Bản án số 455/2024/DS-PT ngày 14/11/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 455/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 455/2024/DS-PT ngày 14/11/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Long An
Số hiệu: 455/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 14/11/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyễn Thị Hông N "Tranh chấp hợp đồng đặt cọc" Võ Lê M
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN
Bn án s: 455/2024/DS-PT
Ngày 14-11-2024
V/v tranh chấp hợp đồng đặt cọc
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Huỳnh Hữu Nghĩa
Các Thẩm phánBà Trịnh Thị Phúc
Bà Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Mai Lan Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân tỉnh Long An.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Kim Chung - Kiểm sát viên.
Ngày 14 tháng 11 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Long An xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ s445/2024/TLPT-DS ngày 02 tháng 10
năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”.
Do Bản án dân sự thẩm số 39/2024/DS-ST ngày 03 tháng 7 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Cần Đước bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 345/2024/QĐ-PT ngày
11 tháng 10 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Nguyễn Thị Hồng N, sinh năm: 1979. Địa chỉ trú: Số
A, đường N (nay là đường P), ấp C, xã M, huyện C, tỉnh Long An (có mặt).
- Bị đơn: Ông Võ Lê M, sinh năm: 1999. Địa chỉ cư trú: Số nhà B, ấp A, xã
L, huyện C, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của ông M: Ông Văn T, sinh năm: 1970.
Địa chỉ trú: Ấp A, L, huyện C, tỉnh Long An (Theo giấy ủy quyền ngày
19/7/2023) (có mặt).
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm:
1964. Địa chỉ cư trú: Ấp A, xã T, huyện C, tỉnh Long An (có mặt).
- Người kháng cáo: ông Võ Lê M là bị đơn.
- Người kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Cần
Đước.tỉnh Long An.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo đơn khởi kiện đề ngày 12/3/2023 lời trình bày trong qtrình giải
quyết vụ án của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hồng N có nội dung như sau:
Ngày 18/10/2022, N ông Minh K Hợp đồng đặt cọc thửa đất
số 345, tờ bản đồ số 2, diện tích 1.017m2, tọa lạc tại ấp A, L, huyện C, tỉnh
Long An theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 460017, số vào sổ cấp
GCN: CS 05596 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh L cấp ngày 21/11/2018
cho ông M. Giá chuyển nhượng 1.200.000.000 đồng. Theo nội dung
của Hợp đồng thì ông M có trách nhiệm đo vẽ lại hiện trạng đất. Bà N đặt cọc số
tiền 100.000.000 đồng tiếp tục thanh toán phần còn lại vào ngày 18/11/2022
cũng ngày các bên thỏa thuận hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng
đất. Nếu ông M không thực hiện đúng hợp đồng thì phải đền gấp 02 trên số
tiền đặt cọc. Nếu N thay đổi ý định (không mua) sẽ mất tiền đặt cọc. N sẽ
thanh toán tiền theo diện tích thực tế của bản vẽ được cơ quan xác nhận.
Sau khi Hợp đồng đặt cọc thì ông Nguyễn Thành L người môi giới
đất cũng là người ký tên “Nhân chứng” trong Hợp đồng đặt cọc có nói do thửa
đất số 345 của ông M theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 02 loại đất:
đất 400m2, đất trồng cây hàng năm khác 617m2 nên theo quy định hiện hành
của pháp luật thì không thể đăng bộ sang tên. Do đó, N ông M thỏa
thuận thêm nội dung khác được viết tay bổ sung thêm vào cuối Hợp đồng đặt
cọc: trong thời gian đặt cọc ông M cho phép bà N dọn cỏ, cấm cọc; phần giấy tờ
phần sai sót, ông M phải chỉnh đo đạc cấp sổ mới khi nào giấy tờ sẽ ra
công chứng - Tuy nhiên N tự nghĩ theo quy định của pháp luật thì thời gian
chỉnh chỉ khoảng từ 03 đến 04 tháng; bán theo hiện trạng đất thực tế -
nghĩa sau khi ông M chỉnh giấy tờ đất thì theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất mới được cấp thì diện tích bao nhiêu N sẽ đồng ý mua bấy nhiêu.
Giá chuyển nhượng sẽ tính theo diện tích 1m2 1.200.000.000 đồng chia cho
1.017m2 và nhân với diện tích được cấp theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất mới. Ông M hẹn khi nào sổ mới sẽ thông báo cho N biết để tiến hành
ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Khoảng cuối tháng 10/2022, thì ông M liên hệ với ông Nguyễn Thành L
nói khi nào bản vẽ thì hợp đồng chuyển nhượng. Ông M cũng gọi
điện thoại cho N hỏi ý kiến là đất thiếu thì N đồng ý mua không, N
hỏi lại đất thiếu bao nhiêu nhưng ông M không nói chỉ nói là đất thiếu,
N yêu cầu ông M đưa bản vẽ ra để xem đất thiếu bao nhiêu để cùng nhau giải
quyết nhưng ông M chỉ nói chứ không đưa ra. Khoảng hơn 03 tháng nhưng
vẫn không thấy ông M liên lạc lại với bà N.
Việc mua đất là hùn vốn giữa bà N và ông Nguyễn Văn T1. Sau tết âm lịch
năm 2023, thì ông T1 hỏi thăm xung quanh thì được nghe thông tin N
đã bỏ cọc. Trong khi đó N vẫn đợi ông M trả lời lại về việc làm giấy tờ đất.
Do đó, ngày 14/02/2023, bà N cùng ông T1, ông L có đến nhà của ông M để gặp
ông M nhưng không nhà gặp ông T. Khi trình bày sự việc tông T
gọi điện thoại cho ông M để hỏi và được trả lời chưa làm thủ tục làm giấy tờ đất
ông T i đó lỗi của ông M, ông T cũng gọi điện thoại cho những
người quen biết làm giấy tờ đất để hỏi về việc chuyển nhượng nhưng đều được
3
trả lời phải chỉnh giấy tờ đất, tách thành 02 sổ t mới chuyển nhượng
được. Do N thấy bên ông M không thiện chí về việc chỉnh giấy tđất
để chuyển nhượng cho nên N yêu cầu trả lại tiền cọc số tiền đặt cọc
100.000.000 đồng nhưng ông M chỉ đồng ý trả lại 76.000.000 đồng do ông M đã
trả 24.000.000 đồng tiền hoa hồng môi giới, N không đồng ý, các bên không
thỏa thuận được và ông M yêu cầu bà N đến chính quyền địa phương để yêu cầu
giải quyết. N đến UBND L để yêu cầu giải quyết thì UBND xã L
hướng dẫn khởi kiện tại Tòa án nên ngày 23/02/2023, nộp đơn khởi kiện tại
Tòa án nhân dân huyện Cần Đước.
đã giao đủ số tiền đặt cọc 100.000.000 đồng cho ông M. Còn
việc ông M ông L thỏa thuận tiền hoa hồng môi giới như thế nào số tiền
bao nhiêu thì N không biết. Do đó, N không đồng ý việc ông M trả lại số
tiền đặt cọc 76.000.000 đồng. N không thỏa thuận tiền hoa hồng môi
giới đất nên không có trách nhiệm.
Do đó, bà Nguyễn Thị Hồng N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
1/ Yêu cầu hủy thỏa thuận chuyển nhượng trong Hợp đồng đặt cọc ngày
18/10/2022 đối với thửa đất số 345, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại L, huyện C,
tỉnh Long An.
2/ Yêu cầu ông M trả lại số tiền đặt cọc là 100.000.000 đồng bồi
thường vi phạm là 100.000.000 đồng. Tổng cộng là 200.000.000 (Hai trăm triệu)
đồng.
Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án N thay đổi, xác định lại
nội dung khởi kiện là:
1/ Yêu cầu hủy thỏa thuận chuyển nhượng trong Hợp đồng đặt cọc ngày
18/10/2022 đối với thửa đất số 345, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại L, huyện C,
tỉnh Long An.
2/ Yêu cầu ông M trả lại số tiền đặt cọc 100.000.000 đồng (Một
trăm triệu đồng).
* Bị đơn ông M do ông Văn T là người đại diện theo ủy quyền
trình bày trong quá trình giải quyết vụ án có nội dung như sau”
Ngày 18/10/2022, N ông M Hợp đồng đặt cọc thửa đất
số 345, tờ bản đồ số 2, diện tích 1.017m
2
, tọa lạc tại ấp A, L, huyện C, tỉnh
Long An theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 460017, số vào sổ cấp
GCN: CS 05596 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh L cấp ngày 21/11/2018
cho ông M. Ông T xác nhận phần nội dung “thỏa thuận khác” được ghi
cuối Hợp đồng đặt cọc cũng là nội dung thỏa thuận giữa bà N và ông M và được
ghi cùng với thời điểm Hợp đồng đặt cọc. Số tiền chuyển nhượng
1.200.000.000 đồng, số tiền đặt cọc 100.000.000 đồng. Bà N đã giao số tiền
100.000.000 đồng cho ông M. Ngay sau khi nhận tiền đặt cọc thì ông M
đã đưa cho ông Nguyễn Thành L là người môi giới cũng là người ký tên và ghi
họ tên tại mục Nhân chứng trong Hợp đồng đặt cọc - số tiền 24.000.000 đồng là
tiền hoa hồng cho việc mua bán đất. Ông M xác định người nhận tiền hoa hồng
4
mua bán đất chỉ mình ông L. Còn việc chia tiền hoa hồng giữa những người
mua bán như thế nào thì ông M không biết. Do đó, số tiền thực tế ông M nhận
chỉ có 76.000.000 đồng.
Tại phần “Thỏa thuận khác” trong Hợp đồng đặt cọc nội dung phần
giấy tờ có phần sai sót bên A phải chỉnh lý”, phần sai sót ở đây khi ký hợp đồng
đặt cọc thì ông L nói là sai họ tên của ông M nên sau khi ký hợp đồng đặt cọc
thì ông L nhận trách nhiệm đi chỉnh lại họ tên cho đúng. Tại thời điểm
hợp đồng đặt cọc thì ông M không biết giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
của ông M phải tách ra làm 02 sdo 02 loại đất thì mới thực hiện thủ tục
chuyển nhượng được. Sau khi Hợp đồng đặt cọc khoảng 02 ngày tông M
gọi điện thoại cho ông L để hỏi việc chỉnh tên trong Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất được hay không thì được ông L cho biết Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất không có sai họ tên mà cần phải tách thành 02 sổ. Do đó, ông
M có nhận trách nhiệm sẽ làm thủ tục cấp sổ mới để chuyển nhượng cho bà N.
Khi ông M nhận chuyển nhượng thửa đất 345 là nhận chuyển nhượng từ
con, trọn thửa không tiến hành đo đạc diện tích thực tế. Do đó, tại phần Thỏa
thuận khác còn có nội dung là “Bán đất theo hiện trạng thực tế”. Có nghĩa là sau
khi đo đạc lại thửa đất thì diện tích nhiều hơn hay ít hơn thì giá chuyển nhượng
vẫn là 1.200.000.000 đồng. trước khi Hợp đồng đặt cọc thì phía N đã
có đến xem vị trí đất và phần đất cũng đã được cắm cọc ranh giới.
Sau đó, ông M có liên hệ dịch vụ nhà đất để làm thủ tục tách thửa. Các bên
không có thỏa thuận nội dung là thuê dịch vụ nhà đất để làm giấy tờ mà chỉ thỏa
thuận ông M người có trách nhiệm làm thủ tục giấy tờ đất.
Khoảng 01 tháng sau thì dịch vụ nhà đất thông báo với ông M diện tích
thực tế của thửa đất thiếu so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông có gọi
điện thoại báo với bà N thì bà N có nói nếu thiếu nhiều sẽ không mua, ông M
nói để làm thủ tục đo đạc, ra sổ xem diện tích bao nhiêu thì thỏa thuận chuyển
nhượng. Tuy nhiên, do dịch vụ nhà đất báo giá 35.000.000 đồng thời gian
là 3,5 tháng, ông M thấy giá cao và thời gian lâu và do không có thỏa thuận thời
gian phải làm giấy với bà N nên ông M đã không thuê dịch vụ nhà đất đó mà tìm
dịch vnhà đất khác. Đến đầu tháng 02/2023 thì ông M mới tìm được người
quen làm bên nhà đất hứa làm nhanh thể nên ông M đã thuê đến
ngày 21/4/2023 thì ông M đã làm xong giấy tờ đất.
Quá trình làm giấy, N không liên hệ với ông M để hỏi về giấy tờ đất
khoảng đầu tháng 02/2023, ông L đại diện cho N trao đổi điện thoại
với ông M về việc làm giấy tờ đất thì ông M trả lời đang thuê dịch vụ để
làm giấy tờ đất. Hiện nay thửa đất số 345 (thửa cũ) đã được chỉnh thành 02
thửa đất: thửa đất số 345, tờ bản đồ số 2, diện tích 400m2, loại đất tại nông
thôn thửa đất số 5901, tờ bản đồ số 2, diện tích 277m2, loại đất trồng cây
hàng năm khác. Khi sổ mới thì ông M đã liên hệ liền với N đề nghị
Hợp đồng chuyển nhượng nhưng N nói đã khởi kiện tại Tòa án nên để
Tòa án giải quyết. Nếu bà N đồng ý tiếp tục thì khi nào có giấy ông M sẽ chuyển
nhượng. Nếu N không chịu thì sẽ phải mất tiền cọc. Ông L không đồng ý
5
yêu cầu ông M trả lại tiền cọc phạt cọc. Đối với số tiền hoa hồng 24.000.000
đồng thì do việc mua bán đất giữa ông M N không thành nên ông M yêu
cầu ông L phải trả lại số tiền trên cho ông M.
Đối với yêu cầu khởi kiện của bà N thì ông M có ý kiến như sau:
1/ Ông M đồng ý hủy thỏa thuận chuyển nhượng trong Hợp đồng đặt cọc
ngày 18/10/2022 đối với thửa đất số 345, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại L, huyện
C, tỉnh Long An.
2/ Ông M không đồng ý trả lại số tiền đặt cọc 100.000.000 đồng bồi
thường vi phạm là 100.000.000 đồng. Tổng cộng là 200.000.000 (Hai trăm triệu)
đồng. Vì:
- Theo thỏa thuận trong hợp đồng đặt cọc thì ông M trách nhiệm thực
hiện thủ tục cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp
luật. Sau khi cấp đổi thì N phải hợp đồng chuyển nhượng với ông M và
giao đủ số tiền còn lại.
- Hai bên không thỏa thuận thời hạn cụ thể để ông M phải tiến hành cấp
đổi, chỉ thỏa thuận “khi nào có giấy tờ sẽ ra công chứng”.
- Trong khi ông M đang thực hiện thủ tục cấp đổi thì bà N khởi kiện tại Tòa
án.
- Sau khi được cấp đổi giấy (ngày 21/4/2023) thì ông M có liên hệ bà N yêu
cầu ký Hợp đồng chuyển nhượng và giao tiền nhưng bà N không đồng ý.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T1 trình bày
trong quá trình giải quyết vụ án có nội dung như sau:
Ông T1 Nguyễn Thị Hồng N cùng góp vốn để mua thửa đất số 345,
tờ bản đồ số 2, diện tích 1017m
2
, tọa lạc tại ấp A, L, huyện C, tỉnh Long An
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 460017, số vào sổ cấp GCN: CS
05596 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp ngày 21/11/2018 cho ông
M theo Hợp đồng đặt cọc ngày 18/10/2022 giữa bên chuyển nhượng ông
Lê M bên nhận chuyển nhượng bà Nguyễn Thị Hồng N. Ông T1 góp
50.000.000 đồng và N góp 50.000.000 đồng.Tuy nhiên, ông T1 N
thỏa thuận là ông giao toàn quyền quyết định cho bà N để N đứng ra giao
dịch nhận chuyển nhượng thửa đất với ông Võ Lê M.
Đối với vụ án ông T1 ý kiến như sau: ông đồng ý để cho N tự một
mình đứng ra khởi kiện Tranh chấp hợp đồng đặt cọc với ông M, ông
không có yêu cầu trong vụ án Tranh chấp hợp đồng đặt cọc. Đối với việc góp
vốn giữa ông N thì ông bà N tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu
giải quyết trong cùng vụ án này.
* Người làm chứng ông Nguyễn Thành L trình bày trong quá trình giải
quyết vụ án có nội dung như sau:
Ông L người tên phía dưới mục “Nhân chứng” trong Hợp đồng đặt
cọc ngày 18/10/2022 giữa bên chuyển nhượng ông Võ Lê M bên nhận
chuyển nhượng Nguyễn Thị Hồng N đối với thửa đất số 345, tờ bản đồ số 2,
6
diện tích 1017m2, tọa lạc tại ấp A, xã L, huyện C, tỉnh Long An theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 460017, số vào sổ cấp GCN: CS 05596 do
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp ngày 21/11/2018 cho ông Võ Lê M.
do ông L tên tại mục “Nhân chứng” do ông người chứng kiến
việc ông M Nguyễn Thị Hồng N thỏa thuận nội dung Hợp đồng
đặt cọc trên, là người ghi nội dung thỏa thuận trong Hợp đồng đặt cọc, đồng thời
ông cũng người môi giới cho ông Minh B thửa đất cho Nguyễn Thị
Hồng N.
Do ông M nhu cầu bán thửa đất số 345 nên ông M gửi thông
tin, giấy tthửa đất cho nhóm môi giới đất của ông Phạm Minh T2, sinh năm
1986, địa chỉ: ấp D, xã T, huyện C, tỉnh Long An để nhóm môi giới đất của ông
T2 tìm người mua đất cho ông M.
Sau đó, ông T2 mới liên hệ với ông L để ông L đi giới thiệu tìm khách mua
đất. Ông L hỏi ông T2 tiền hoa hồng môi giới thửa đất bao nhiêu thì ông
T2 nói với ông 24.000.000 đồng do phía bên bán chịu. Tiền hoa hồng môi
giới phía ông T2 ½, phía ông ½.
Sau đó, ông L giới thiệu được cho N đồng ý mua thửa đất của ông M.
Ông chỉ là người môi giới và ông chỉ môi giới trên giấy tờ.
Ông L người dẫn bà N đến xem đất. Khi đến thì thửa đất có cọc ranh hay
không thì ông không thấy được do khi đó cây cối um tùm.
Ngày 18/10/2022, ông M Nguyễn Thị Hồng N tiến hành ký
hợp đồng đặt cọc. Giá chuyển nhượng trong Hợp đồng đặt cọc các bên thỏa
thuận 1.200.000.000 đồng đối với diện tích 1.017m2 theo diện tích được ghi
trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, ông M có nói đất thiếu
so với giấy nên các bên thỏa thuận là sẽ thanh toán tiền theo diện tích thực tế
của bản vẽ được cơ quan xác nhận. Giá 1m2 là 1.179.941 đồng.
Sau khi hợp đồng đặt cọc, N đã giao cho ông M số tiền đặt cọc
100.000.000 đồng.
Khi ông L chứng kiến các bên ký Hợp đồng đặt cọc thì ông có thông báo về
việc phải chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thành 02 giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thì mới m thủ tục chuyển nhượng quyền sdụng đất
được. Do đó, ngoài nội dung thỏa thuận trong Hợp đồng đặt cọc thì các bên
nội dung thỏa thuận khác được ghi thêm phía sau Hợp đồng đặt cọc. Theo nội
dung thỏa thuận khác thì ông M trách nhiệm chỉnh đo đạc cấp sổ mới khi
nào có giấy tờ thì thông báo cho bên N để tiến hành công chứng ký hợp đồng
chuyển nhượng. Để tránh việc N không đồng ý mua đất do đất thiếu sau khi
thực hiện việc chỉnh lý giấy tờ nên tại nội dung thỏa thuận khác, cũng ghi
thêm nội dung “bán đất theo hiện trạng thực tế” đồng nghĩa với việc sau khi
chỉnh xong giấy tờ thì diện tích còn lại bao nhiêu thì N ng phải mua với
giá 1m2 1.179.941 đồng nhân với diện tích được ghi nhận trong 02 giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi đã chỉnh lý.
7
Ông L nhận của ông M số tiền hoa hồng môi giới đất 24.000.000
đồng. Sau đó ông có chia lại cho những người cùng môi giới với ông.
Ông L xác định thời gian Hợp đồng chuyển nhượng ban đầu thỏa thuận
01 tháng ngày 18/11/2022 nhưng sau đó do cần phải chỉnh giấy tờ nên
các bên đã thỏa thuận lại là “Khi nào có giấy tờ sẽ ra công chứng”.
Các bên không thỏa thuận nội dung thuê dịch vụ nhà đất đlàm giấy
tờ mà chỉ thỏa thuận ông M là người có trách nhiệm làm thủ tục giấy tờ đất.
Quá trình chờ ông M làm thủ tục chỉnh lý giấy tờ, ông L có liên hệ với ông
M để hỏi về việc chỉnh giấy tờ thì khi ông M nói đang làm thủ tục,
khi ông M nói đang đo vẽ nhưng đất bị thiếu. Ông L đề nghị ông M gửi
bản vẽ để xem nhưng ông M không có gửi.
Tuy nhiên, sau 04 tháng ktừ ngày Hợp đồng đặt cọc, phía bên ông M
cũng không liên lạc với N nên ông L gọi điện thoại cho ông M để hỏi
về giấy tờ đất đã chỉnh xong chưa thì ông M trả lời do phía bên N
không liên hvới ông M nên bmất cọc. Ông L nói lớn tiếng với ông M
trong điện thoại thì ông M nói ông L không liên quan đến việc mua bán đất nên
ông L thông báo lại cho N để N ông M giải quyết với nhau. Ông
L cùngN đến nhà ông M khi đó đã gần 04 tháng thì ông L mới biết là ông M
chưa bắt đầu làm thủ tục chỉnh lý giấy tờ.
* Người làm chứng ông Phạm Minh T2 trình bày trong quá trình giải quyết
vụ án có nội dung như sau:
Ông T2 một trong những người môi giới thửa đất số 345, tờ bản đồ số 2,
diện tích 1.017m2, tọa lạc tại ấp A, L, huyện C, tỉnh Long An theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 460017, số vào sổ cấp GCN: CS 05596 do
Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh L cấp ngày 21/11/2018 cho ông M
giữa bên bán là ông Võ Lê M và bên mua là bà Nguyễn Thị Hồng N.
Ông T2 là người môi giới trung gian. Ông nhận công việc môi giới thửa đất
từ một người chị tên “Út” (ông không biết họ tên, năm sinh, địa chỉ đâu).
Ông được biết thửa đất này chđã gửi cho một người anh tên H(ông
không biết họ tên, năm sinh, địa chỉ ở đâu) để chào bán.
Nội dung công việc môi giới của ông T2 nhận thông tin thửa đất, chào
khách, dẫn khách đến gặp chủ để xem đất. Việc các bên thỏa thuận mua bán như
thế nào thì ông không biết. Khi đăng thông tin đbán đất thì ông đăng luôn
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất.
Sau khi nhận được thông tin thửa đất tchị “Út” thì ông T2 đăng rao
bán trên facebook và zalo cá nhân của ông.
Ông Nguyễn Thành L người chủ động liên hvới ông T2 để hỏi thông
tin thửa đất và nói là có khách có nhu cầu mua thửa đất.
Chiều ngày 18/10/2022, ông L cùng với ôngTuấn, chÚ”, anh Hđến vị
trí đất để xem đất. Khi đó thì ông Võ Văn T cha của ông M cũng
8
mặt để chỉ vị trí đất. Thửa đất khi đó đã được cắm cọc ranh giới. Ông T chỉ chỉ
vị trí đất để xem chứ các bên không tiến hành đo đạc.
Sau khi xem đất thì mọi người cùng về nhà ông T. Ông L yêu cầu được đặt
cọc và tự thỏa thuận với ông T.
Sau đó thì Nguyễn Thị Hồng N đến nhà ông T để tiến hành Hợp
đồng đặt cọc. Khi đó thì ông M không có ở nhà. Bà N yêu cầu phải có mặt người
đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng thì mới giao tiền cọc nên ông T
gọi điện thoại cho ông M về để ký Hợp đồng đặt cọc.
Việc các bên thỏa thuận như thế nào trong Hợp đồng đặt cọc thì ông T2
không biết. Do công việc của ông chỉ giới thiệu khách, khách chủ đất tự
thỏa thuận với nhau. Nếu được Hợp đồng đặt cọc thì ông sẽ được nhận tiền
hoa hồng.
Ông T2 nghe nói tiền đặt cọc 100.000.000 đồng. Tiền hoa hồng cho
việc mua bán thửa đất là 24.000.000 đồng.
Khi N giao tiền đặt cọc thì ông không mặt. Bà N hay ông M đưa tiền
môi giới thì ông T2 cũng không biết. Ông chỉ biết ông có nhận của ông L số tiền
môi giới 4.000.000 đồng, ông L đưa cho chị “Út” anh H mỗi người
4.000.000 đồng. do: Theo thông lệ trong môi giới thì môi giới đầu khách
(ông L) môi giới đầu chủ (ông, chị Ú”, anh H”), mỗi bên 50:50, tức là mỗi
bên được 12.000.000 đồng tiền hoa hồng.
Sau ngày các bên ký Hợp đồng đặt cọc thì ông T2 cũng không còn gặp mặt
hay liên lạc gì với các bên.
Tại bản án dân sự thẩm số 39/2024/DS-ST ngày 03 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Cần Đước đã tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị
Hồng N về việc Tranh chấp hợp đồng đặt cọc đối với bị đơn ông Võ Lê M.
1.1. Hủy thỏa thuận chuyển nhượng trong “Hợp đồng đặt cọc” lập ngày
18/10/2022 giữa bên chuyển nhượng ông M và bên nhận chuyển nhượng
Nguyễn Thị Hồng N.
1.2. Buộc ông M trách nhiệm hoàn trả lại cho Nguyễn Thị
Hồng N số tiền cọc đã nhận là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng).
1.2. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, 468 Bộ luât
dân sự.
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị Hồng N yêu cầu ông
Lê M bồi thường vi phạm số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng).
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng; án
phí; quyền kháng cáo; quyền yêu cầu, nghĩa vụ và thời hiệu thi hành án.
9
Ngày 15 18/7/2024, Tòa án nhân dân huyện Cần Đước nhận được đơn
kháng cáo của ông M kháng cáo bản án thẩm, yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm cải sửa bản án sơ thẩm theo hướng bà N đã vi phạm hợp đồng đặt cọc
nên bà N phải chịu mất tiền cọc.
Ngày 18/7/2024, Tòa án nhân dân huyện Cần Đước nhận được Q đinh
kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Cần Đước kháng
nghị một phần bản án thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của N v việc yêu cầu ông M trả lại số tiền cọc
100.000.000đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, bị đơn vẫn gi nguyên yêu cầu
kháng cáo, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cần Đước vẫn giữ nguyên quyết định
kháng nghị. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ
án.
Bị đơn ông M do ông Văn T người đại diện theo ủy quyền
trình bày: N đã vi phạm thỏa thuận trong hợp đồng đặt cọc nên ông M không
đồng ý trả lại số tiền đặt cọc là 100.000.000 đồng cho bà N vì:
- Theo thỏa thuận trong hợp đồng đặt cọc thì ông M trách nhiệm thực
hiện thủ tục cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp
luật. Sau khi cấp đổi thì N phải hợp đồng chuyển nhượng với ông M
giao đủ số tiền còn lại.
- Hai bên không thỏa thuận thời hạn cụ thể để ông M phải tiến hành cấp
đổi, chỉ thỏa thuận “khi nào giấy tờ sẽ ra công chứng”. Hiện nay thửa đất số
345 (thửa cũ) đã được chỉnh thành 02 thửa đất: thửa đất số 345, tờ bản đồ số
2, diện tích 400m
2
, loại đất tại nông thôn thửa đất số 5901, tờ bản đồ số 2,
diện tích 277m
2
, loại đất trồng cây hàng m khác. Khi sổ mới tông M đã
liên hệ liền với bà N đề nghị ký Hợp đồng chuyển nhượng nhưng N nói là
đã khởi kiện tại Tòa án nên để Tòa án giải quyết.
- Đất bán theo hiện trạng thực tế chứ không phải theo diện tich thực tế như
N trình bày. Nếu bà N tiếp tục mua thì ông M cũng đồng ý chuyển nhượng.
Ông M chỉ đồng ý hủy thỏa thuận với điều kiện bà N mất cọc.
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hồng N trình bày: bà không đồng ý với yêu cầu
kháng cáo của bị đơn và quyết định kháng nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân huyện Cần Đước. Đề nghị giữ nguyên Bản án thẩm : ông M chậm trễ
trong việc làm thủ tục giấy tờ, diện tích đất thiếu so với giấy. N thừa nhận
khi sổ mới thì ông M đã liên hệ liền với N đề nghị Hợp đồng chuyển
nhượng nhưng bà N có nói là đã khởi kiện tại Tòa án nên để Tòa án giải quyết.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn T1 trình bày: về
số tiền 100.000.000đồng N đặt cọc mua đất của ông M thì ông hùn
50.000.000đồng. Tuy nhiên giấy đặt cọc chỉ do N giao tiền nên ông
đồng ý để bà N toàn quyền khởi kiện ông M, ông không có ý kiến gì. Về số tiền
50.000.000đồng ông hùn với bà N thì giữa ông và bà N tự giải quyết với nhau.
10
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu ý kiến:
Về tính hợp lệ của kháng cáo, kháng nghị: Đơn kháng cáo quyết định
kháng nghị nằm trong hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Về chấp hành pháp luật: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội
đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa đã tuân thủ
đúng những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng
đã chấp hành đúng pháp luật.
Về việc giải quyết yêu cầu kháng cáo, kháng nghị:
Hợp đồng đặt cọc ngày 18/10/2022 giữa các bên nội dung: Ông M
chuyển nhượng cho bà N một thửa đất diện tích 1017m
2
(617 vườn, 400 thổ) giá
chuyển nhượng 1.200.000.000 đồng tại trang 2 của hợp đồng đặt cọc phần
viết tay thêm “trong thời gian đặt cọc ông M cho phép N dọn cỏ, cấm cọc;
phần giấy tphần sai sót, ông M phải chỉnh đo đạc cấp sổ mới khi nào
giấy tờ sẽ ra công chứng; bán đất theo hiện trạng đất thực tế”.
Như vậy, với yêu cầu của N thì ông M cho phép N dọn cỏ, cấm cọc
trong thời gian đặt cọc; điều đó nghĩa bà N đã nhận đất chấp nhận cắm
cọc theo cái vị trí mà ông M đã giao. Đồng thời phần thoả thuận khác đã có ghi:
bán đất theo hiện trạng đất thực tế. Với hai tình tiết này đủ cơ sđể xác định bà
N mua đất trọn thửa không phải mua đất tính mét vuông như bà trình bày.
Về thời hạn thực hiện hợp đồng chuyển nhượng trong hợp đồng đặt cọc
thấy rằng chỉ có ghi Phần còn lại sẽ thanh toán vào ngày 18/11/2022 và tại trang
2 phần thoả thuận viết tay ghi khi nào giấy tờ sra công chứng. Theo tài
liệu trong hồ sơ thể hiện: Đến ngày 21/4/2023 thì ông M đã hoàn tất chỉnh lý
giấy tờ để thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ông M đã thực hiện
các nghĩa vụ theo như thỏa thuận trong hợp đồng đặt cọc và đã có điện thoại yêu
cầu bà N ra công chứng thì bà N trả lời là đã khởi kiện ông M tại Toà án.
Ngày 20/7/2023, N cho rằng ông M hơn 03 tháng không thấy ông M
liên lạc... phát hiện trong thời gian qua ông M không thực hiện việc chỉnh
giấy chứng nhận... Tuy nhiên qua các tài liệu trong hồ thể hiện các tin
nhắn Zalo (BL 90-108) ngay từ ngày 25/10/2022 thì phía ông M đã liên hệ
dịch vụ nhà đất nhờ chỉnh lý giấy tờ đất nên lời trình bày này của bà N không có
căn cứ. Tại biên bản phiên toà: N đã trình bày mua đất theo diện tích
trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau này đo đạc ra diện tích thực tế bao
nhiêu nhân với giá thoả thuận mới là giá chuyển nhượng. Thấy rằng lời trình bày
này không có căn cứ chấp nhận vì phía bị đơn không thừa nhận và Hợp đồng đặt
cọc cũng thể hiện gchuyển nhượng 1,2 tỷ hoàn toàn không thoả
thuận tính theo diện tích thực tế sau khi đo đạc.
Thấy rằng các bên đã hợp đồng đặt cọc để nhận chuyển nhượng đất với
nhau thì cần tuân thủ đúng theo hợp đồng đặt cọc các bên đã ký kết và thực hiện,
nếu bên nào không thực hiện đúng theo những đã cam kết thì sẽ bị mất cọc
hoặc phạt cọc. Căn cứ vào nội dung hợp đồng đặt cọc ngày 18/10/2022 hai
bên đã kết thì hoàn toàn không nội dung tính giá đất theo mét vuông,
11
không ấn định thời hạn phải hoàn tất giấy tờ. Đồng thời tại phiên hoà giải
ngày 20/7/2023 phía đại diện bị đơn yêu cầu nguyên đơn tiếp tục thực hiện
hợp đồng đặt cọc nhưng phía nguyên đơn không đồng ý nên căn cứ vào nội
dung hợp đồng đặt cọc đã ghi: Nếu bên B thay đổi ý định (không mua) smất
tiền cọc. Do đó bên bị đơn kháng cáo bản án sơ thẩm là có căn cứ chấp nhận.
Xét về căn cứ Điều luật áp dụng pháp luật của Bản án thẩm căn cứ vào
Điều 427 BLDS để giải quyết chưa chính xác. Đồng thời Kháng nghị số
153/QĐ-VKS-DS ngày 18/7/2024 của VKS nhân dân huyện C căn cứ vào các
Điều 423, 424, 425 và 426 để áp dụng pháp luật ra Kháng nghị là chưa phù hợp.
Đề nghị cấp phúc thẩm áp dụng Điều 328 BLDS để làm căn cứ giải quyết vụ án
mới phù hợp với bản chất và sự thật khách quan của việc tranh chấp.
Do đó đnghị Hội đồng xét xphúc thẩm chấp nhận kháng cáo của ông
M chấp nhận một phần Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân huyện Cần Đước. Căn cứ Khoản 2 Điều 308 BLTTDS Sửa một phần
bản án thẩm. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn
Thị Hồng N về việc yêu cầu ông M trả lại số tiền đặt cọc 100.000.000đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Về thủ tục tố tụng:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, những người được Tòa án triệu tập có mặt, có
đơn đề nghị xét xử vắng mặt hoặc được tống đạt hợp lệ, Tòa án tiến hành xét xử
theo trình tự phúc thẩm phù hợp quy định tại Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân
sự.
[2] Tòa án cấp sơ thẩm xác định thẩm quyền Tòa án giải quyết, quan hệ
pháp luật tranh chấp, người tham gia tố tụng xét xtheo trình tự thẩm
phù hợp với quy định tại Điều 26, 35, 39, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, bản
án sơ thẩm đảm bảo thủ tụng tố tụng.
Về việc giải quyết yêu cầu kháng cáo, kháng nghị:
[3] Đơn kháng cáo của ông M kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân huyện Cần Đước đảm bảo đúng các nội dung quy định tại Điều
272, Điều 273, Điều 279, Điều 280, của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, do đó
đủ điều kiện để xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[4] Xét kháng cáo của bị đơn và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân huyện Cần Đước. Hội đồng xét xử thấy rằng:
[4.1] Các đương sự cùng thống nhất xác định: Ngày 18/10/2022,
Nguyễn Thị Hồng N ông Minh K Hợp đồng đặt cọc. Nội dung trong
hợp đồng đặt cọc (BL 73, 74) thể hiện: Ông M chuyển nhượng cho N thửa
đất số 345, tờ bản đồ số 2, diện tích 1017m
2
(617m
2
vườn, 400m
2
thổ), tọa lạc
tại ấp A, L, huyện C, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số CP 460017, số vào sổ cấp GCN: CS 05596 do Sở Tài nguyên Môi trường
tỉnh L cấp ngày 21/11/2018 cho ông M. Giá chuyển nhượng
1.200.000.000 đồng. Ông M đo vẽ lại hiện trạng đất; bà N đặt cọc trước cho ông
12
M số tiền 100.000.000 đồng, phần còn lại sẽ thanh toán vào ngày 18/11/2022;
Nếu ông M không thực hiện đúng hợp đồng thì phải đền gấp hai trên số tiền
đặt cọc; Nếu N thay đổi ý định (không mua) sẽ mất tiền đặt cọc. Đồng thời
ông M N thỏa thuận khác được ghi thêm vào cuối trang của Hợp đồng
đặt cọc thể hiện: trong thời gian đặt cọc ông M cho phép bà N dọn cỏ, cấm cọc;
phần giấy tphần sai sót, ông M phải chỉnh đo đạc cấp sổ mới khi nào
giấy tờ sẽ ra công chứng; bán đất theo hiện trạng thực tế. Sau khi Hợp đồng
đặt cọc và thỏa thuận khác, bà N đã giao cho ông M số tiền đặt cọc 100.000.000
đồng. Đây là những tình tiết không phải chứng minh theo Điều 92 của Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015.
[4.2] Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bà Nguyễn Thị Hồng
N đnghị hủy hợp đồng đặt cọc ngày 18/10/2022, chuyển nhượng thửa đất số
345 thửa số 2, giấy chứng nhận QSDĐ số CS 05596 diện tích 1.017m
2
(617m
2
đất vườn, 400m
2
đất thổ), tọa lạc tại xã L, huyện C do ông M đứng tên
trên GCNQSDĐ. Bị đơn ông M đồng ý với yêu cầu hủy bỏ hợp đồng đặt
cọc ngày 18/11/2022 của N, nên Hội đồng xét xử cấp thẩm tuyên: Hủy
thỏa thuận chuyển nhượng trong “Hợp đồng đặt cọc lập ngày 18/10/2022 giữa
bên chuyển nhượng ông M bên nhận chuyển nhượng Nguyễn Thị
Hồng N là có căn cứ pháp luật.
[4.3] Về việc Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm tuyên buộc ông Võ Lê M trả lại
số tiền đặt cọc 100.000.000 đồng cho N thấy rằng: N cho rằng ông M
chậm trễ trong việc chỉnh giấy tờ đất để chuyển nhượng đất cho nên sau
khi ông M chỉnh giấy tđất xong, ông M gọi yêu cầu tiếp tục thực hiện việc
chuyển nhượng đất nhưng N từ chối không tiếp tục việc chuyển nhượng.
Theo hồ sơ thể hiện tại phiếu đ nghị trích lục bản đồ địa chính đ ngày
25/10/2022, chứng tỏ trong thời gian thực hiện hợp đồng, ông M và gia đình ông
làm thủ tục chỉnh đối với QSDĐ đến ngày 21/4/2023, ông M đã được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới, ông M liên hệ yêu cầu
Nguyễn Thị Hồng N tiếp tục thực hiện hợp đồng nhưng N không đồng ý. Do
đó, đủ sở xác định ông M vẫn thiện chí tiếp tục thực hiện hợp đồng đã
với N. N cho rằng nguyên nhân hợp đồng đặt cọc không thể thực hiện
được do lỗi của ông M vi phạm thời hạn hợp đồng đặt cọc, không thiện chí
chỉnh giấy tờ để chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà không sở,
bởi ông M và bà N thỏa thuận: ông M phải chỉnh lý đo đạc cấp sổ mới khi
nào giấy tờ sẽ ra công chứng; bán theo hiện trạng đất thực tế chứ không phải
bán đất theo diện tích thực tế như N trình bày. N từ chối việc giao kết,
thực hiện hợp đồng nên đề nghị hủy thỏa thuận chuyển nhượng trong “Hợp đồng
đặt cọc đã lập ngày 18/10/2022 giữa ông M Nguyễn Thị Hồng N.
Ông Võ Lê M chỉ đồng ý hủy Hợp đồng chứ không đồng ý trả cọc, nếu bà N tiếp
tục nhận chuyển nhượng thì ông cũng đồng ý chuyển nhương. Như vậy lỗi dẫn
đến việc hai bên không thực hiện việc chuyển nhượng đất là do bên bà N từ chối
mua đất chứ không phải lỗi của ông M. Do vậy căn cứ quy định tại Điều 328 Bộ
luật Dân sự năm 2015 thì yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị Hồng N yêu cầu
ông Võ Lê M trả lại số tiền đặt cọc 100.000.000 đồng là không có cơ sở để chấp
13
nhận. Hội đồng xét xử cấp thẩm lại căn cứ Điều 427 của Bộ luật dân sự quy
định về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng để buộc ông M hoàn trả lại số
tiền đặt cọc 100.000.000 đồng cho N chưa chính xác, bởi ông M chấp
nhận hủy bỏ Hợp đồng với điều kiện không trả tiền cọc cho N ông M
không vi phạm hợp đồng đã kết; bà N từ chối việc giao kết, thực hiện hợp
đồng ( không nhận chuyển nhượng đất nữa) nên đề nghị hủy bỏ Hợp đồng đã ký
kết với ông M chứ ông M không lỗi nên N phải mất số tiền đã đặt cọc.
Kháng nghị số 153/QĐ-VKS-DS ngày 18/7/2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân huyện Cần Đước căn cứ vào các Điều 423, 424, 425 và 426 để áp dụng
pháp luật ra Kháng nghị là chưa phù hợp.
[5] Từ những nhận định ở mục [4.2] [4.3] chấp nhận kháng cáo của ông
M một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện
Cần Đước nên Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tung
dân sự 2015 sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 39/2024/DS-ST ngày 03
tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Cần Đước như đề nghị của Kiểm
sát viên tham gia phiên tòa.
[6] Về án phí thẩm: N phải chịu án phí dân sự thẩm đối với tranh
chấp về dân sự giá ngạch trên s tiền 100.000.000 đồng đối với yêu cầu
không được chấp nhận, ông M phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
[7] Về án phí dân sự phúc thẩm: ông M không phải chịu án phí do kháng
cáo được chấp nhận.
[8] Những phần khác của Bản án thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực thi hành.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Võ Lê M.
Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
huyện Cần Đước.
Sửa một phần Bản án thẩm số: 39/2024/DS-ST ngày 03 tháng 7 năm
2024 của Toà án nhân dân huyện Cần Đước.
Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, 147, 229, 266, 272, 273, 279 Điều 280
Bộ luật Tố tụng dân sự.
Áp dụng Điều 328 Bộ luật Dân sự; Điều 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sdụng án phí lệ phí Tòa
án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị Hồng N về
việc Tranh chấp hợp đồng đặt cọc đối với ông Võ Lê M.
14
1.1. Hủy thỏa thuận chuyển nhượng trong “Hợp đồng đặt cọc “lập ngày
18/10/2022 giữa bên chuyển nhượng ông M và bên nhận chuyển nhượng
Nguyễn Thị Hồng N.
1.2. Bác yêu cầu của Nguyễn Thị Hồng N yêu cầu ông M
trách nhiệm hoàn trả lại cho Nguyễn Thị Hồng N số tiền cọc đã nhận
100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng).
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị Hồng N yêu cầu ông
Lê M bồi thường vi phạm số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng).
3. Về án phí sơ thẩm:
Buộc Nguyễn Thị Hồng N phải chịu 5.000.000 đồng tiền án phí dân sự
sơ thẩm. Khấu trừ 5.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà bà N đã nộp theo biên
lai thu số 0005379 ngày 09/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cần
Đước. Hoàn trả cho bà N 300.000 đồng theo biên lai số 0005380 ngày 09/5/2023
của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cần Đước.
Ông Võ Lê M phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm. Khấu trừ
300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà ông M đã nộp theo biên lai thu số
0012093 ngày 18/7/2024 của Chi cục Thi hành án dân shuyện Cần Đước, ông
M đã nộp xong
4. Về án phí dân sphúc thẩm: ông M không phải chịu do kháng
cáo được chấp nhận.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Tp. Hồ Chí Minh;
- VKSND tỉnh Long An;
- TAND huyện Cần Đước;
- Chi cục THADS huyện Cần Đước;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Hữu Nghĩa
Tải về
Bản án số 455/2024/DS-PT Bản án số 455/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 455/2024/DS-PT Bản án số 455/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất