Bản án số 32/2025/DS-PT ngày 16/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 32/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 32/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 32/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 32/2025/DS-PT ngày 16/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 32/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 16/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Vào năm 1999, ông Phan Thái Q có liên kết để trồng cà phê với Nông trường T (nay là Nông trường cao su C) với diện tích trên giấy mà Nông trường ký để làm cơ sở nộp thuế nông nghiệp là 0,98 ha.... |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 32/2025/DS-PT
Ngày 16 -01- 2025
V/v Tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
-Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hằng.
Các Thẩm phán: Bà Lê Thị Thanh Huyền và bà Nguyễn Thị My My
- Thư ký phiên tòa: Bà Vũ Thị Hồng Phúc – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk: Bà Lê Thị Bích Thủy- Kiểm
sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 16 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc
thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 360/2024/TBTL-TA ngày 13 tháng 11 năm
2024; do Bản án dân sự sơ thẩm số 59/2024/DS-ST ngày 26 tháng 7 năm 2024, của Tòa
án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk có kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử số: 419/2024/QĐ - PT ngày 12 tháng 12 năm 2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Trương L, sinh năm 1969.
Trú tại: 240 HV, thị trấn QP, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk
( Có mặt).
Bị đơn: Ông Dương Ngọc H, sinh năm 1972.
Trú tại: 278 HV, thị trấn QP, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk
(Vắng mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ủy ban nhân dân huyện CM, tỉnh Đắk Lắk
Người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng: Ông Nguyễn Xuân D -
Trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện CM.
Địa chỉ: 134 HV, thị trấn QP, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk
(Có đơn xin xét xử
vắng mặt).
- Bà Chu Thị H, sinh năm 1977
Địa chỉ: 274 HV, thị trấn QP, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk
(Vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bà Chu Thị H: Ông Trương L ( Có mặt).
Người làm chứng: Ông Phan Thái Q, sinh năm 1953.
Địa chỉ: Số nhà 31, thôn T, xã CM, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk(Vắng mặt).
Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Trương L.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Trương L
trình bày:
2
Vào năm 1999, ông Phan Thái Q có liên kết để trồng cà phê với Nông
trường T (nay là Nông trường cao su C) với diện tích trên giấy mà Nông trường ký
để làm cơ sở nộp thuế nông nghiệp là 0,98 ha. Đến ngày 10/02/2003 thì tôi mua lại
diện tích đất cà phê nói trên của ông Phan Thái Q.
Tôi đã sử dụng ổn định diện tích đất trồng cà phê này không có tranh chấp
với ai, cụ thể là không có tranh chấp gì với người sử dụng đất liền kề là ông Dương
B (cha của ông Dương Ngọc H) cho đến khi có thông tin đo đạc để cấp sổ đỏ thì
vào ngày 22/2/2020, ông Dương Ngọc H là người đang sử dụng đất liền kề tự ý
dựng hàng cọc rào lấn chiếm sang phần đất của tôi (hiện hàng cọc rào đã nhổ bỏ)
dẫn đến tranh chấp đất. Tôi đã làm đơn nhờ chính quyền địa phương giải quyết,
chính quyền địa phương đã hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Diện tích đất
mà ông H lấn chiếm của tôi qua đo đạc kỹ thuật là 322,5m
2
, có kích thước cụ thể
như sau:
Hướng Tây giáp với đường Nguyễn Thị Minh K dài 0,87m
Hướng Đông giáp với đường đất dài 0,75m
Hướng Nam giáp với phần đất của tôi dài 399,49m
Hướng Bắc giáp với phần đất của ông Dương Ngọc H dài khoảng 399,49m
Trên đất lấn chiếm không có cây trồng và tài sản gì. Để đảm bảo quyền và
lợi ích chính đáng. Nay, tôi yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Dương Ngọc H
phải trả lại cho tôi diện tích đất lấn chiếm là 322,5m
2
tại Tổ dân phố T, thị trấn QP,
huyện CM, tỉnh Đắk Lắk
như đã nói trên.
Quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa, bị đơn ông Dương Ngọc H
trình bày:
Vào năm 1992 gia đình ông Dương B (là cha ruột của tôi đã chết vào năm
2017) vào Đắk Lắk sinh sống có nhận sang nhượng của ông Bành Trọng Đ diện
tích đất có chiều ngang là 04 hàng cà phê trồng năm 1992. Trong quá trình canh
tác, ông Bành Trọng Đ tiếp tục sang nhượng cho ông Nguyễn Văn E (ở xã HT, TP.
BMT) diện tích đất có chiều ngang là 06 hàng cà phê giáp ranh với gia đình ông
Dương B. Sau khi sang nhượng giữa 03 gia đình đã thống nhất phân định ranh giới
giữa 02 gia đình ông B với ông E là lấy điểm giữa của 02 hàng cà phê liền kề của
mỗi bên làm ranh giới vì khi sang nhượng cho các gia đình ông B và ông E thì ông
Đ đã trồng cà phê ổn định trên đất.
Đến năm 1996 thì ông E tiếp tục sang nhượng cho ông Phan Thái Q diện
tích đất nói trên. Sau đó các gia đình vẫn giữ nguyên ranh giới trước đây đã phân
định và đã canh tác, sử dụng ổn định không có tranh chấp gì. Đến năm 2003 ông
Phan Thái Q sang nhượng lại cho ông Trương L. Trong quá trình sang nhượng và
bàn giao đất thì ông L không báo cho các hộ có đất liền kề để đo đạc phân định
ranh giới mà chỉ căn cứ vào bản hợp đồng mà ông Phan Thái Q đã ký với nông
trường cao su T trước đây để làm căn cứ tính diện tích. Từ đó, ông L cho rằng các
hộ có đất liền kề lấn chiếm đất của ông. Nay, ông L khởi kiện yêu cầu tôi phải trả
diện tích đất 322,5m
2
tại Tổ dân phố T, thị trấn QP, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk
thì
tôi hoàn toàn không chấp nhận vì yêu cầu này không có căn cứ bởi vì:
Trước đây khi ông Bành Trọng Đ sang nhượng cho các gia đình thì diện
tích đất cà phê đã trồng và sử dụng ổn định không có tranh chấp gì. Việc sang
nhượng chỉ căn căn cứ vào số hàng cà phê đã trồng. Ông L là người nhận sang
3
nhượng sau cùng sau cả gia đình tôi và căn cứ vào hiện trạng đất thực tế của ông
Phan Thái Q đã có trước khi sang nhượng lại cho ông L chứ không phải là diện
tích đất mà ông Q đã ký với Nông trường cao su T. Ông L khi nhận đất từ ông Q
thì tự ý xác định ranh giới của mình với đất của các hộ liền kề hai bên mà không có
sự chứng kiến của người sang nhượng là ông Q với gia đình ông Bành Trọng Đ và
gia đình tôi. Ông L là người gây gỗ, muốn lấn chiếm đất chứ không phải là tôi.
Quá trình tham gia tố tụng, người đại diện theo ủy quyền của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện CM là ông Nguyễn Xuân
D trình bày:
Phần diện tích mà ông Trương L và ông Dương Ngọc H đang có tranh chấp
tại khu vực Tổ dân phố T, thị trấn QP, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk có nguồn gốc
trước đây do Nhà nước giao cho Nông trường cao su T, nay là Nông trường C, các
hộ dân được nông trường hợp đồng liên kết trồng và chăm sóc cà phê.
Căn cứ theo Quyết định số 2831/QĐ-UB ngày 27/8/2003 của Ủy ban nhân
dân tỉnh Đắk Lắk thì quyết định thu hồi 1.760.100m
2
tại thị trấn QP và xã EK giao
về cho Ủy ban nhân dân huyện CM quản lý trong đó có diện tích đất liên kết Nông
trường C với các hộ gia đình, cá nhân tại khu vực Tổ dân phố T, thị trấn QP, huyện
CM. Do đó, đây là đất do Nhà nước quản lý chưa giao cho tổ chức, cá nhân nào sử
dụng.
Đối với việc ông Trương L khởi kiện tranh chấp đất với ông Dương Ngọc H
về diện tích đất tại khu vực Tổ dân phố T, thị trấn QP, huyện CM có nguồn gốc từ
đất liên kết với Nông trường cao su T, nay là Nông trường C do vị trí, diện tích đất
tranh chấp thì các bên không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các loại
giấy tờ hợp pháp về quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền cấp. Vì vậy, đề
nghị Tòa án giải quyết vụ việc theo quy định của pháp luật.
Quá trình tham gia tố tụng, người làm chứng ông Phan Thái Q trình bày:
Trước đây vào năm 1999 ông có ký hợp đồng liên kết trồng và chăm sóc cà
phê với Nông trường cao su C với diện tích 9800m
2
. Diện tích thực tế có thể không
chính xác so với diện tích trong hợp đồng. Thời gian ông canh tác chủ yếu là cây
cà phê. Thửa đất của ông có mặt giáp đất của ông Dương B. Quá trình sử dụng thì
không có tranh chấp gì. Mặt giáp ranh với đất ông Dương B không có hàng rào,
mốc ranh cụ thể gì mà chỉ có lối đi làm phần ngăn cách giữa hai hàng cà phê và có
một gốc muồng là một mốc của ranh. Đến ngày 10/02/2003 ông có ký giấy sang
nhượng diện tích 0,98 ha (9800m
2
) cho ông Trương L đối với phần đất trên nhưng
không xuống thực địa bàn giao đất mà chỉ ghi theo hợp đồng liên kết và khả năng
diện tích đất nhỏ hơn diện tích ghi trong hợp đồng. Sau khi ông L vào sử dụng diện
tích đất trên từ năm 2003 thì không có tranh chấp gì, hai bên cũng không làm mốc
ranh. Đến năm 2020 ông mới biết việc ông L kiện tranh chấp với ông H (con ông
B). Đối với vấn đề tranh chấp trên ý kiến của ông là trước đây ông mua đất và sử
dụng 06 hàng cà phê giữa đất của ông sử dụng và đất ông H (trước là ông B) sử
dụng không có ranh giới chỉ lấy điểm giữa hai hàng cà phê chia ra để hai bên sử
dụng.
* Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 59/2024/DS-ST ngày 26 tháng 7 năm 2024,
của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
4
Căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39,
Điều 147, Điều 157, Điều 165, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố
tụng dân sự;
Căn cứ Điều 5, Điều 16, Điều 17, Điều 166 Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 159, Điều 257 Bộ luật Dân sự;
Căn cứ khoản 3 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trương
L về việc buộc ông Dương Ngọc H trả lại diện tích đất 322,5m
2
tại Tổ dân phố T,
thị trấn QP, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng
cáo theo quy định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 05/8/2024 ông Trương L kháng cáo bản án sơ
thẩm với nội dung: Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xem xét sửa bản án sơ
thẩm theo hướng chấp toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn ông
Dương Ngọc H trả lại diện tích đất 322,5m
2
tại tổ dân phố T, thị trấn QP, huyện
CM, tỉnh Đắk Lắk.
Tại phiên toà, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và nội dung kháng
cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Thẩm phán, Thư ký, các
đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Qua phân tích đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án và tranh tụng tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát cho rằng kháng cáo của
nguyên đơn là không có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều
308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của ông Trương L, giữ
nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 59/2024/DSST ngày 26/7/2024 của Toà án nhân
dân huyện Cư M’gar.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn
cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ các tài liệu chứng cứ,
lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Trương L làm trong hạn luật
định, ông L đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm nên vụ án được xem xét theo trình tự
phúc thẩm.
[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của ông Trương L về việc yêu cầu ông
Dương Ngọc H trả lại diện tích đất 322,5m
2
, thấy rằng:
Nguồn gốc diện tích 0,98ha đất mà các bên đang tranh chấp là của ông Phan
Thái Q, ký kết hợp đồng liên kết trồng cây cà phê với Nông trường cao su T (nay
5
thuộc Nông trường cao su C), thời gian 30 năm. Đến ngày 10/02/2003, ông L
chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất trên cho ông Trương L, ông L tiếp tục nhận
liên kết với nông trường, một phần diện tích giáp ranh với đất ông H, từ đó đến nay
ông L vẫn sử dụng ổn định không xảy ra tranh chấp với ai. Khi có chủ trương của
Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk thu hồi toàn bộ diện tích đất liên kết của nông
trưởng trả về cho Uỷ ban nhân dân huyện CM quản lý thì đến năm 2020, ông L với
ông H xảy ra tranh chấp.
Nguồn gốc diện tích đất của ông H đang sử dụng là của ông Dương B là cha
đẻ của ông H, ký hợp đồng liên kết trồng cà phê với Nông trường C vào ngày
01/7/1996, diện tích 6000m
2
, thời gian 30 năm. Đến năm 2017, ông B chết, ông H
tiếp tục canh tác sử dụng cho đến nay.
Đến ngày 27/8/2003, UBND tỉnh Đắk Lắk ban hành Quyết định số
2831/QĐ-UB thu hồi 1.760.100m
2
đất của Nông trường cao su C giao cho UBND
huyện CM quản lý, trong đó có diện tích đất liên kết 0,98ha của ông L và 06 sào
của ông B (nay ông H sử dụng) nói trên. Từ khi Nông trường cao su C bàn giao đất
về cho UBND huyện CM thì đến nay UBND huyện CM đang lập phương án sử
dụng đất và chờ UBND tỉnh Đắk Lắk phê duyệt.
Như vậy, có đủ cơ sở xác định diện tích đất mà ông L, ông H đang sử dụng
trong đó có phần diện tích 322,5m
2
mà các bên tranh chấp có nguồn gốc là thuộc
quỹ đất của Nông Trường cao su C (trước đây là nông trường cao su C) ký hợp
đồng liên kết trồng và chăm sóc cà phê với ông Dương B và ông Phan Thái Q (sau
ông Q nhượng lại cho ông L). Đến ngày 27/8/2003 thì các thửa đất này đã bị thu
hồi theo Quyết định số 2831/QĐ-UB của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Do đó,
diện tích đất tranh chấp thuộc quyền quản lý của Nhà nước, cụ thể thu hồi của
Nông trường cao su T (nay là Nông trường cao su C) giao cho UBND huyện CM
quản lý. Ông L, ông H chưa được UBND huyện CM giao đất hoặc cấp quyền sử
dụng đất đối với diện tích đất mà hai ông đang sử dụng trong đó có phần đất tranh
chấp. Do vậy, ông L kiện đòi đất là không có cơ sở nên Tòa án cấp sơ thẩm tuyên
bác toàn bộ đơn khởi kiện của nguyên đơn ông L là có căn cứ.
Từ những phân tích trên xét thấy không có căn cứ chấp nhận đơn kháng cáo
của ông Trương L cần giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp.
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên
nguyên đơn ông Trương L phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của
pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ khoản 1 Điều 308; Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Trương L – Giữ nguyên
Bản án dân sự sơ thẩm số 59/2024/DS-ST ngày 26 tháng 7 năm 2024, của Tòa án nhân
dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk.
6
[2] Căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều
39, Điều 147, Điều 157, Điều 165, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố
tụng dân sự;
Căn cứ Điều 5, Điều 16, Điều 17, Điều 166 Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 159, Điều 257 Bộ luật Dân sự;
Căn cứ khoản 3 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trương
L về việc buộc ông Dương Ngọc H trả lại diện tích đất 322,5m
2
tại Tổ dân phố T,
thị trấn QP, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk.
- Về chi phí đo đạt và xem xét, thẩm định tại chỗ:
Ông Trương L phải chịu 13.878.000 đồng chi phí đo đạc và xem xét, thẩm
định tại chỗ được khấu trừ vào số tiền 13.878.000 đồng mà ông Trương L đã nộp,
đã thu và chi phí xong.
- Về chi phí định giá tài sản:
Ông Trương L phải chịu 2.000.000 đồng chi phí định giá tài sản, được khấu
trừ vào số tiền 2.000.000 đồng mà ông Trương L đã nộp, đã thu và chi phí xong.
[3] Về án phí:
[3.1] Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Trương L phải chịu 886.875 đồng án phí
dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 500.000 đồng tạm ứng án phí sơ thẩm
mà ông L đã nộp theo biên lai số AA/2019/0009987 ngày 01/6/2020 tại Chi cục thi
hành án dân sự huyện CM, tỉnh Đắk Lắk. Ông Trương L còn phải nộp 386.875
đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Trả lại cho ông Trương L 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc
thẩm do bà Chu Thị H là vợ ông Trương L đã nộp theo biên lai số
60AA/2021/0001405 ngày 22/10/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện CM,
tỉnh Đắk Lắk.
[3.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Trương L phải chịu 300.000 đồng tiền án
phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc
thẩm đã nộp theo biên lai thu số AA/2023/0007829 ngày 05/8/2024 tại Chi cục thi
hành án dân sự huyện CM, tỉnh Đắk Lắk.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
-VKSND tỉnh ĐắkLắk; Thẩm phán- Chủ tọa phiên tòa
- TAND huyện Cư M’gar; (Đã ký)
- CCTHADS huyện CM;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ.
Nguyễn Thị Hằng
Tải về
Bản án số 32/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 32/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm