Bản án số 288/2024/DS-PT ngày 27/12/2024 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 288/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 288/2024/DS-PT ngày 27/12/2024 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Sóc Trăng
Số hiệu: 288/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản và tranh chấp hợp đồng đặc cọc Huỳnh Văn H - Đào Thủy T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH SÓC TRĂNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 288/2024/DS-PT
Ngày: 27/12/2024
V/v “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản
và Tranh chấp hợp đồng đặc cọc”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hồ Văn Phụng.
Các Thẩm phán: 1. Ông Nguyễn Văn Toàn.
2. Ông Nguyễn Vĩnh Khương.
- Thư ký phiên tòa: Ông Đinh Quốc Thanh– Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
tỉnh Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng tham gia phiên tòa:
Ông Trương Minh Diền– Kiểm sát viên.
Ngày 27/12/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc
thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 234/2024/TLPT-DS ngày 11/11/2024 về
việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản và tranh chấp hợp đồng đặc cọc”
Do bản án dân sự thẩm số:73/2024/DS-ST ngày 18 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 293/2024/QĐ-PT ngày 27/11/2024
, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 346/2024/QĐ-PT ngày 16/12/2024, giữa
các đương sự:
1. Nguyên đơn: Huỳnh Văn H; Sinh năm: 1958. Địa chỉ: Ấp Đ, V,
huyện T, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).
2. Bị đơn: Đào Thủy T; Sinh năm: 1966. Địa chỉ: Ấp Đ, xã V, huyện T, tỉnh
Sóc Trăng (có mặt).
3. Người kháng cáo:Đào Thủy T là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo tài liệu chứng cứ trong hồ sơ, nội dung vụ kiện được tóm tắt như
sau:
* Trong đơn khởi kiện ngày 28 tháng 02 năm 2024, các lời khai trong quá
trình tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là ông Huỳnh Văn H trình bày:
Vào tháng 12 năm 2023 (âm lịch) bà Đào Thủy T hợp đồng mua lúa của
ông Huỳnh Văn H, nội dung là T mua a của ông H khoảng 89 công đất, với
giá 10.000 đồng/01kg. Sau khi hợp đồng tbà T gửi trước cho ông Huỳnh
Văn H số tiền đặt cọc 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng) thỏa thuận
2
trường hợp T không mua lúa của ông H với giá 10.000 đồng thì phải bỏ số tiền
cọc, việc đặt cọc được thỏa thuận bằng lời nói, không lập thành hợp đồng bằng
văn bản.
Ngày 09/12/2023 (âm lịch), ông Huỳnh Văn H cắt lúa được 19.071 kg, T
đến cân lúa đồng ý mua với giá 10.000 đồng/kg, tổng số tiền 190.710.000
đồng (Một trăm chín mươi triệu bảy trăm mười nghìn đồng). Tuy nhiên, T chỉ
thanh toán 175.000.000 đồng (Một trăm bảy mươi lăm triệu đồng), còn lại
15.710.000 đồng (Mười lăm triệu bảy trăm mười nghìn đồng) thì bà T không thanh
toán hết cho ông H mà hẹn sẽ thanh toán khi mua lúa của ông H lần sau.
Ngày 17/12/2023 (âm lịch), ông H cắt lúa bán, nhưng do ga giảm, nên
T không đồng ý mua với g10.000 đồng/kg Tiên đồng Ý bỏ số tiền cọc
40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng) mà bà T đã đặt cọc cho ông H trước đó.
Đến ngày 20/12/2023 (âm lịch), T mua lúa của ông H với số lượng
66.866 kg với giá 9.300 đồng/kg, tổng số tiền 621.853.000 đồng (Sáu trăm
hai mươi mốt triệu tám trăm năm mươi ba nghìn đồng). Ngày 25/12/2023 (âm
lịch), T thanh toán tiền mua lúa cho ông H, nhưng T chỉ thanh toán cho ông
H số tiền 581.853.000 đồng (Năm trăm tám mươi mốt triệu tám trăm năm mươi
ba nghìn đồng), còn số tiền 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng) thì T trừ
vào tiền cọc mua lúa trước đó. Ông H cho rằng việc bà T tự ý trừ số tiền
40.000.000 đồng là vô lý, vì khi đặt cọc ông H và bà T đã thống nhất sẽ bỏ cọc nếu
bà T không đồng ý mua lúa của ông H với giá 10.000 đồng/kg.
Sau khi phát sinh tranh chấp ông H tìm gặp T làm việc nhưng T
không đồng ý trả lại số tiền 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng) vì cho rằng đã
trừ vào số tiền đặt cọc. Sau đó, ông H gửi đơn đến Ban N để yêu cầu giải quyết
tranh chấp ngày 19/02/2024, nhưng hòa giải không thành.
Nay ông Huỳnh Văn H yêu cầu Tòa án giải quyết:
Buộc Đào Thủy T phải hoàn trả cho ông Huỳnh Văn H tổng số tiền
55.710.000 đồng (Năm mươi lăm triệu bảy trăm mười nghìn đồng), trong đó tiền
nợ mua lúa 15.710.000 đồng (Mười lăm triệu bảy trăm mười nghìn đồng), tiền
đặt cọc mua lúa là 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng).
* Tại Biên bản lấy lời khai ngày 12 tháng 4 năm 2024, các lời khai trong quá
trình tố tụng, bị đơn là bà Đào Thủy T trình bày:
Vào tháng 12 năm 2023 (âm lịch), Đào Thủy T có hợp đồng mua bán lúa
với ông Huỳnh Văn H. Theo hợp đồng thì bà Đào Thủy T mua lúa của ông H với
diện tích 89 công, với giá 10.000 đồng/01 kg. Sau khi hợp đồng thì Đào
Thủy T gửi cho ông H số tiền đặt cọc 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu
đồng), việc đặt cọc không có lập thành văn bản, ông H là người nhận tiền cọc.
Sau khi hợp đồng thì ngày 09/12/2023 (âm lịch), ông H cắt lúa được 19.071
kg, đến 11/12/2023, do glúa giảm, nên Đào Thủy T không mua lúa của
ông H kêu người khác T1 ấp G, L đến mua với giá 9.200
đồng/01kg. Sau khi cân lúa xong thì hai bên tự tính toán tiền bạc, Đào Thủy T
không trả tiền cho ông H, do Đào Thủy T thấy ông H bị lỗ giá lúa, nên
Đào Thủy T thống nhất bỏ số tiền Đào Thủy T đã đặt cọc cho ông H số tiền
10.000.000 đồng, còn lại số tiền là 30.000.000 đồng.
Đến ngày 20/12/2023 (âm lịch), bà Đào Thủy T có mua lúa của ông H với số
lượng 66.866 kg với giá 9.300 đồng/kg, tổng số tiền 621.853.800 đồng,
3
nhưng tính chẳn là 621.853.000 đồng (Sáu trăm hai mươi mốt triệu tám trăm năm
mươi ba nghìn đồng). Ngày 25/12/2023 (âm lịch), Đào Thủy T thanh toán tiền
mua lúa cho ông H, nhưng Đ Thủy Tiên chỉ thanh toán cho ông H số tiền
591.853.000 đồng (Năm trăm chín mươi mốt triệu tám trăm năm mươi ba nghìn
đồng), do Đào Thủy T đã trừ lại số tiền bà Đào Thủy T đã đặt cọc
30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng). Như vậy, bà Đào Thủy T đã trả đủ cho ông
H số tiền mua lúa. Đào Thủy T không đồng ý theo yêu cầu của ông H,
Đào Thủy T không có thiếu ông H khoản tiền nào.
* Tại bản án dân sthẩm số: 73/2024/DS-ST ngày 18 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng đã quyết định: Căn cứ vào
khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 144, Điều 147, điểm b khoản 2
Điều 227 và khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Các Điều 117, Điều 119, Điều 328, Điều 357, Điều 398, Điều 422, Điều 430 của
Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 17 Luật phí và Lệ phí; khoản 4 Điều 26 Nghị
quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí Tòa án; Điều 26 của
Luật Thi hành án dân sự. Tuyên xử:
1. Chấp nhận 01 phần yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn H.
Buộc bà Đào Thủy T phải có trách nhiệm hoàn trả cho ông Huỳnh Văn H số
tiền là 25.710.000 đồng (Hai mươi lăm triệu bảy trăm mười nghìn đồng).
Khi bản án hiệu lực pháp luật, kể từ ngày ông H đơn yêu cầu thi hành
án cho đến khi thi hành án xong số tiền 25.710.000 đồng (Hai mươi lăm triệu bảy
trăm mười nghìn đồng) thì hàng tháng bà T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật
Dân sự năm 2015.
2. Không chấp nhận 01 phần yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn H về
việc yêu cầu Đào Thủy T phải trả lại số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu
đồng).
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí và thông báo quyền kháng cáo cho
các đương sự theo luật định.
* Ngày 09/10/2024, Bà Đào Thủy T bị đơn đơn kháng cáo toàn bộ bản
án dân sự thẩm nêu trên yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử theo hướng
không chấp nhận 01 phần yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn H về việc buộc bà
Đào Thủy T phải có trách nhiệm hoàn trả cho ông Huỳnh Văn H s tiền
25.710.000 đồng (Hai mươi lăm triệu bảy trăm mười nghìn đồng).
* Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn ông Huỳnh Văn H vắng mặt không
có ý kiến về việc rút đơn khởi kiện; bị đơn bà Đào Thủy T không rút lại đơn kháng
cáo; do nguyên đơn vắng mặt nên các đương skhông thỏa thuận với nhau về
việc giải quyết vụ án.
* Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về tính có căn cứ và hợp
pháp của kháng cáo, về việc tuân thủ chấp hành pháp luật tố tụng của những
4
người tiến hành tố tụng tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án giai
đoạn phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm; Đồng thời, phát biểu quan điểm về nội
dung kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố
tụng dân sự không chấp nhận kháng cáo của bà Đào Thủy T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng:
[1] Người kháng cáo, nội dung hình thức đơn kháng cáo, thời hạn kháng
cáo của bị đơn Đào Thủy T đúng theo quy định tại Điều 271, Điều 272
Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, nên kháng cáo hợp lệ đúng theo
luật định.
[2] Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn ông Huỳnh Văn H đã được Tòa án
triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt; việc vắng mặt của họ cũng không
ảnh hưởng đến việc xét xử. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 296 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vụ án.
Về nội dung:
[3] Nguyên đơn ông Huỳnh Văn H yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc bà Đào
Thủy T phải hoàn trả cho ông Huỳnh Văn H tổng số tiền là 55.710.000 đồng (Năm
mươi lăm triệu bảy trăm mười nghìn đồng).
[4] Bị đơn Đào Thủy T cho rằng đã trả đủ cho ông H số tiền mua lúa.
Đào Thủy T không đồng ý theo yêu cầu của ông H, Đào Thủy T không
thiếu ông H khoản tiền nào.
[5] Tại bản án thẩm thẩm số: 73/2024/DS-ST ngày 18 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng đã tuyên xử: 1. Chấp nhận 01
phần yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn H. Buộc Đào Thủy T phải trách
nhiệm hoàn trả cho ông Huỳnh Văn H số tiền là 25.710.000 đồng. 2. Không chấp
nhận 01 phần yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn H về việc yêu cầu Đào
Thủy T phải trả lại số tiền 30.000.000 đồng. Nguyên đơn không kháng cáo
Viện kiểm sát hai cấp không kháng nghị, chỉ bị đơn kháng cáo, nên Hội đồng
xét xử phúc thẩm chỉ xem xét đối với kháng cáo của bà T.
[6] Xét kháng cáo của Đào Thủy T không đồng ý theo bản án thẩm
nêu trên yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử theo hướng không chấp nhận 01
phần yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn H về việc buộc bà Đào Thủy T phải có
trách nhiệm hoàn trả cho ông Huỳnh Văn H số tiền 25.710.000 đồng thì nhận
thấy:
[6.1] Việc ông H T hợp đồng mua bán tài sản (mua bán lúa) với
nhau là có thật. Bị đơn là T cho rằng bà đã kêu T1 lại mua lúa của ông H,
T1 mới là người hợp đồng mua lúa của ông H, nhưng ông H không thừa nhận, ông
H cho rằng T người hợp đồng mua lúa của ông, nên ông chbiết T còn
T1 ai ông không biết, T phải trách nhiệm trả phần tiền còn nông của ln
mua lúa đợt 1 ngày 09/12/2023 số tiền 15.710.000 đồng, T cho rằng T1
5
mới người trực tiếp hợp đồng mua lúa với ông H, nhưng không đưa ra được
chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của bà, cụ thể không đưa ra được
chứng cứ chứng minh là bà T1 mới là người trực tiếp hợp đồng mua lúa của ông H,
bản thân T cũng thừa nhận do thấy ông H bị lỗ giá lúa, nên bà T thống nhất
trừ vào số tiền đã đặt cọc cho ông H số tiền là 10.000.000 đồng. Như vậy, cho thấy
bà T mới là người hợp đồng mua lúa của ông H (lần mua lúa đợt 1 ngày
09/12/2023) hiện nay còn nợ lại ông H số tiền là 15.710.000 đồng. Do đó, Hội
đồng xét xử cấp thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc T phải
trách nhiệm hoàn trả cho ông H số tiền nợ mua lúa đợt 1 ngày 09/12/2023
15.710.000 đồng căn cứ, nên kháng cáo của bà T phần này là không căn
cứ.
[6.2.] Đối với yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu T phải hoàn trả số tiền đã
đặt cọc là 40.000.000 đồng, xét thấy: Việc ông H và bà T hợp đồng mua bán tài
sản (mua bán lúa) với nhau là có thật, ông H cho rằng bà T có gửi trước cho ông H
số tiền đặt cọc 40.000.000 đồng thỏa thuận nếu nếu bị đơn không mua lúa
đúng giá 10.000 đồng/01 kg thì sẽ bỏ số tiền cọc 40.000.000 đồng, việc thỏa thuận
bằng lời nói, không có lập thành văn bản, bà T không thừa nhận có việc thỏa thuận
này, nhưng ông H không đưa ra được chứng cứ chứng chứng minh cho lời trình
bày của ông, Ngoài ra, theo ông H trình bày là hai bên thỏa thuận việc mua lúa với
giá là 10.000 đồng/01kg, bà T trình bày sau khi lúa giảm thì T nói với ông H
nêu ông H chấp nhận bán lúa với giá là 9.300 đồng/01kg thì bà T sẽ mua thì ông H
cũng đồng ý, như vậy cho thấy hai bên đã giao kết lại hợp đồng. Trong quá trình
giải quyết vụ án T trình bày trừ lại cho ông H số tiền bà đã gửi đặt
cọc 10.000.000 đồng. Như vậy, số tiền đặt cọc còn lại 30.000.000 đồng. Sau
khi mua lúa đợt 2 thì bà đã trừ số tiền đạt cọc còn lại vào số tiền đã mua lúa của
ông H 30.000.000 đồng cộng với số tiền đã trả cho ông H 591.853.000
đồng thì bà không còn nợ ông H khoản tiền nào, nhưng ông H thì thừa nhận sau
khi mua lúa đợt 2 thì chỉ trả cho ông H số tiền 581.853.000 đồng chứ
không phải 591.853.000 đồng, nhưng T không đưa ra được chứng cứ chứng
minh cho lời trình bày của bà. Do đó, Hội đồng xét xử cấp thẩm xác định
T có trả cho ông H số tiền là 581.853.000 đồng cộng chung với số tiền mà trước đó
đã gửi cho ông H 30.000.000 đồng, tổng cộng 581.853.000 đồng +
30.000.000 đồng = 611.853.000 đồng. Như vậy, T còn nợ lại ông H số tiền
10.000.000 đồng trong hợp đồng mua lúa ngày 25/12/2023. Vì vậy, cấp sơ thẩm xử
buộc T phải tiếp tục hoàn trả cho ông H số tiền còn lại trong hợp đồng này
10.000.000 đồng. Việc ông H yêu cầu T phải trả lại s tiền đặt cọc
40.000.000 đồng thì xét thấy: Theo quy định tại Điều 328 của Bộ luật dân sự năm
2025 thì: “….Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tải sản đã đặt cọc
được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền……”.
Như vậy, trong trường hợp này thì bà T đã trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền của bà
hoàn toàn căn cứ. Do đó, việc ông H yêu cầu T phải hoàn trả cho ông số
tiền 40.000.000 đồng là có cơ sở để chấp nhận một phần.
[7] Từ những phân tích tại các tiểu mục [6.1] và [6.2] mục [6], Hội đồng xét
xử cấp sơ thẩm quyết định chấp nhận một phần yêu cầu của ông H buộc bà Đào
Thủy T phải có nghĩa vụ hoàn trả cho ông Huỳnh Văn H tổng số tiền là 25.710.000
đồng là căn cứ, nên kháng cáo của bị đơn Đào Thủy T không có căn cứ chấp
6
nhận căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
[8] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng căn
cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[9] Về án pdân sự phúc thẩm: Do án thẩm giữ nguyên, nên T phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 khoản 6 Điều 313 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của y ban thường vụ Quốc hội quy định v mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn là bà Đào Thủy T . Giữ nguyên bản
án dân sthẩm số 73/2024/DS-ST ngày 18 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân
dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng như sau:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 144, Điều 147,
điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật
Tố tụng dân sự; Các Điều 117, Điều 119, Điều 328, Điều 357, Điều 398, Điều 422,
Điều 430 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 17 Luật phí và Lệ phí; khoản 4 Điều
26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều
26 của Luật Thi hành án dân sự. Tuyên xử:
1. Chấp nhận 01 phần yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn H.
1.2. Buộc bà Đào Thủy T phải có trách nhiệm hoàn trả cho ông Huỳnh Văn
H số tiền là 25.710.000 đồng (Hai mươi lăm triệu bảy trăm mười nghìn đồng).
Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày ông H có đơn yêu cầu thi hành
án cho đến khi thi hành án xong số tiền 25.710.000 đồng (Hai mươi lăm triệu bảy
trăm mười nghìn đồng) thì hàng tháng bà T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật
Dân sự năm 2015.
1.2. Không chấp nhận 01 phần yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn H về
việc yêu cầu bà Đào Thủy T phải trả lại số tiền là 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu
đồng).
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
7
2.1. Đào Thủy T phải nộp số tiền án pdân sự thẩm 1.285.500
đồng (Một triệu hai trăm tám mươi lăm nghìn năm trăm đồng).
2.2. Ông Huỳnh Văn H phải nộp tiền án phí dân sự thẩm do 01 phần yêu
cầu khởi kiện không được chấp nhận 1.500.000 đồng, nhưng ông H được khấu
trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.392.750 đồng theo biên lai thu tạm ứng
án phí, lệ phí Tòa án số 0002418 ngày 05 tháng 3 năm 2024 của Chi cục thi hành
án dân sự huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng. Nvậy, ông H còn phải nộp thêm số
tiền là 107.250 đồng (Một trăm lẽ bảy nghìn hai trăm năm mươi đồng).
3. Án phí dân sự phúc thẩm: Đào Thủy T phải chịu án phí phúc thẩm
300.000 đồng. Được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng,
theo biên lai thu tạm ứng án phí, lphí Tòa án số 0007079 ngày 09 tháng 10 năm
2024 của Chi cục thi hành án dân shuyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy,
T đã nộp xong.
4. Bản án này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi
hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Nơi nhận:THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Các đương sự;
- VKSND tỉnh Sóc Trăng;
- TAND huyện Trần Đề;
- Chi cục THADS huyện Trần Đề;
- Lưu: HSVA - VP.
Hồ Văn Phụng
Tải về
Bản án số 288/2024/DS-PT Bản án số 288/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 288/2024/DS-PT Bản án số 288/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất