đình ông M đã làm nhà ở trên
thửa đất được cấp. Thửa đất có tứ cận: Phía Đông giáp đường dân sinh (đường rộng
khoảng 3m nối từ Quốc lộ B đi ra Đường N hiện nay); phía Tây giáp với thửa đất
269 của ông Phạm Thành Q; phía Bắc giáp thửa đất 185 của ông Đào Văn V1; phía
Nam giáp đường Q.
Tiêu Thị L chủ sử dụng đất của thửa đất số 264, tờ bản đồ số 02, diện tích
760m
2
đất ao và thửa số 267 diện tích 255m
2
(đất khu dân cư, được cấp năm 1982).
Thửa số 264 diện tích 760m
2
thuộc tờ bản đồ số 2 nguyên trước đây do ông Nguyễn
Văn L2 chồng của Tiêu Thị L đứng tên chủ sử dụng đất theo GCNQSDĐ số
A 080697, do UBND huyện K cấp ngày 07/10/1991, sau đó ông L2 chết đã được
Tiêu Thị L nhận thừa kế.
Tại thời điểm cấp đất, thửa đất số 268, tờ bản đồ số 02, diện tích 803m
2
kích
thước: Thửa đt cách Quốc lộ B là 25m (tính từ tim đường) cạnh: Phía Đông giáp
đường dân sinh dài 51,1m (đường dân sinh một mặt giáp thửa 264 + 267, một
mặt giáp thửa 268); phía Tây giáp với thửa đất 269 của ông Phạm Thành Q dài 56m;
phía Bắc giáp thửa đất 185 của ông Đào Văn V1 dài 14m; phía Nam giáp đường Q
dài 16m.
Giữa thửa đất số 268, tờ bản đồ số 02, diện tích 803m
2
của gia đình ông M với
thửa số 264, tờ bản đồ số 02 của gia đình Tiêu Thị L được ngăn cách nhau bởi
con đường đất (nguồn gốc con đường này được Hợp tác xã T7 tự mđể cho người
dân đi lại). Sau khi đường N được nhà nước làm đường thì con đường dân sinh này
không sử dụng nữa. Gia đình bà Tiêu Thị L đã chiếm dụng toàn bộ phần đất của con
đường dân sinh sử dụng từ đó cho đến nay.
Khoảng 2013 (không nhớ chính xác lắm) ông Nguyễn Xuân T4 con trai của
Tiêu Thị L đã xây nhà trên phần đất của con đường đó móng nhà đã xây đè n
1/3 chiều dài của thửa đất 268 (bờ hàng rào của thửa đất) của gia đình ông M.
Đối với 2/3 chiều dài còn lại của thửa đất 268 thì bà L lấn chiếm và bề ngang bị lấn
chiếm khoảng 02m, đo thực tế là 1,5m.
Cạnh phía Bắc của thửa đất 268, tờ bản đồ số 02 chiều dài 14m theo
GCNQSDĐ. Tuy nhiên khoảng năm 2018 Tiêu Thị L đã đổ đất lấp toàn bộ diện
tích đất ao 760m
2
của gia đình bà đã chiếm dụng luôn con đường dân sinh,
đồng thời đầu năm 2019 bà đã xây móng bằng đá kiên cố tại cạnh phía Bắc của
thửa đất 264 của gia đình và đã xây lấn qua phần đất của gia đình ông M dẫn đến
cạnh chiều ngang phía Bắc của thửa đất 268 bị thiếu. Bà L xâymóng đá lấn qua
phần đất của gia đình ông M khoảng 1,5m dẫn đến cạnh phía Bắc của gia đình ông
M bị thiếu còn có 11,75m.
4
Gia đình ông M đã nhiều lần yêu cầu L chấm dứt hành vi lấn chiếm đất của
người khác nhưng bà L cố tình lấn chiếm. Gia đình ông M đã có đơn khiếu nại gửi
UBND thị trấn P để xem xét giải quyết đã được UBND thị trấn P lập biên bản
làm việc vào ngày 14/5/2019 nhưng L vẫn không chấm dứt việc lấn đất của
với gia đình ông M. Sau đó UBND thị trấn P đã lập biên bản hòa giải tranh chấp đất
đai giữa các bên về xác định lại ranh giới đất nhưng bà L không đồng ý.
Theo kết quả đo đạc thực tế thì diện tích mà bà L lấn chiếm là 32,2m
2
(đất của
gia đình bị bà L lấn chiếm có hình tam giác có các cạnh dài 43,42m (cạnh thửa 268),
43,22m (cạnh thửa 264) và 1,5m (giáp thửa đất ông V1).
vậy ông M đề nghị Tòa án xem xét giải quyết: Buộc Tiêu ThL trả lại
cho ông Nguyễn Hữu M diện tích đất bà đã lấn chiếm 32,2m
2
phải di dời,
tháo dỡ đối với 01 tường rào (tường móng đá hộc, xây cao 2,6m, phần trên xây gạch
ống cao 1,2m, chiều dài 1,5m) nằm trên diện tích đất lấn chiếm.
Đối với 01 cây dừa trồng khoảng năm 2003, 01 cây hoa đào (xoan đào) trồng
năm 1985, 01 gốc keo lâu năm mọc tự nhiên không xác định được năm trồng là ranh
giới của thửa đất nên không yêu cầu di dời, nhổ bỏ.
* Quá trình làm việc tại Tòa án, bị đơn bà Tiêu Thị L trình bày:
Trước đây, toàn bộ giấy chứng nhận quyền sdụng đất của gia đình L do
ông Nguyễn Văn L2 đứng tên theo GCNQSDĐ số A 089697 gồm thửa số 267 diện
tích 255m
2
(đất khu dân cư, được cấp năm 1982) thửa số 264 diện tích 760m
2
(đất ao) thuộc tờ bản đồ 02, tọa lạc tại thị trấn P, huyện K do UBND huyện K cấp
ngày 07/10/1991 cho ông Nguyễn Văn L2. Ngày 02/3/2005 thì ông L2 bị tai nạn và
qua đời. Đến năm 2009 thì bà L đã nhận thừa kế theo thỏa thuận về thừa kế theo
pháp luật lập ngày 18/5/2009.
Đến năm 2014 bà L đã làm thủ tục cấp đổi GCNQSDĐ và thửa đất số 264, tờ
bản đồ số 02, diện tích 760m
2
(đất ao) đã được UBND huyện K cấp GCNQSDĐ số
BV 445169 ngày 14/11/2014 mang tên Tiêu Thị L.
Tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1991, có 01 con
đường để đến thửa đất số 264, tờ bản đồ số 02, diện tích 760m
2
(đất ao). Con đường
này là con đường gia đình bà L tự mở để đi nằm trong đất của gia đình bà L.
Tứ cận của diện tích đất 760m
2
của gia đình L chiều dài, chiều rộng cụ
thể như thế nào thì L không biết, L chbiết phía Nam giáp Quốc lộ B, phía
Bắc giáp thửa 184 của ông V1, phía Đông giáp thửa 261a của ông X, phía Tây giáp
thửa 268 của ông M.
Đến năm 2014, bà L làm thtục cấp đổi GCNQSDĐ. Theo GCNQSDĐ số BV
445169 ngày 14/11/2014 thì thửa đất số 264, tờ bản đồ số 02, diện tích 760m
2
(đất
nuôi trồng thủy sản), có ranh giới với thửa đất số 268, diện tích 803m
2
của gia đình
ông M.
5
Từ lúc sử dụng đến nay vẫn còn 01 cây anh đào trồng năm 1985, 01 cây dừa
trồng khoảng năm 2003, 01 gốc keo lâu năm không xác định được năm trồng (tự
mọc), gốc tre. Các gốc này nối với nhau là một đường thẳng.
Việc ông Nguyễn Hữu M cho rằng bà L lấn qua thửa đất 268 của ông theo kết
quả đo đạc 32,2m
2
(có cạnh 43,22m, cạnh 43,42m cạnh 1,5m) hoàn toàn
không đúng. Vì vậy, bà Liên hoàn T5 không đồng ý với toàn bộ nội dung khởi kiện
của ông Nguyễn Hữu M. Đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết vụ án theo quy định
của pháp luật.
* Quá trình tham gia tố tụng người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Hữu Á, ông Nguyễn Hữu T1 đều trình bày:
Ông Á, ông T1 là con ruột của ông Nguyễn Hữu M và bà Lê Thị Thanh T.
Tiêu Thị L hàng xóm cạnh với gia đình. Về nguồn gốc đất, quá trình sử dụng,
phát sinh tranh chấp với bà L tông Á ông T1 trình bày nội dung tương đồng
đồng ý với ý kiến của ông M, bà T.
* Quá trình tham gia tố tụng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người
làm chứng: ông Nguyễn Văn P, Nguyễn Thị V, ông Nguyễn Văn D, Nguyễn
Thị T2, Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Văn D1, Nguyễn Thị D2, Nguyễn Thị
T3 và ông Nguyễn Xuân T4 cùng trình bày nội dung:
Các ông P, bà V, ông D, bà T2, bà H con ruột của ông Nguyễn Văn L2
Tiêu Thị L. Giữa ông L2 L tất cả 10 người con. Sau khi ông L2 chết, thì
quyền sử dụng đất này được các anh chị em trong gia đình để lại cho mẹ là bà Tiêu
Thị L. Ngày 29/5/2009 quyền sử dụng đất theo GCNQSDĐ sA 089697, thửa s
267 diện tích 255m
2
(đất khu dân cư, được cấp năm 1982) + thửa số 264 diện tích
760m
2
(đất ao) thuộc tờ bản đồ 02, tọa lạc tại thị trấn P, huyện K do UBND huyện
K cấp ngày 07/10/1991 cho ông Nguyễn Văn L2 đã được đăng biến động pháp
sang Tiêu Thị L (nhn thừa kế theo thỏa thuận về thừa kế theo pháp luật lập
ngày 18/5/2009).
Sau khi được đăng biến động pháp sang tên Tiêu Thị L thì L đã tặng
cho lại con trai là Nguyễn Xuân T4 42m
2
đất vào ngày 07/11/2014.
Sau khi tặng cho Nguyễn Xuân T4 42m
2
thì diện tích còn li của bà L (213m
2
đất khu dân cư + 760m
2
đất ao).
Các thửa đất 264, 267 bà L sử dụng giáp với thửa đất thửa 268 của gia đình ông
M hoàn toàn không có con đường ở giữa. Bà Tiêu Thị L không có lấn qua diện tích
đất của gia đình ông Nguyễn Hữu M vì ranh giới của hai thửa đất số 264 và 268 có
các cây lâu năm gồm 01 cây hoa đào trồng năm 1985, 01 cây dừa trồng khoảng năm
2003, 01 gốc keo mọc tự nhiên không xác định được năm trồng và hiện các cây này
vẫn còn tồn tại trên ranh giới giữa hai thửa đất.
Do đó, ông P, V, ông D, T2, H, đề nghị Tòa án xem xét không chấp
nhận đơn khởi kiện của ông Nguyễn Hữu M đối với bà Tiêu Thị L.
6
*Đại diện Ủy ban nhân dân thị trấn P trình bày:
*Về nguồn gốc sử dụng đất của hộ ông Nguyễn Hữu M:
Ông Nguyễn Hữu M được UBND huyện K cấp giấy chứng nhận QSDĐ A
089693, số vào sổ: 04841/QSDĐ/C-H-01, thửa đất số: 268, tờ bản đồ: 02, diện tích:
803m
2
(đất khu dân cư), tọa lạc tại thị trấn P, huyện K cấp ngày 07/10/1991. Số
liệu đo đạc mới của Công ty M1 Biển tại thửa đất số: 21 (268 cũ), tờ bản đồ số: 30
(02 cũ), diện tích: 955,5m
2
(chưa trừ mốc lộ giới 129,2m
2
).
Số liệu đo đạc mới và số liệu được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
ông Nguyễn Hữu M biến động tăng so với giấy chứng nhận QSDĐ là: 152,5m
2
trong đó 129,2m
2
nằm trong mốc lộ giới đường G (đường QL26) diện tích tăng
so với GCNQSDĐ là 152,5m
2
- 129,2m
2
= 23,3m
2
(theo bản đồ đo đạc mới).
*Về nguồn gốc sử dụng đất của hộ bà Tiêu Thị L:
Ông Nguyễn Văn L2 được UBND huyện K cấp giấy chứng nhận QSDĐ A
089697, số vào sổ: 04830/QSDĐ/C-H-01, thửa đất số: 267, 264 tờ bản đồ: 02, diện
tích: 255m
2
; 760m
2
(255m
2
đất ở khu dân cư, 760m
2
đất ao), cấp ngày 07/10/1991.
Ngày 29/5/2009 quyền sử dụng đất theo GCNQSDĐ số A 089697, thửa số 267 diện
tích 255m
2
(đất khu dân cư, được cấp năm 1982) + thửa số 264, diện tích 760m
2
(đất
ao) thuộc tờ bản đồ 02, tọa lạc tại thị trấn P, huyện K do UBND huyện K cấp ngày
07/10/1991 cho ông Nguyễn Văn L2 đã được đăng ký biến động pháp sang
Tiêu Thị L (nhận thừa kế theo thỏa thuận về thừa kế theo pháp luật lập ngày
18/5/2009).
Ngày 14/11/2014, Tiêu Thị Liên T6 cho lại con ruột ông Nguyễn Xuân
T4 một phần diện tích đất với diện tích 42m
2
tại thửa đất số: 435, tờ bản đồ: 02, diện
tích: 42m
2
tọa lạc tại thị trấn P, huyện K (GCNQSDĐ số BV 445167/CH00495, do
UBND huyện cấp ngày 14/11/2014). Số liệu đo đạc mới của Công ty M1 Biển tại
thửa đất số: 36, tờ bản đồ số: 30, diện tích: 88,4m
2
(chưa trừ mốc lộ giới 17,5m
2
).
Số liệu đo đạc mới và số liệu được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
ông Nguyễn Xuân T4 có biến động tăng so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
là: 46,4m
2
trong đó 17,5m
2
nằm trong mốc lgiới đường G (đường QL26) diện
tích tăng so với GCNQSDĐ là 46,4m
2
- 17,5m
2
= 28,9m
2
(theo bản đồ đo đạc mới).
Sau khi tặng cho ông Nguyễn Xuân T4 42m
2
thì diện tích n lại của Tiêu
Thị L973m
2
(bao gồm 213m
2
đất khu dân cư + 760m
2
đất ao). Bà Tiêu Thị L đã
được UBND huyện K cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo GCNQSDĐ
số BV 445169, thửa đất số 264, tờ bản đồ số 02, diện tích 760m
2
(đất nuôi trồng thủy
sản), tọa lạc tại thị trấn P GCNQSDĐ số BV 445168, thửa đất 267, tờ bản đồ 02,
diện tích 213m
2
(đất tại đô thị), tọa lạc tại thị trấn P, huyện K. Đều do UBND
huyện K cấp cho Tiêu Thị L ngày 14/11/2014. Số liệu đo đạc mới của ng ty
M1 Biển tại thửa đất số: 249 (264+267 cũ), tờ bản đồ số: 30, diện tích: 1352,4m
2
(chưa trừ mốc lộ giới 102,9m
2
).
7
Số liệu đo đạc mới và số liệu được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
Tiêu Thị L biến động tăng so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là:
379,4m
2
trong đó có 102,9m
2
là nằm trong mốc lộ giới đường G (đường QL26) diện
tích tăng so với GCNQSDĐ 379,4m
2
102,9m
2
= 276,5m
2
(theo bản đồ đo đạc
mới).
- Số liệu đo kích thước các cạnh của thửa đất 268 và 264 của tờ bản đồ 02 (cũ)
tại thời điểm cấp đất của hai gia đình ông M và bà L không thể hiện kích thước, chỉ
thể hiện tỷ lệ 1/2000 nên không xác định được ranh giới của thửa đất 268 và 264 của
tờ bản đồ 02 (cũ) tại thời điểm đo đạc bản đồ số 02 so với bản đồ mới số 30 (hiện
nay) sự sai lệch về ranh giới hình thể hai thửa đất giữa bản đồ bản đồ
mới.
- Tại thời điểm cấp GCNQSDĐ của hai hộ gia đình bà L và ông M có thể hiện
lối đi chung con đường mòn dùng phục vụ cho việc đi lại của hai gia đình, phần
lối đi chung con đường mòn đã thể hiện trên GCNQSDĐ của hai hộ không
công nhận cho hai hộ.
Như vậy, qua xem xét thực tế hiện trạng quyền sử dụng đt, xem xét về con
đường mòn được th hiện trên tờ bản đồ 02 và các giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đã cấp thì con đường mòn nằm giữa các thửa đất phần phía trước hiện nay đã bị
hộ gia đình ông Nguyễn Xuân T4 xây dựng tn một phần diện tích. Còn phần con
đường phía sau hiện nay đã bị Tiêu Thị L tự ý đđất san lấp làm thay đổi hiện
trạng ranh giới và mục đích sdụng đất mà chưa được sự cho phép của chính quyền
địa phương, ngoài ra bà L cũng không báo cáo cho chính quyền được biết nên việc
xác định vị trí con đường mòn, ranh giới của hai thửa đất (thửa 268 của ông M
thửa 264 của L) không xác định được và tại thời điểm cấp diện tích cho hai gia
đình thì các thửa đất được cấp giấy chứng nhận QSDĐ không thể hiện kích thước
các cạnh, chỉ nêu diện tích tổng thể của thửa đất. Hiện nay diện tích đất của hai gia
đình đều tăng so với diện tích đất đã được nhà nước cấp ranh giới của các thửa
đất của hai gia đình có sự thay đổi.
Ủy ban nhân dân thị trấn P đề nghị Tòa án căn cứ theo quy định của luật đất
đai, căn cứ theo quy định của Bộ luật dân sự để xem xét giải quyết theo quy định
của pháp luật.
* Tại bản tkhai của ông Nguyễn Minh Đ1 (là người đại diện theo ủy quyền
của Ủy ban nhân dân huyện K) trình bày:
Việc thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai tại thời điểm cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất tcác thửa đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất là đúng trình tự thủ tục, đúng quy định của pháp luật tại thời điểm cấp giấy. Ủy
ban nhân dân huyện K đề nghị Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc căn cứ vào việc
sử dụng đất trên thực tế, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ liên quan để xử vụ án
theo đúng quy định của pháp luật.
8
* Tại biên lấy lời khai của người làm chứng ông Phạm Văn C1 trình bày:
Ông C1 sinh sống tại tổ dân phố I, thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk từ năm
1977 cho đến nay. Ông C1 làm tổ trưởng tổ dân phố I, thị trấn P, huyện K từ năm
2009 cho đến nay. Nguyên trước đây gia đình ông Nguyễn Hữu M với gia đình bà
Tiêu Thị L thuộc tổ dân phố A (cũ) naytổ dân phố I. Năm 2021 tổ dân phố I với
tổ dân phố 10 sáp nhập thành tổ dân phố I, thị trấn P.
Tại thời điểm UBND huyện K cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm
1991 cho ông Nguyễn Hữu M và ông Nguyễn Văn L2 thì giữa hai thửa đất 268 với
264, 267 của tờ bn đồ số 02 một con đường giữa. Con đường này nối với Quốc
lộ B để đi vào các thửa đất bên trong.
Trong quá trình sử dụng tgia đình Tiêu Thị L lấn chiếm con đường
nằm giữa hai thửa đất của hai gia đình, L đã đđất lấp ao dẫn đến hiện trạng hiện
nay đã có sự thay đổi (không giống như giấy CNQSDĐ thể hiện). Việc gia đình bà
Tiêu Thị L đổ đất lấp ao thì không báo cho địa phương nên địa phương không nắm
thời gian gia đình bà lấp ao (đất nuôi trồng thủy sản). Cuối thửa đất số 264
diện tích 760m
2
của bà L đã được bà L xây tường rào bao quanh (tường rào cạnh
phía Bắc), cạnh phía Tây giáp thửa 268 của gia đình ông M con đường thì bà đã
chiếm dụng đổ đất lấn qua một phần đất của nhà ông M hướng về phía cuối
vườn (cạnh phía Bắc).
Năm 2019 giữa gia đình ông M với gia đình L đã đơn đề nghị chính quyền
địa phương giải quyết nhưng hai bên không thống nhất được với do chưa thỏa
thuận được ranh giới của hai thửa đất. Ngày 02/6/2023 vừa qua địa phương có tiếp
tục hòa giải cho hai bên nhưng không thành.
Nguyên thủy đất được cấp cho ông M, ông L2 (nay của L) trước đây có
nguồn gốc đất thuộc thôn E, xã H trước đây (nay thuộc đất tổ dân phố I, thị trấn P).
Việc L san lấp đất ối với đất ao nay đất nuôi trồng thủy sản) lấn chiếm
con đường dẫn đến mất hiện trạng con đường ban đầu địa pơng không biết nên
không xử lý.
Hiện nay ông Nguyễn Hữu M khởi kiện cho rằng Tiêu Thị L lấn qua thửa
đất 268 của ông theo kết quả đo đạc 32,2m
2
(có cạnh 43,22m, cạnh 43,42m
cạnh 1,5m) là đúng vì cạnh phía Bắc của thửa đất 268, tờ bản đồ 02 của ông M hiện
nay có chiều dài không đủ so với GCNQSDĐ được cấp trong khi đó chiều dài cạnh
phía Bắc của thửa đất 264 L lại mở rộng ra, dài hơn so với giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất được cấp. Và tổng diện tích đất của bà L hiện nay dư nhiều so với diện
tích đất được cấp. Do đó đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết vụ án theo quy định của
pháp luật.
* Tại biên lấy lời khai của người làm chứng ông Dương L:
9
Ông L1 sinh sống tại tổ dân phố I (trước đây là tổ dân phố A), thtrấn P, huyện
K, tỉnh Đắk Lắk từ m 1968 cho đến nay. Ông L1 công tác tại hợp tác T7 từ
năm 1987 cho đến nay.
Gia đình ông Nguyễn Hữu M với gia đình bà Tiêu Thị L ng trú tại tổ dân phố
I (trước đây tổ dân phố A) thì họ sinh sống cùng tổ dân phố với ông L1, hai gia
đình này về sinh sống tại tổ dân phố I, sau ông L1.
Gia đình ông M vi gia đình bà L là hàng xóm với nhau, họ cách nhau bởi một
con đường (con đường mòn), con đường này dùng để đi lại vào thửa đất phía bên
trong của hai gia đình. Hiện nay thửa đất phía bên trong đã được xây bít không
dùng con đường mòn này để đi lại nữa mà đi lại bằng đường N
Tại thời điểm UBND huyện K cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm
1991 cho ông M ông L2 thì giữa hai thửa đất 268 (của ông M) với thửa đất 264
và 267 (của ông L2) của tờ bản đồ số 02 có một con đường ở giữa. Con đường này
nối với Quốc lộ B để phục vụ cho việc đi lại của các thửa đất phía bên trong. Trong
quá trình sử dụng ng như hiện nay tgia đình Tiêu Thị L đã lấn chiếm phần
con đường nằm giữa hai thửa đất, thửa đất 264 củaL thì đã được bà đổ đất lấp ao
dẫn đến hiện trạng đã sự thay đổi, đất của không còn là đất ao con đường
không còn. Khi bà L đổ đất lấp ao thì báo với chính quyền địa phương thì ông L1
không biết.
Hiện nay cuối thửa đất số 264, diện tích 760m
2
của bà L đã được xây tường rào
bao quanh (tường rào cạnh phía Bắc), cạnh phía Tây giáp thửa 268 của gia đình ông
M là con đường thì bà đã lấn con đường và đổ đt lấp toàn bộ thửa đất số 264, diện
tích 760m
2
. Khi đổ đất lấp như vậy thì lấn qua một phần đất của nhà ông M hướng
về phía cuối vườn (cạnh phía Bắc) hay không thì tôi không , tôi chỉ thấy phần cuối
vườn nhà ông M hin nay chiều ngang của thửa đất 268 bị thu hẹp hơn so với giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện, còn chiều ngang thửa đt 264 của L phần
cuối vườn (so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà L) thì được mở rộng.
Hiện nay ông Nguyễn Hữu M khởi kiện bà Tiêu Thị L cho rằng bà Tiêu Thị L
lấn qua thửa đất 268 của ông theo kết quả đo đạc là 32,2m
2
(có cạnh 43,22m, cạnh
43,42m cạnh 1,5m) thì đề nghị Tòa án căn cứ theo quy định của pháp luật để xem
xét, giải quyết.
Tại bản án Dân sự thẩm số:33/2024/DS-DS ngày 29/8/2024 của Toà án
nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hữu M đối với bà Tiêu Thị L.
Buộc bà Tiêu Thị L trả lại diện tích đất mà bà đã lấn chiếm của gia đình ông Nguyễn
Hữu M32,2m
2
(đất bị lấn chiếm có hình tam giác có các cạnh dài 43,42m (cạnh
thửa 268) - 43,22m (cạnh thửa 264) - 1,5m (thuộc thửa 268 thửa đất này tiếp giáp
thửa đất ông V). Diện tích đất lấn chiếm trị giá 1.932.000 đồng. Ngoài ra, buộc
10
L phải tự di di, tháo dđối với 01 tường rào (tường móng đá hộc, xây cao 2,6m,
phần trên xây gạch ống cao 1,2m, chiều dài 1,5m) nằm trên diện tích đất lấn chiếm.
Ngoài ra bản án thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí quyền kháng
cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 12/9/2024, bđơn Tiêu Thị L kháng cáo toàn bBản án dân sự
thẩm số: 33/2024/DS-DS ngày 29/8/2024 của Toà án nhân dân huyện Krông Pắc,
tỉnh Đắk Lắk, đề nghị cấp phúc thẩm xét xử theo hướng không chấp nhận đơn yêu
cầu của nguyên đơn ông Nguyễn Hữu M.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ
nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Quan điểm của Đại diện Viện kim sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư phiên toà đương sự đã chấp
hành đúng các quy định của pháp luật.
Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì cấp sơ
thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là căn cứ. Do đó không
sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bđơn, đề nghị Hội đồng xét xử giữ
nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu thu thập được trong hồ vụ án, được
thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên sở xem
xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và các đương sự.
Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Hữu M kháng cáo
của bị đơn bà Tiêu Thị L, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
[1.1] Về nguồn gốc đất:
Ngày 07/10/1991, ông Nguyễn Hữu M được UBND huyện K cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số A 089693, số vào sổ: 04841/QSDĐ/C-H-01 tại thửa đất
số 268, tờ bản đồ số 02 diện tích 803m
2
(đất ở khu dân cư, nguồn gốc được cấp
năm 1985), tọa lạc tại thị trấn P, huyện K.
Đối với thửa đất 267, 264 tờ bản đồ số 02 có nguồn gốc và biến động như sau:
Ông Nguyễn n L2 (là chồng Tiêu Thị L) được UBND huyện K cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số A 089697 ngày 07/10/1991, số vào sổ: 04830/QSDĐ/C-
H-01, tại các thửa đất số 267, 264; tờ bản đồ số 02; diện tích các thửa lần lượt
255m
2
; 760m
2
(255m
2
đất khu dân cư, được cấp năm 1982; 760m
2
đất ao), tọa lạc
tại thị trấn P, huyện K. Tổng diện tích đất của thửa 267 và 264 là 1.015m
2
.
Sau khi ông Nguyễn Văn L2 chết, ngày 29/5/2009 bà Tiêu Thị L nhận thừa kế
đng tên các thửa đất trên. Ngày 14/11/2014, Tiêu Thị Liên T6 cho ông
Nguyễn Xuân T4 là con trai một phần diện tích đất tại thửa đất 267 và ông T4 được
UBND huyện K cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BV 445167 ngày
11
14/11/2014, tại thửa đất số 435, tbản đồ: 02, diện tích: 42m
2
. Sau khi tặng cho ông
Nguyễn Xuân T4 42m
2
thì diện tích đất còn lại của Tiêu Thị L đối với thửa đất
267 là 213m
2
. Ngày 14/11/2014, bà Tiêu Thị L đã được UBND huyện K cấp lại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BV 445169, vào sổ cấp giấy chứng nhận:
CH/00497, thửa đất số 264, tờ bản đồ số 02, diện tích 760m
2
(đất nuôi trồng thủy
sản) GCNQSDĐ số BV 445168, vào sổ cấp giấy chứng nhận: CH/00496, thửa
đất 267, tờ bản đồ 02, diện tích 213m
2
(đất ở tại đô thị). Tổng diện tích thửa 267 và
264 là 973m
2
.
Tòa án cấp thẩm đã tiến hành xác minh tại các quan thẩm quyền về
quản lý đất đai, kết quả xác minh ghi nhận: tại thời điểm cấp GCNQSD các thửa đất
268 264 của tờ bản đồ 02 (cũ) của hai gia đình ông M L không thể hiện
kích thước, chỉ thể hiện diện tích tỷ lệ 1/2000. Theo Biên bản xác minh tại Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện K (BL 293) thì thời điểm cấp Giấy chứng
nhận, tờ bản đồ số 02 Quốc lộ B được quy hoạch 50m đã trừ quy hoạch đường.
[1.2] Về q trình sử dụng: Năm 2017, L lấp diện tích 760 m
2
đất ao tại thửa
đất 264 nên hiện trạng đất tại thời điểm giải quyết tranh chấp đã thay đổi so với trước
đây. Phần diện tích đường đi hiện nay không còn. i sản tọa lạc trên diện tích đất
tranh chấp gồm có: 01 cây dừa trồng khoảng năm 2003, 01 cây hoa đào (xoan đào)
trồng năm 1985, 01 gốc keo lâu năm mọc tự nhiên không xác định được năm trồng,
tường rào do bà L tạo dựng.
[1.3] Theo Kết quả đo đạc hiện trạng sử dụng đất do Công ty TNHH D3 thực
hiện thể hiện (BL 92):
- Giáp Quốc lộ 26 thửa đất của ông Nguyễn Xuân T4 cạnh hướng Tây
giáp đất ông M dài 16,65m (tính từ chỉ giới Quy hoạch giao thông Quốc lộ B), giữa
hai nhà không tranh chấp. Tiếp giáp đất ông T4 là đất tranh chấp hình tam
giác, diện tích tranh chấp là 32.2m
2
các cạnh như sau: cạnh hướng Đông giáp đất
L sdụng dài 43,22m; cạnh hướng Tây giáp đất ông M đang sử dụng dài 43,42m;
cạnh hướng Bắc giáp thửa đất 185 của ông V rộng 1,5m.
- Thửa đất số 268, tờ bản đồ 02 của ông Nguyễn Hữu M đo thực tế là 857,3m
2
(đã trừ diện tích nằm trong chỉ giới quy hoạch giao thông QL 26 là 59,9m
2
). Có tứ
cận: phía Nam giáp Quốc lộ B dài 16,55m; phía Bắc giáp thửa đất 185 của ông V
dài 11,75m (chưa tính 1,5m hiện đang tranh chấp); phía Đông một phần giáp đất
tranh chấp dài 43,22m một phần giáp đất ông Nguyễn Xuân T4 dài 16,55m (đã
trừ phần chỉ giới quy hoạch giao thông dài 3,92m); phía Tây giáp thửa đất 269 của
ông Q 61,04m (đã trừ phần chỉ giới quy hoạch giao thông dài 3,28m). Diện tích sử
dụng nhiều hơn so với giấy chứng nhận cấp năm 1991 là 54,3m
2
.
- Thửa đất số 264, 267 tbản đồ 02 của Tiêu Thị L thửa 435 của ông
Nguyễn Xuân T4 đo thực tế là 1.336,5m
2
(bao gồm diện tích 32,2m
2
đang tranh
chấp đã được trừ diện tích nằm trong chỉ giới quy hoạch giao thông QL26
12
65,2m
2
+ 17,5m
2
= 82,7m
2
). Đất Có tứ cận: phía Nam giáp Quốc lộ B dài 22,06m;
phía Bắc giáp thửa đất 184 của ông V dài 23,46m; phía Đông giáp đất ông X dài
56,55m (đã trừ phần chỉ giới quy hoạch giao thông dài 3,42m); phía y giáp thửa
đất 268 của ông Nguyễn Hữu M dài 60,07m ã trừ phần chỉ giới quy hoạch giao
thông dài 3,92m). Diện tích đất sử dụng (kể cả phần tranh chấp) nhiu hơn so với
giấy chứng nhận đã cấp năm 1991 là 321,5m
2
.
Tiêu Thị L cho rằng, trước đây ranh giới giữa thửa đất số 264, 267 của gia
đình bà và thửa đất số 268 của nhà ông M con đường mòn do gia đình bà tự mở,
nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng của gia đình bà. Tuy nhiên, căn cứ vào
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Nguyễn Văn L2 ông Nguyễn
Hữu M vào năm 1991 (BL 127, 128), Giấy chứng nhận quyền sử dụng đt cấp lại
cho Tiêu Thị L vào năm 2014 (Bút lục 46 và 69, 179, 211), lời khai của những
người làm chứngông Phạm Văn C1, ông Dương L1 là những người công tác và
sinh sống từ lâu đời tại địa phương, lời khai cán bộ địa chính thị trấn, có căn cứ xác
định giữa thửa đất 268 của ông Nguyễn Hữu M và thửa 264, 267 của bà Tiêu Thị L
tồn tại 01 lối đi, Nhà nước không công nhận diện tích đường cho hộ ông L2, bà
L. Do đó, ý kiến của bà Tiêu Thị L cho rằng con đường này gia đình bà L tự mở để
đi, nằm trong quyền sử dụng đất đã cấp cho gia đình bà L không có cơ sở.
Đối với các cây trồng nằm trong đất tranh chấp, L cho rằng các cây trồng
này ranh giới giữa nhà ông M nhà L không căn cứ chấp nhận bởi lẽ
thời điểm các cây này được trồng, ranh giới giữa đất nhà L và đất nhà ông M vẫn
đường đi, đến năm 2017 bà L lấp đất ao chiếm dụng đường đi chung, đến năm
2019 thì xây tường rào phía Bắc thửa đất mới phát sinh tranh chấp.
[1.4] Mặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp năm 1991 cho nguyên
đơn bị đơn không thể hiện kích thước tứ cận, nhưng căn cứ tlệ thể hiện trên
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho đương sự, tham khảo Kết quả lồng
ghép hiện trạng lên giấy chứng nhận (BL 91) thì cạnh hướng Bắc của thửa 268 trên
giấy chứng nhận rộng 15.02m, cạnh hướng Nam rộng 18.47m, nhưng hiện tại cạnh
hướng Bắc thửa đất gia đình ông M đang sử dụng chỉ rộng 11.75m ít hơn so với
giấy chứng nhận 3,27m; cạnh hướng Nam (không có tranh chấp) rộng 16.55m.
Cạnh hướng Bắc thửa 264 của Tiêu Thị L trên giấy chứng nhận rộng 19m,
cạnh hướng Nam rộng 16.30m, nhưng hiện tại cạnh hướng Bắc L sử dụng (kể c
phần tranh chấp) 23.19m, cạnh hướng Nam rộng 22,06m. Như vậy, tại cạnh hướng
B thì bà L sử dụng nhiều hơn giấy chứng nhận đã cấp.
Mặt khác, trên giấy chứng nhận đã cấp năm 1991 cho ông M ông L2 thể
hiện cạnh hướng Đông của thửa 268 và cạnh hướng Tây của thửa 264, 267 là đường
thẳng. Tuy nhiên, qua kết quả thẩm định, đo đạc trên thực địa thể hiện tại cạnh phía
tây thửa 435 (ông T4 được L tặng cho) được tách ra từ thửa 267 trước đây, dài
16,65m cố định không tranh chấp. Nối tiếp vị trí không tranh chấp thì L xây
13
hàng rào, sdụng phần đất tranh chấp có cạnh gấp khúc, chếch sang thửa đất số 268
của nguyên đơn.
[2] Từ các nhận định nêu trên, cấp thẩm xác định diện tích đất tranh chấp
thuộc thửa đất 268 của nguyên đơn buộc bị đơn tháo dhàng rào căn cứ.
Tại cấp phúc thẩm, bị đơn không cung cấp thêm chứng cứ nào mới. Do đó, không
có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị đơn.
[3] Án phí dân sự phúc thẩm: Tiêu Thị L thuộc trường hợp người cao tuổi
nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Tiêu Thị L, giữ nguyên quyết định
khác của Bản án dân sthẩm số: 33/2024/DS-DS ngày 29/8/2024 của Tán
nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
[2] Về án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ điểm đ Điều 12 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Miễn án
phí dân sự phúc thẩm cho bà Tiêu Thị L.
[3] Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, không bị
kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
[4] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND Cấp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện Krông Pắc;
- Chi cục THADS K;
- Các đương sự;
- Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã )
Lưu Thị Thu Hường
Tải về
Bản án số 22/2025/DS-PT Bản án số 22/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 22/2025/DS-PT Bản án số 22/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất