Bản án số 03/2025/DS-PT ngày 15/01/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 03/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 03/2025/DS-PT ngày 15/01/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Vĩnh Phúc
Số hiệu: 03/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 15/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp ranh giới là quyền sử dụng đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC
Bản án số: 03/2025/DS-PT
Ngày 15 - 01- 2025
V/v Tranh chấp ranh giới là quyền sử dụng
đất và yêu cầu tháo dỡ tài sản trên đất.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập-Tự do-Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Văn Nghĩa
Các Thẩm phán: Ông Vũ Văn Mạnh và ông Nguyễn Xuân Trọng
- Thư phiên toà: Nguyễn Thu Mai - Thư Toà án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc tham gia phiên toà:
Bà Hà Thị Loan - Kiểm sát viên.
Ngày 15 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 91/2024/TLPT-DS ngày 18 tháng 10 năm
2024 về việc Tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất và yêu cầu tháo dtài sản
trên đất. Do bản án dân sự sơ thẩm số 14/2024/DS-ST ngày 13 tháng 8 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Bình Xuyên bị kháng o. Theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số 130/2024/QĐ-PT ngày 02 tháng 12 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông T, sinh năm 1967; địa chỉ: Số A phố A, phường Q,
quận Đ, thành phố Hà Nội (có mặt);
2. Bị đơn: Ông Lê Thành L, sinh năm 1951 (có mặt);
Đỗ Thị T1, sinh năm 1957 (vắng mặt);
Đều có địa chỉ: Tổ dân phố Đ, thị trấn Đ, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc;
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho ông Thành L: Bà Kim Hồng
T2 Trợ giúp viên pháp của Trung tâm trợ giúp pháp nhà nước tỉnh V (có
mặt);
3. Người m chứng: Ông Hồng S Lưu Thị Bích N; Đều địa
chỉ: Tổ A, phường T, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc (đều vắng mặt);
4. Người kháng cáo: Ông Lê T nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
2
Theo đơn khởi kiện đề ngày 29/9/2023 các lời khai tiếp theo, nguyên đơn
ông T trình bày: Tháng 04/2021, ông nhận chuyển nhượng thửa đất của Lưu
Bích N, sinh năm 1965, địa chỉ: T - P - Vĩnh Phúc với diện tích 619,3m
2
; trong đó
đất tại đô thị 210m
2
; đất trồng cây lâu năm 409,3m
2
thửa đất số 701, tờ bản
đồ số 35; địa chỉ thửa đất: Tổ dân phĐ, thị trấn Đ, huyện B. Khi nhận chuyển
nhượng do N đã được Sở Tài nguyên môi trường tỉnh V cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số DB 451561 vào ngày 30/3/2021 (ông không biết N
nhận chuyển nhượng thửa đất này từ ai, địa chỉ ở đâu). Khi nhận chuyển nhượng
thửa đất ông và bà N thống nhất mua bán toàn bộ thửa đất. Do tin tưởng bà N
đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên giữa ông N chlàm
thủ tục kết trên giấy tờ, tự giao đất thanh toán tiền cho nhau, không mời
chính quyền địa phương đến đo đạc giao mốc giới giữa các hộ liền kề. Trước khi
mua thửa đất ông đã trực tiếp xem thực địa thấy hiện trạng thửa đất vẫn như
bây giờ không có sự thay đổi gì so với lúc ông nhận chuyển nhượng từ bà N.
Ngày 14/5/2021, ông được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh V cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số DB461725, số vào sổ cấp GCN: CS01642. Theo
sơ đồ thửa đất trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có cạnh 7-8 tiếp giáp với
thửa đất của ông Thành L, Đỗ Thị Thanh D 24,79m và là đường thẳng. Đến
ngày 18/4/2023, ông mới phát hiện việc ông L, bà T2 đã xây nhà tắm, tường nhà
cấp 4 tường rào lấn sang phần đất mặt tiền mảnh đất của ông chiều rộng khoảng
30cm, phía trong chỗ phình rộng đến 60cm. Trong khi Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất của ông thể hiện rất chiều dài mặt tiền 14,2m nhưng hiện đo theo
hiện trạng chỉ còn 13,9m. Do đó, ông đề nghị ông L, bà T2 tự dỡ hoặc để ông dỡ
phần công trình xây lấn sang đất của ông trả lại phần đất đó cho ông nhưng
ông L, bà T2 không thực hiện.
Sau khi ông nhận chuyển nhượng đất của N, ông cho ông L, T2
mượn diện tích đất 3m
2
, phần đất này ông L, T2 xây công trình có chiều dài
2m, rộng 1,5m xây bằng gạch đất nung lợp Ploximăng, hai bên đã viết giấy mượn
đất với nhau ông chụp ảnh lại phần đất cho mượn (giấy mượn đất ảnh
ông đã photo nộp tại Tòa án). Sau khi ông đơn đòi đất thì gia đình ông L đã
tháo dỡ phần lán trên diện tích đất 3m
2
ông L, T2 ợn nên hiện không
còn phần lán này.
Ông L, bà T2 xây tường nhà cấp 4, xây tường nhà vệ sinh từ thời gian nào
thì ông không biết khi ông nhận chuyển nhượng đất thì những công trình này
đã từ trước chứ không phải sau khi ông mua đất ông L, T2 mới xây dựng.
Việc ông L, bà T2 xây tài sản lấn sang phần đất mà ông đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất lấn của các chủ đất nhưng không ai phát hiện ra
(Xây lấn thời gian nào ông không biết). Nay khi sử dụng đất ông mới phát hiện
gia đình ông L, T2 đã xây dựng công trình lấn chiếm vào phần đất ông đã được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ông L, T2 phải trách nhiệm
tháo dỡ tường nhà để trả lại đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông
nên ông mới khởi kiện.
3
Tại đơn khởi kiện và trong buổi làm việc tại Tòa án ông yêu cầu Tòa án giải
quyết: Buộc ông Thành L Đỗ Thị Thanh P tháo dỡ phần tường nhà cấp
4, tường nhà vệ sinh để trả lại cho ông diện tích đất 15m
2
. Tại cấp thẩm ông
thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu ông Thành L Đỗ Thị
T1 phải tháo dỡ phần tường nhà cấp 4, tường nhà vệ sinh để trả lại cho ông diện
tích đất 11,1m
2
được chỉ giới bởi các điểm 4,21,22,23,4 tại sơ đồ hiện trạng ngày
9/11/2023.
Về án phí chi phí cho việc xem xét thẩm định tại chỗ ông đề nghị giải
quyết theo quy định của pháp luật.
Ngoài yêu cầu trên ông không có yêu cầu gì khác.
Bị đơn ông Thành L và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông
Thành L đều thống nhất trình bày: Nguồn gốc thửa đất theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số DB461725, số vào sổ cấp giấy: CS01642 ngày 14/5/2021
đứng tên ông Lê T trước đây là thửa đất của gia đình ông L, năm 2003 ông L, bà
T1 bán cho ông S1 người ở T, Hà Nội, tại thời điểm đó ông L có ký giấy
mua bán đất với ông S1 và gia đình ông L đã nhận đủ tiền (Lâu rồi nên
ông L không còn nhớ họ tên đệm, tuổi của ông S1 cũng không biết
hiện ông , S1 đang đâu). Cùng năm 2003 ông L, T1 xây dựng nhà
cấp 4, nhà vệ sinh tường bao trên phần đất gia đình ông L đang quản sử
dụng; những tài sản này do ông L và bà T1 xây dựng các con của ông không
có đóng góp gì và hiện ông L và bà T1 vẫn đang cùng quản lý và sử dụng tài sản
này. Khi ông L, T1 xây dựng tài sản trên đất thì giữa gia đình ông L với ông Ấ
S1 không xảy ra tranh chấp gì. Đến năm 2012, người mua đất của ông ,
S1 mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tại thời điểm đó không
tranh chấp . Ông L được biết diện tích đất của ông , S1 sau này được
mua đi bán lại cho nhiều người nhưng cũng không có tranh chấp với gia đình
ông L.
Sau khi ông T mua đất, giữa gia đình ông L và ông T không có mâu thuẫn,
tranh chấp gì. Quá trình gia đình ông L làm hồ xin cấp GCNQSD đất ông T
cũng ký tên vào hộ giáp ranh liền kề tại biên bản kiểm tra hiện trạng sử dụng đất
ngày 24/6/2021. Sau đó, ông T không nhu cầu sử dụng đất nên ông L hỏi
mượn ông T khoảng 3m
2
đất để làm lán xếp gạch, lợp mái Ploximăng để làm
chuồng nuôi gà nuôi chó (chuồng để nuôi chó, nuôi gà nằm phía sau ngôi nhà 02
tầng của gia đình ông). Khi mượn đất ông L ông T có viết giấy mượn đất, nội
dung giấy mượn đất như thế nào thì lâu rồi ông L không nhớ. Khi ông T khởi kiện
đòi đất gia đình ông L đã tự tháo dỡ và dọn dẹp chuồng nuôi chó nuôi trả lại
đất cho ông T.
Ông đã xây tường nhà cấp 4, tường nhà vệ sinh từ 2003 đến đầu năm 2023
không có tranh chấp với ai. Nay, ông T khởi kiện yêu cầu ông L và bà T1 trả cho
ông T 11,1m
2
đất và yêu cầu gia đình ông tháo dỡ công trình xây dựng trên phần
đất này để trả lại đất cho ông T thì ông LT1 không đồng ý vì ông bà không
lấn chiếm đất của ông T.
4
Bị đơn bà Đỗ Thị T1 mặc dù đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng đều
vắng mặt nên Tòa án không lấy lời khai của bà T1 được.
Người làm chứng ông Hồng S Lưu Thị Bích N đều trình bày:
Diện tích đất ông T đang tranh chấp với ông L, T1 do ông T nhận chuyển
nhượng đất của ông bà. Thửa đất này ông nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn
Văn H Nguyễn Thị T3, khi mua đất ông kiểm tra hiện trạng, đo đạc
xác định ranh mốc giới của thửa đất. Tại thời điểm ông mua thửa đất số 701,
tờ bản đồ số 35, diện tích 619,3m
2
đất tdân phố Đ, thị trấn Đ, huyện B của ông
H T3 tphần đất tiếp giáp giữa đất của gia đình ông L với đất của gia đình
ông bà tường ngôi nhà cấp 4, tường nhà 02 tầng, tường nhà tắm của gia đình
ông L xây dựng từ trước khi gia đình ông bà mua đất và được xây trên đất của gia
đình ông L nên ông không thắc mắc hai bên không tranh chấp
với nhau về phần đất này. Sau khi mua đất ông bà tiếp tục cho ông L, T1 ợn
một phần đất khoảng 4m
2
, phần đất này là công trình do gia đình ông L xây bằng
gạch đất nung lợp ploximăng, nằm phía sau ngôi nhà 02 tầng của gia đình ông L,
T1 (phần công trình phụ này ông L, bà T1 dùng để nuôi gà, nuôi chó).
Do không có nhu cầu sử dụng đất nên ông bà bán thửa đất trên cho ông T,
do tin tưởng nhau nên hai bên không mời chính quyền địa phương đến đo đất,
giao ranh mốc giới, tuy nhiên bàn giao hiện trạng của thửa đất, giấy chứng
nhận quyền sdụng đất đông T làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Ông bà được biết ông T chưa có nhu cầu sử dụng đất nên tiếp tục cho ông L,
T1 mượn phần công trình có chiều dài khoảng 2m, rộng 2m xây bằng gạch đất
nung lợp Ploximăng và giữa hai bên có viết giấy mượn đất, nội dung giấy mượn
đất nthế nào thì ông không biết. Ý kiến của ông S, bà N: Nếu ông T yêu cầu
ông L, T1 tháo dỡ phần công trình có chiều dài khoảng 2m, rộng 2m xây bằng
gạch đất nung lợp Ploximăng (ông L, T1 dùng để nuôi gà, nuôi chó), nằm phía
sau ngôi nhà 02 tầng của gia đình ông L ông L, T1 không tháo dỡ thì đề
nghị Tòa án giải quyết buộc ông L T1 phải tháo dỡ để trả lại đất cho ông T.
Ngoài phần công trình trên, sau khi ông bà bán đất cho ông T mà gia đình ông L
còn xây dựng tài sản nào khác lấn sang đất của ông T thì ông bà không biết, ông
bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Với nội dung như trên, tại Bản án dân sự số 14/2024/DS-ST ngày 13/8/2024
của Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên quyết định:
Căn cứ các Điều 166, 175, 176 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 170 và
Điều 203 của Luật đất đai năm 2013; Điều 147; khoản 1 Điều 157; khoản 1 Điều
165 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án.
Xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T về việc: Yêu cầu ông
Lê Thành L và Đỗ Thị Thanh T4 cho ông T 11,1m
2
đất tại thửa đất số 701, tờ
bản đồ số 35, diện tích 619,3m
2
; địa chỉ thửa đất: Tổ dân phố Đ, thị trấn Đ, B, tỉnh
Vĩnh Phúc yêu cầu gia đình ông L, T1 tháo dỡ công trình xây dựng trên
phần đất 11,1m
2
để trả lại đất cho ông T.
5
Ông T quyền liên hệ với quan nhà nước có thẩm quyền để đề nghị
cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích đất được xác định theo số
liệu đo đạc thực tế (khoản 5 Điều 98 Luật Đất đai năm 2013; điểm c khoản 1 Điều
76 Nghị định số: 43/2014/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 24 Điều 1
Nghị định số 148/2020/NĐ-CP).
Ranh giới thửa đất giữa gia đình ông T gia đình ông L được xác định bởi
các điểm 22,21,4 (có sơ đồ kèm theo).
Bản án còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí quyền kháng cáo cho
các đương sự theo quy định.
Sau khi xét xthẩm, ngày 23/8/2024, ông T nguyên đơn kháng cáo
đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc hủy Bản án dân sự sơ thẩm số
14/2024/DS-ST ngày 13/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên. Tại
phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn đnghị Hội đồng xét xử sửa bản án thẩm theo
hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc tham gia
phiên toà phát biểu ý kiến:
Về tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ vụ án để xét xphúc thẩm đến
khi quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán Thư đã thực hiện đúng
nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên
toà, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự từ
khi khai mạc phiên toà đến trước khi nghị án, đảm bảo tư, khách quan, đúng
quy định pháp luật.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn, quyết định giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm của Tòa
án nhân dân huyện Bình Xuyên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hsơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử, xét thấy:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
Đơn kháng cáo của nguyên đơn làm trong hạn luật định nên được xem xét
giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng bị đơn là bà Đỗ Thị T1 vẫn vắng
mặt không có lý do. Nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo
quy định của pháp luật.
[2]. Quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:
Quan hệ pháp luật: Nguyên đơn ông T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc
bị đơn ông L, T1 phải tháo dỡ phần tường nhà cấp 4, tường nhà tắm để trả cho
nguyên đơn diện tích đất 11,1 m
2
; địa chỉ thửa đất: Tổ dân phố Đ, thị trấn Đ, huyện
B. Do vậy, quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp ranh giới là quyền sử dụng đất
6
yêu cầu tháo dỡ tài sản xây dựng trên đất” theo quy định tại khoản 9 Điều 26 Bộ
luật Tố tụng dân sự.
Thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông L, T1 phần đất đang tranh chấp
địa chỉ tại Tổ dân phố Đ, thị trấn Đ, huyện B nên thẩm quyền giải quyết của
Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên. Sau khi xét xử, nguyên đơn kháng cáo nên
thẩm quyền giải quyết theo thủ tục phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc.
[3]. Nội dung vụ án: Nguyên đơn có diện tích đất là 619,3m
2
đất, ở thửa số
701 tbản đồ 35 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 14/5/2021
đứng tên ông T giáp ranh với thửa đất số 702 tờ bản đồ 35 chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đang do vợ chồng ông Thành L Đỗ Thị
Thanh quản L1, sử dụng. Nguyên đơn cho rằng bị đơn đã xây dựng công trình lấn
sang phần diện tích đất là 11,1m
2
được giới hạn bởi các điểm 4, 21, 22, 23, 4 trên
sơ đồ hiện trạng ngày 09/11/2023. Nguyên đơn yêu cầu gia đình ông L phải tháo
dỡ công trình trên phần diện tích đã xây để trả lại cho nguyên đơn.
[3.1]. Xét nội dung kháng cáo của nguyên đơn ông T đề nghị hủy bản
án dân sự thẩm vì cấp thẩm không khách quan khi bác yêu cầu khởi kiện
của ông. Tại phiên tòa phúc thẩm ông thay đổi nội dung kháng cáo, đề nghị phúc
thẩm sửa Bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
Qua xác minh tại địa phương thể hiện thửa đất số 701 và 702 tờ bản đồ 35
được tách ra từ thửa số 281 tờ bản đồ 35 (theo bản đồ VN 2000 đo đạc năm 2009)
đứng tên sử dụng đất ông Thành L Đỗ Thị T1. Trong quá trình sử dụng
đất ông L, T1 đã chuyển nhượng một phần thửa đất số 281 tờ bản đồ 35 cho
ông Lưu Anh T5 ngày 21/12/2011, ông T5 được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất với diện tích đất 656m
2
đất tại thửa số 452, tờ bản đồ 07. Sau đó,
thửa đất trên được chuyển nhượng nhiều lần qua các chủ sử dụng đất. Đến ngày
30/3/2021, Lưu Thị Bích N được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện
tích là 619,3m
2
tại thửa số 701 tờ bản đồ 35. Sau đó N chuyển nhượng quyền
sử dụng đất thửa đất trên cho ông T và ngày 14/5/2021, ông T được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích là 619,3m
2
tại thửa số 701 tờ bản đồ 35.
Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất thì những người trên không
có khiếu nại về diện tích đất được cấp. Đối với thửa đất số 702 tờ bản đồ 35 do
vợ chồng ông L, Thanh quản L1, sdụng xây dựng công trình tnhững
năm 1993 (BL từ 62 đến 67).
Qua trình bày của ông L xác nhận của địa phương thì thể hiện, gia
đình ông L sinh sống trên thửa đất xây dựng công trình trên thửa đất trên từ
những năm 1991, đến năm 2003 thì dỡ bcông tnh cũ để lại công trình n hiện
tại (BL 34).
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông T cũng thừa nhận khi ông nhận
chuyển nhượng thửa đất số 701 tờ bản đồ 35 từ bà Lưu Thị Bích N năm 2021 thì
trên phần đất tiếp giáp đất của gia đình ông L với đất của ông là tường nhà cấp 4,
7
tường nhà vệ sinh. Khi nhận chuyển nhượng đất thì ông cũng không tiến hành đo
đạc đối với thửa đất trên.
Lưu Thị Bích N ông Lê Hồng S cũng khẳng định, tại thời điểm
N, ông S nhận chuyển nhượng thửa đất số 701 tờ bản đồ 35 từ ông Nguyễn Văn
H và bà Nguyễn Thị T3 thì phần đất tiếp giáp giữa đất của gia đình ông L với đất
của gia đình ông tường ngôi nhà cấp 4, tường nhà 02 tầng, tường nhà tắm
của gia đình ông L. Sau khi mua xong hai gia đình không tranh chấp gì phần
này (BL 182-183).
Như vậy, qua quá trình chuyển nhượng thửa đất số 701 tờ bản đồ 35 thì các
công trình trên thửa đất của gia đình ông L là tường nhà cấp 4, tường nhà 02 tầng,
tường nhà vệ sinh phần tiếp giáp với thửa đất số 702 tờ bản đồ 35 đã có từ trước
khi ông T, ông S và bà N nhận chuyển nhượng. Khi các bên nhận chuyển nhượng
đều không có ý kiến gì về các công trình trên.
Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 701 tờ bản đồ 35 đứng
tên ông T diện tích 619,3m
2
, theo đo đạc thực tế diện tích ông T đã sử
dụng 661,2m
2
khi trừ đi phần đất trong phạm vi giao thông 13,9m
2
thì diện
tích sử dụng 647,3m
2
vẫn lớn hơn diện tích đất được Sở tài nguyên môi
trường tỉnh V cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 14/5/2021 đứng
tên ông Lê Thực .
Trong biên bản hòa giải ngày 27/3/2024 (BL 94), ông L trình bày
“…không đồng ý trả lại đất cho ông T các công trình xây dựng trên đất của ông
xây dựng đã lâu và nếu có lấn chiếm thì lấn chiếm không đáng gì, chỉ lấn 1,8m
2
,
trong xóm nhỏ đó 1,8m
2
không sử dụng được vào mục đích ”. Theo nội dung
trên không vị tlấn quan điểm của ông L không đồng ý với yêu cầu khởi
kiện vẫn cho rằng các công trình xây dựng trước khi ông chuyển nhượng đất
nên không căn cứ cho rằng việc ông L thừa nhận việc lấn đất theo yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn. Trên thực tế gia đình ông L đã xây dựng công trình xong
thì ông L mới chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên không thể khẳng định ông
L sẽ chuyển nhượng quyền sử dụng đất một phần công tnh ông L đang sử
dụng.
vậy, không căn cứ cho rằng gia đình ông L xây dựng công trình ln
sang phần diện tích đất của gia đình ông T nên cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn là căn cứ. Tuy nhiên, khi giải quyết vụ án cấp
sơ thẩm chỉ xác định ranh giới hai thửa đất là đoạn thẳng gấp khúc 22-21-4 (trên
sơ đồ hiện trạng) là chưa đầy đủ vì đoạn thẳng 16-22 (trên sơ đồ hiện trạng) cũng
là phần tiếp giáp giữa hai thửa đất của gia đình ông L và ông T đang quản lý nên
để giải quyết dứt điểm vụ án thì cấp phúc thẩm sẽ điều chỉnh lại cách tuyên
xác định ranh giới phần đất của gia đình ông L với ông T đang quản lý là đường
thẳng gấp khúc 1,2m + 3,95m + 20,93m được giới hạn bởi các điểm 16-22-21-4
trên sơ đồ hiện trạng ngày 09/11/2023 (có sơ đồ kèm theo).
[3.2]. Tại phần quyết định của bản án thẩm kiến nghị về việc ông T
quyền liên hệ với quan nhà nước thẩm quyền để đề nghị cấp đổi Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích đất được xác định theo số liệu đo đạc
8
thực tế (khoản 5 Điều 98 Luật Đất đai năm 2013; điểm c khoản 1 Điều 76 Nghị
định số: 43/2014/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 24 Điều 1 Nghị định
số 148/2020/NĐ-CP). Tuy nhiên, tại thời điểm xét xử sơ thẩm là ngày 13/8/2024
thì Luật đất đai năm 2023 đã có hiệu lực từ ngày 01/7/2024, cấp sơ thẩm vẫn căn
cứ vào khoản 5 Điều 98 Luật Đất đai năm 2013 để kiến nghị là không đúng. Hơn
nữa, trong vụ án này, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không được chấp nhận
và vụ án chỉ giải quyết phần đất tiếp giáp giữa gia đình ông L với ông T, còn các
phần đất của ông T tiếp giáp với các thửa đất khác không được giải quyết trong
vụ án này. Nên không thể kiến nghị về việc nguyên đơn quyền liên hệ với
quan Nhà nước thẩm quyền để được cấp đổi giấy chứng nhận quyển sử dụng
đất theo hiện trạng sử dụng đất. Cấp phúc thẩm sẽ điều chỉnh lại cách tuyên này
cho phù hợp với quy định.
[4]. Từ phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
[5]. Về án phí: Do không chấp nhận yêu cầu khởi kiện, không chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn nên nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và án
phí dân sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Lê Thực .
Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm 14/2024/DS-ST ngày 13/8/2024 của
Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên.
Căn cứ các Điều 166, 175, 176 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 170 và
Điều 203 của Luật đất đai năm 2013; Điều 147; khoản 1 Điều 157; khoản 1 Điều
165 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12
năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Xử:
[1]. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T về việc: Yêu cầu ông
Lê Thành L và Đỗ Thị Thanh T4 cho ông T 11,1m
2
đất tại thửa đất số 701, tờ
bản đồ số 35, diện tích 619,3m
2
; địa chỉ thửa đất: Tổ dân phố Đ, thị trấn Đ, B, tỉnh
Vĩnh Phúc yêu cầu gia đình ông L, T1 tháo dỡ công trình xây dựng trên
phần đất 11,1m
2
để trả lại đất cho ông T.
[2]. Ranh giới thửa đất của ông T và gia đình ông L, bà T1 là đường thẳng
gấp khúc được giởi hạn bởi các điểm 16,22,21,4 (có sơ đồ kèm theo).
[3]. Về chi phí tố tụng: Ông Lê Thực P1 chịu toàn bộ tiền thẩm định, định
giá tài sản với tổng số tiền là: 8.400.000 đồng (ông T đã nộp đủ).
[4]. Về án phí:
Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Lê Thực P1 chịu 832.000 đồng (Tám trăm ba
mươi hai nghìn)(đã m tròn) án phí dân sự thẩm nhưng được trừ vào số tiền
9
tạm ứng án phí đã nộp 500.000đồng (Năm trăm nghìn) theo biên lai số: 0000240
ngày 10 tháng 10 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Xuyên;
Ông T còn phải nộp 332.000 đồng (Ba trăm ba ơi hai nghìn) án phí dân sự sơ
thẩm.
Án phí dân sự phúc thẩm: Ông T phải nộp 300.000 đồng được trừ vào
số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0002429 ngày 23/8/2024
của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Xuyên. Ông T đã nộp đủ án phí
dân sự phúc thẩm.
[5]. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Vĩnh Phúc;
- TAND huyện Bình Xuyên;
- VKSND huyện Bình Xuyên;
- Chi cục THADS huyện Bình Xuyên;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ, VP.NHÂN DÂN
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Văn Nghĩa
Tải về
Bản án số 03/2025/DS-PT Bản án số 03/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 03/2025/DS-PT Bản án số 03/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất