Bản án số 200/2024/DS-ST ngày 25/12/2024 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 200/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 200/2024/DS-ST ngày 25/12/2024 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lâm Đồng
Số hiệu: 200/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Quách Anh K tranh cháp hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất Bùi Minh Q
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 200/2024/DS-PT
Ngày: 25-12-2024
V/v: “Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Bà Vũ Thị Nguyệt
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Thành Tâm
Ông Huỳnh Châu Thạch
- Thư phiên toà: Thị Ngọc Huyền Thư ký, Toà án nhân dân
tỉnh Lâm Đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng: Bà Nguyễn Thị Thanh
Hương – Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 25 tháng 12 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 273/2024/TLPT-DS ngày 11 tháng 11
năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 46/2024/DS-ST ngày 16/9/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 501/2024/QĐ-PT ngày
26 tháng 11 năm 2024; Thông báo về việc hoãn phiên tòa phúc thẩm số 706/TB-
PT ngày 11 tháng 12 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Quách Anh K, sinh năm: 1961; trú tại số A, đường
T, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Cao T, sinh năm: 1985; địa chỉ: số
A, đường N, Phường B, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; cư trú tại Lô G, đường H,
Phường D, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng (Văn bản ủy quyền ngày 14/8/2023).
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp: Luật Cao T1 Văn phòng L
thuộc Đoàn Luật sư tỉnh L.
2
- Bđơn: Ông Bùi Minh Q, sinh năm: 1962, Đoàn Thị T2, sinh năm:
1962; cùng cư trú tại tổ E, thôn P, xã T, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Quang H, sinh năm:
1988; cư trú tại thôn D, xã H, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
- Người làm chứng: Ông Bùi Quốc T3, sinh năm: 1986; trú tại tổ D,
đường T, Phường I, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt
Người kháng cáo: Ông Quách Anh K Nguyên đơn.
(Ông K, ông T2, luật sư T1, ông Q, bà T2 và ông T3 có mặt tại phiên tòa;
ông H vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện ghi ngày 07/8/2023 đơn khởi kiện bổ sung ngày
06/11/2023 của ông Quách Anh K, lời trình bày của ông Cao T người đại
diện theo uỷ quyền của ông K tại các bản tự khai và trong quá trình tham gia tố
tụng thì: Thông qua môi giới nhà đất, ngày 08/8/2022 ông Quách Anh K vợ
chồng ông Bùi Minh Q, Đoàn Thị T2 Hợp đồng đặt cọc chuyển
nhượng nhà đất với diện tích là 831,24m
2
thuộc thửa đất số 460, tờ bản đồ số 16,
tọa lạc tại tổ E, thôn P, T, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng với giá chuyển
nhượng 16.800.000.000đ. Ngày 08/8/2022, ông K đã đặt cọc trước số tiền
3.000.000.000đ cho ông Q, T2. Số tiền còn lại ông K sẽ thanh toán đủ cho vợ
chồng ông Q, T2 trong thời hạn 90 ngày (tức ngày 08/11/2022) sau khi
hoàn tất thủ tục công chứng. Trong quá trình thực hiện thủ tục chuyển nhượng
do thửa đất của ông Q, T2 bị Ủy ban nhân dân thành phố Đ ban hành Quyết
định số 3985/QĐ-UBND ngày 25/11/2022 thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nên ngày 05/11/2022, ông K ông Q, T2 gặp nhau để thương
lượng và hai bên đã ký phục lục hợp đồng cam kết gia hạn thời gian đặt cọc đến
ngày 08/02/2023. Đến hạn ông Q, bà T2 vẫn không thể thực hiện được việc cấp
sổ nên ông K ông Q, T2 tiếp tục lập biên bản thoả thuận gia hạn thời hạn
đặt cọc đến ngày 08/8/2023. Trong thời gian gia hạn này hai bên thoả thuận nếu
ông K không nhận sang nhượng đất nữa thì ông Q, bà T2 sẽ trả lại cho ông K số
tiền đặt cọc là 3.000.000.000đ và lãi suất ngân hàng kể từ ngày đặt cọc.
Hợp đồng đã gia hạn quá nhiều lần, ông Q, bà T2 đã vi phạm hợp đồng. Do
đó, ông K không thể tiếp tục nhận chuyển nhượng thửa đất nói trên, vậy ông
K yêu cầu Toà án xem xét giải quyết:
1/ Huỷ hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng nhà đất ngày 08/8/2022 giữa ông
K và ông Q, bà T2.
2/ Huỷ phụ lục hợp đồng ngày 05/11/2022 giữa ông K và ông Q, bà T2.
3
3/ Huỷ biên bản thoả thuận ngày 08/02/2023 giữa ông K và ông Q, bà T2.
4/ Buộc ông Bùi Minh Q, Đoàn Thị T2 trả cho ông Quách A Khanh số
tiền đã đặt cọc là 3.000.000.000đ và lãi suất ngân hàng theo quy định
120.000.000đ (3.000.000.000đ x 6 tháng x 0,8%/tháng = 144.000.000đ).
Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu ông K phải trả số tiền
477.942.410đ thì ông K không đồng ý ông cho rằng ngày 22/08/2022 ông
Giấy thỏa thuận nhờ ông Q, T2 đứng tên xin chuyển mục đích sử dụng
diện tích 431,24m
2
đất trồng cây lâu năm còn lại (trên thửa đất số 460, tờ bản đồ
số 16) thành đất ở. Ông Q, bà T2 ủy quyền cho ông Nguyễn Quang H nộp hồ sơ
xin chuyển mục đích sử dụng đất. Khi ông H nộp hồ do ông Q, T2 xin
chuyển mục đích sử dụng đất 431,24m
2
còn lại lên Phòng Tài nguyên môi
trường thành phố Đ thì bị phát hiện Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà tài sản gắn liền với đất số BU 205449 cấp ngày 02/10/2014
sai sót vị trí cần kiểm tra. Ngày 07/09/2022, UBND thành phố Đ ra văn bản số
5895/UBND-ĐC giao cho Phòng T phối hợp với các đơn vị liên quan kiểm tra
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản gắn liền với
đất số BU205449. Ngày 15/09/2022 Phòng T họp với các đơn vị liên quan.
Ngày 25/11/2022 UBND thành phố Đ ra quyết định 3985/QĐ-UB về việc thu
hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền shữu nhà tài sản gắn liền
với đất số BU 205449 cấp ngày 02/10/2014. Như vậy việc ông nhờ ông Q, bà T2
đứng tên xin chuyển 431,24m
2
đất trồng cây lâu năm còn lại lên đất trong
Giấy chứng nhận QSDĐ số BU 205449 không thực hiện được. Việc ông Q,
T2 yêu cầu ông hoàn trả số tiền 477.942.410đ không căn cứ đây
không phải số tiền chi phí phát sinh trong việc ông K nhờ bên ông Q đi thực
hiện chuyển đổi diện tích 431,24m
2
theo ý kiến của ông K
đó số tiền chi
phí đối với việc nhà nước truy thu thuế 400m
2
đất thổ cư mà ông Q đã có trên sổ
cũ, rồi từ sổ ông Q, T2 bán cho ông K diện tích 831,24m
2
thì trong đó
400m
2
đất xây dựng mà ông Q đã tự chuyển đổi trước khi bán đất cho ông K.
- Theo lời trình bày của bị đơn vợ chồng ông Bùi Minh Q Đoàn Thị
T2 thì: Vợ chồng ông bà là chủ sử dụng đất hợp pháp đối với diện tích 831,24m
2
thuộc thửa đất số 460, tờ bản đồ số 16 tọa lạc tại tổ E, thôn P, xã T, thành phố Đ,
tỉnh Lâm Đồng được UBND thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số BU205449 ngày
02/10/2014. Ngày 08/8/2022, vợ chồng ông ông Quách Anh K hợp
đồng đặt cọc chuyển nhượng diện tích 831,24m
2
thuộc thửa đất số 460, tờ bản
đồ số 16 tọa lạc tại tổ E, thôn P, xã T, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Theo đó, giá
chuyển nhượng toàn bộ nhà đất thuộc thửa đất trên là 16.800.000.000đ, ông K
đã đặt cọc trước số tiền 3.000.000.000đ. Ngày 22/8/2022, ông K nhờ vợ
chồng ông đứng tên để chuyển thêm 431,24m
2
từ đất nông nghiệp lên đất
4
thuộc thửa 460, tờ bản đồ số 16 ông K đã đặt cọc cho vợ chồng ông toàn bộ
chi phí dịch vụ, thuế chuyển mục đích sử dụng đất do ông K chịu. Các bên thỏa
thuận việc chuyển mục đích sử dụng đất sẽ theo quy định của pháp luật (đính
kèm Giấy thỏa thuận ngày 22/8/20222) đồng ý với việc đứng tên làm thủ tục
chuyển mục đích sử dụng đất trên, nên ngày 23/8/2022, vợ chồng ông đã ủy
quyền cho ông Nguyễn Quang H thay mặt ông thực hiện các thủ tục chuyển
mục đích sử dụng đất đối với thửa đất số 460. sai sót dữ liệu trên Giấy
chứng nhận quyền sử dụng của thửa đất 460 cần phải đính chính lại dữ liệu nên
ngày 05/11/2022, vợ chồng ông ông K tiếp tục Phụ lục hợp đồng gia hạn
thời gian thực hiện hợp đồng đặt cọc đến hết ngày 08/2/2023.
Ngày 08/02/2023, hai bên tiếp tục ký Biên bản thỏa thuận kéo dài thời gian
thực hiện sang nhượng thửa đất số 460 đến hết ngày 08/08/2023. Ông Q, T2
đã tích cực thực hiện việc đính chính lại dữ liệu trên Giấy chứng nhận quyền sử
dụng của thửa đất 460. UBND thành phố Đ hẹn ngày 02/3/2023 sẽ trả kết quả,
giao Giấy chứng nhận. Tuy nhiên phải đến ngày 29/5/2023, UBND thành phố Đ
mới cấp Giấy chứng nhận mới đối với thửa đất 460 cho ông bà. Ông bà đã nhiều
lần liên hệ ông K để yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng, tuy nhiên ông K đã cố
tình né tránh. Ngày 27/5/2023 ông bà nhận được thông báo từ ông K về việc ông
K sẽ không tiếp tục nhận sang nhượng thửa đất 460 nói trên trong khi ông
vẫn đang thực hiện đúng thỏa thuận, thửa đất không tranh chấp, không bị
biên bảo đảm thi hành án và vẫn trong thời hạn sử dụng đất. Do đó, thửa đất 460
đáp ứng đầy đủ các điều kiện đlàm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất
nêu trên. Trên tinh thần thiện chí, ông bà vẫn mong muốn tiếp tục thực hiện hợp
đồng, ông bà đã có thông báo gửi ông K về việc tiếp tục thực hiện hợp đồng. Do
đó, ông bà không đồng ý với tất cả các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ngày 14/12/2023, ông Q, T2 yêu cầu phản tố: Yêu cầu ông Quách
Anh K phải hoàn trả cho ông Bùi Minh Q Đoàn Thị T2 số tiền
477.942.410đ chi phí phát sinh khi thực hiện theo Giấy thỏa thuận đã ngày
22/8/2022. theo vợ chồng ông để thể nhanh chóng, thuận tiện cho việc
chuyển mục đích sử dụng đất được như thỏa thuận với ông K, vợ chồng ông đã
phải làm thủ tục xin cấp lại Giấy chứng nhận đối với thửa đất 460 phải đóng
số tiền tổng cộng 477.942.410đ (bao gồm 475.154.010đ tiền sử dụng đất,
2.188.400đ tiền lệ phí trước bạ, 600.000đ tiền phí thẩm định hồ sơ). Đây là chi
phí phát sinh do thực hiện việc chuyển mục đích sdụng đất. Do đó, căn cứ
Giấy thỏa thuận ngày 22/8/2022 quy định “toàn bộ chi phí dịch vụ, thuế chuyển
mục đích sử dụng đất,... do ông K chịu” theo Điều 280 Bộ luật dân sự năm 2015
quy định nghĩa vụ trả tiền phải được thực hiện đầy đủ như đã thỏa thuận.
- Ông Nguyễn Quang H người quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình
bày: Tháng 8/2022 ông Bùi Minh Q, Đoàn Thị T2 uỷ quyền cho ông đi
5
nộp hồ chuyển mục đích sử dụng đất, đối với diện tích đất trồng cây lâu năm
còn lại 431,24m
2
lên thành đất (tại thửa đất số 460, tờ bản đồ số 16) trong
giấy chứng nhận quyền sdụng đất số BU205449 (cấp ngày 02/10/2014) của
UBND thành phố Đ. Ông nhận các bản sao y giấy tcủa thửa đất nói trên nộp
cho Phòng T. Nếu được phê duyệt chuyển mục đích sử dụng thành đất ở, ông sẽ
thông báo cho ông Quách Anh K, ông Bùi Minh Q để ông Q tự nộp Giấy chứng
nhận quyền sdụng đất nộp tiền sử dụng đất theo quy định của nhà nước.
Ngày 13/9/2022, ông nhận được thông báo của Phòng T về việc chuyển mục
đích sử dụng đất không được thực hiện. Vì vậy công việc của ông đến đây
chấm dứt từ ngày 15/9/2022. Ông không nhận tiền bạc hay bất kỳ giấy tờ bản
chính nào từ ông Bùi Minh Q và bà Đoàn Thị T2. Ông không còn trách nhiệm gì
liên quan đến việc chuyển mục đích sử dụng đất với thửa đất nói trên kể từ ngày
15/9/2022. Các công việc còn lại do ông Bùi Minh Q và Đoàn Thị T2 tự xử
giải quyết. Nay các bên khởi kiện, ông yêu cầu Toà án giải quyết ván theo
quy định pháp luật.
- Người làm chứng ông Bùi Quốc T3 trình bày: Ba mẹ ông Đoàn Thị
T2, ông Bùi Minh Q chủ sử dụng đất hợp pháp đối với nhà và đất có diện tích
831,24m² thuộc thửa đất số 460, tờ bản đồ số 16 tọa lạc tại tổ E, thôn P, T,
thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng được UBND thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận
quyền s dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số
BU205449 ngày 02/10/2014. Ngày 08/8/2022, ba mẹ ông ông Quách Anh K
hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng nđất trên. Theo đó, chuyển nhượng
toàn bộ nhà đất thuộc thửa đất số 460 với giá chuyển nhượng
16.800.000.000đ, ông K đặt cọc trước số tiền 3.000.000.000đ. Ngày 22/8/2022,
ông Quách Anh K nhờ ba mẹ ông đứng tên để chuyển thêm 431,24m² từ đất
nông nghiệp lên đất thuộc thửa đất số 460, tờ bản đồ số 16 ông K đã đặt
cọc của gia đình ông trước đó. Toàn bộ chi phí dịch vụ, thuế chuyển mục đích
sử dụng đất do ông K chịu. Các bên thỏa thuận việc chuyển mục đích sử dụng
đất sẽ theo quy định của pháp luật. Đồng ý với việc đứng tên làm thủ tục chuyển
mục đích sử dụng đất trên, nên ngày 23/8/2022, ba mẹ ông đã ủy quyền cho ông
Nguyễn Quang H thay mặt để thực hiện các thủ tục chuyển mục đích sử dụng
đất đối với thửa đất số 460.
sai sót dữ liệu trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng của thửa đất 460
cần phải đính chính lại dữ liệu nên hai bên đã đồng ý các phụ lục hợp đồng,
biên bản thỏa thuận:
+ Ngày 05/11/2022 ba mẹ ông ông K Phụ lục hợp đồng gia hạn thời
gian thực hiện hợp đồng đặt cọc đến hết ngày 08/2/2023.
+ Ngày 08/2/2023, ông K gọi cho ông ba ông đến quán phê đối diện
Văn phòng luật T4 Biên bản thỏa thuận kéo dài thời gian thực hiện
6
sang nhượng thửa đất số 460 đến hết ngày 08/08/2023. Sau đó ông K mới cầm
giấy này đến nhà cho mẹ ông vào. Tất cả những hợp đồng đặt cọc, phụ lục
hợp đồng, biên bản thỏa thuận trên đều do ông K tự chuẩn bị, soạn thảo trước.
Gia đình ông đã tích cực thực hiện việc đính chính lại dữ liệu trên Giấy chứng
nhận quyền sdụng của thửa đất 460. UBND thành phố Đ hẹn ngày 02/3/2023
sẽ trả kết quả, giao Giấy chứng nhận. Tuy nhiên phải đến ngày 29/5/2023,
UBND thành phố Đ mới cấp Giấy chứng nhận mới đối với thửa đất 460. Gia
đình đã nhiều lần liên hệ ông K để yêu cầu thực hiện hợp đồng, tuy nhiên ông K
đã cố tình trốn tránh để không nhận sang nhượng thửa đất 460 trong khi gia đình
ông vẫn đang thực hiện đúng thỏa thuận. Do đó, việc ông K khởi kiện yêu cầu
hủy hợp đồng đặt cọc ngày 8/8/2022 buộc ông Bùi Minh Q, Đoàn Thị T2
phải trả cho ông K số tiền 3.000.000.000đ 144.000.000đ tiền lãi không
căn cứ. Đề nghị Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông
Quách Anh K.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại Bản án dân sự thẩm số 46/2024/DS-ST ngày 16 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng đã xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Quách Anh
K về việc “Yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc” đối với bị đơn ông Bùi Minh Q,
Đoàn Thị T2.
Huỷ hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng nhà đất ngày 08/8/2022 giữa ông K
và ông Q, bà T2.
Huỷ phụ lục hợp đồng ngày 05/11/2022 giữa ông Kông Q, bà T2.
Huỷ biên bản thoả thuận ngày 08/02/2023 giữa ông K và ông Q, bà T2.
Huỷ giấy thoả thuận ngày 22/8/2022 giữa ông K và vợ chồng ông Q, bà T2.
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với yêu cầu bị
đơn ông Q, bà T2 phải trả tiền lãi suất là 144.000.000đ.
2. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Quách Anh K về buộc vợ
chồng ông Bùi Minh Q, Đoàn Thị T2 phải trách nhiệm trả cho ông K số
tiền 3.000.000.000đ.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Bùi Minh Q, Đoàn
Thị T2 về việc yêu cầu ông Quách Anh K phải trả số tiền 477.942.410đ.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo
trách nhiệm thi hành án của các bên đương sự.
Tại Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 16/QĐ-VKS-DS ngày 30/9/2024
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, đề nghị sửa bản án
7
thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Quách Anh K, buộc
vợ chồng ông i Minh Q, Đoàn Thị T2 phải trả lại cho ông K số tiền
3.000.000.000đ đặt cọc đã nhận.
Ngày 30/9/2024 ông Quách Anh K đơn kháng cáo yêu cầu chấp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa hôm nay: ông K vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Ông Q,
T2 không đồng ý với kháng cáo của ông K kháng nghị của Viện kiểm sát,
đề nghị giải quyết như án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng phát biểu về việc tuân
theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử
các đương stại giai đoạn phúc thẩm cũng như phiên tòa hôm nay: đã chấp
hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng
xét xchấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông K kháng nghị của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt. Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015, sửa bản án thẩm theo hướng: Buộc vợ chồng
ông Q, bà T2 phải trả lại cho ông K số tiền 3.000.000.000đ đặt cọc đã nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về quan hệ tranh chấp giữa các bên đã được Tòa án cấp thẩm xác
định theo đúng quy định của pháp luật; đơn kháng cáo của ông Quách Anh K;
người kháng cáo, thủ tục kháng cáo được thực hiện đúng theo quy định tại các
Điều 271, 272, 273, 278 Bộ luật Tố tụng dân sự nên đủ điều kiện để Hội đồng
xét xử xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của ông K và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Đà Lạt thì thấy rằng:
Theo hồ vụ án thể hiện, hai bên đều thừa nhận việc kết hợp đồng
như các tài liệu nguyên đơn cung cấp gồm “Hợp đồng đặt cọc chuyển
nhượng nđất ngày 08/8/2022” giữa ông K vợ chồng ông Q, T2, nội
dung: bên chuyển nhượng (Bên A) vợ chồng ông Q, T2, bên nhận chuyển
nhượng (bên B) ông K. Tài sản chuyển nhượng là thửa đất số 460, TBĐ 16, diện
tích đất 831,24m
2
tọa lạc tại tổ E, thôn P, T, tp Đ, giấy chứng nhận số
BU205449. Giá chuyển nhượng 16.800.000.000đ, bên B đặt cọc trước số tiền
3.000.000.000đ, thời hạn ra công chứng tối đa 90 ngày kể từ ngày đặt cọc (BL
144). Đến ngày 05/11/2022 hai bên tiếp “Phụ lục hợp đồng” nội dung:
Hôm nay, hai bên cùng đồng ý gia hạn thời gian hiệu lực của Hợp đồng đặt cọc
chuyển nhượng nhà đất đã được hai bên kết ngày 08/8/2022 thêm 3 tháng
(BL 145). Đến ngày 08/02/2023 hai bên lại tiếp “Biên bản thoả thuận”. Theo
đó, bên A không thể hoàn thành việc sang nhượng đúng cam kết hạn chót ngày
08/02/2023. Để giúp bên A không bị phạt ba tỷ đồng vi phạm hợp đồng
8
phụ lục hợp đồng đã ký, đồng thời cũng giúp hai bên giải quyết sự việc trên tinh
thần thông cảm hiểu biết lẫn nhau. Cả hai bên cùng thống nhất: do bên A đề
nghị kéo dài thời gian hợp đồng nên bên B cần thời gian thu xếp nguồn tiền để
tiếp tục thực hiện hợp đồng phụ lục hợp đồng. Hai bên đồng ý kéo dài thời
hạn sang nhượng lô đất nói trên chậm nhất là ngày 08/8/2023 (BL 143).
Quá trình giải quyết vụ án vợ chồng ông Q, T2 xác định ngày
08/8/2022, ông đã nhận số tiền 3.000.000.000đ đặt cọc của ông K. Ngày
27/5/2023 ông K thông báo với ông Q, T2 v việc không nhận chuyển
nhượng diện tích đất 831,24m
2
thửa số 460, TBĐ A, tọa lạc tại tổ E, thôn P,
T, thành phố Đ. Ngày 29/5/2023 ông Q, T2 được UBND thành phố Đ cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích đất nói trên.
Ông K yêu cầu vợ chồng ông Q, bà T2 trả lại số tiền 3.000.000.000đ ông K
đã đặt cọc, vợ chồng ông Q, T2 không đồng ý trả lại tiền do ông vẫn thiện
chí chuyển nhượng đất cho ông K.
Xét thấy, các bên với nhau Hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng nhà đất
ngày 08/8/2022, Giấy thỏa thuận ngày 22/8/2022, Phụ lục hợp đồng ngày
05/11/2022 Biên bản thỏa thuận ngày 08/02/2023 trên sở hoàn toàn tự
nguyện, không bị lừa dối, ép buộc. Quá trình thực hiện hợp đồng các bên thống
nhất gia hạn để ông Q, bà T2 hoàn tất thủ tục pháp lý để được cấp lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất chuyển mục đích sử dụng thêm đất thổ cư, thời hạn
cuối cùng ngày 08/8/2023. Vợ chồng ông Q, T2 đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất ngày 29/5/2023 trước thời hạn cam kết ngày
08/8/2023. Trong khi ông K thông báo không nhận chuyển nhượng nhà đất ngày
27/5/2023 là ông K vi phạm hợp đồng, lỗi thuộc về ông K, căn cứ theo quy định
tại khoản 2, Điều 328 Bộ luật dân sự thì ông K phải mất tiền cọc. Tuy nhiên, tại
Biên bản thỏa thuận ngày 08/02/2023 thì ông K vợ chồng ông Q, T2 đã
thỏa thuận lại nội dung: “... Hai bên đồng ý kéo dài thời hạn sang nhượng lô đất
nói trên chậm nhất ngày 08/8/2023. Trong thời gian kéo dài đó: Nếu bên B
không nhận sang nhượng đất nữa tbên A strả lại cho bên B ba tỷ đồng tiền
đặt cọc, cộng với lãi suất ngân hàng. Nếu bên A không chịu tiến hành làm thủ
tục sang nhượng đất cho bên B, thì bên A phải trả lại cho bên B tiền đặt cọc 3 tỷ
đồng và bồi thường ba tỷ đồng, tổng cộng 6 tỷ đồng”.
Mặc văn bản thỏa thuận này do nguyên đơn tự soạn trước và đưa cho
bị đơn . Tuy nhiên, vợ chồng ông Q, T2 người đầy đủ năng lực hành
vi dân sự, biết đọc, biết viết nên phải chịu trách nhiệm đối với các văn bản đã
ký. Tòa án cấp thẩm nhận định ông Q, T2 nhầm lẫn không căn cứ.
Hơn nữa, quá trình giải quyết vụ án ông Q, T2 cho rằng khi ông các
văn bản nêu trên đều mặt các con của ông bà, ông ký tự nguyện, không
ai ép buộc. Nội dung Biên bản thỏa thuận ngày 08/02/2023 đã thể hiện
9
...Những điều khoản nào trong hợp đồng và phụ lục hợp đồng đã ký trái với biên
bản thỏa thuận này sẽ không còn giá trị...”. vậy, nội dung của Hợp đồng đặt
cọc chuyển nhượng nhà đất ngày 08/8/2022, nội dung“... nếu bên B không tiến
hành mua thì phải chịu mất số tiền cọc trên” đã không còn giá trị. Do đó, cần
chấp nhận kháng cáo của ông K, buộc vợ chồng ông Q, T2 trả lại cho ông K
số tiền đặt cọc 3.000.000.000đ đã nhận.
Các phần khác của bản ánthẩm không kháng cáo, kháng nghị nên đã
có hiệu lực pháp luật.
Từ những phân tích trên, căn cứ chấp nhận: kháng cáo của nguyên đơn
ông Quách Anh K và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành
phố Đà Lạt, sửa bản án sơ thẩm theo hướng đã nhận định.
[3] Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ số tiền
1.600.000đ, ông K tự nhận chịu (ông K đã ứng chi và quyết toán xong).
[4] Về án phí:
Do yêu cầu kháng cáo được chấp nhận nên ông Quách Anh K không phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm. Ông Bùi Minh Q, Đoàn Thị T2 phải chịu án
phí dân sự sơ thẩm. Tuy nhiên, do ông Q, T2 người cao tuổi theo quy định
tại Điều 2 Luật Người cao tuổi nên miễn án phí dân sự thẩm cho ông Q,
T2
các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 2, Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố
Đà Lạt, chấp nhận kháng cáo của ông Quách Anh K, sửa bản án sơ thẩm.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Quách Anh K về việc
“Yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc” đối với bị đơn ông Bùi Minh Q, Đoàn Thị
T2.
Huỷ hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng nhà đất ngày 08/8/2022 giữa ông K
và ông Q, bà T2.
Huỷ phụ lục hợp đồng ngày 05/11/2022 giữa ông Kông Q, bà T2.
Huỷ biên bản thoả thuận ngày 08/02/2023 giữa ông K và ông Q, bà T2.
10
Huỷ giấy thoả thuận ngày 22/8/2022 giữa ông K và vợ chồng ông Q, bà T2.
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với yêu cầu bị
đơn ông Q, bà T2 phải trả tiền lãi suất 144.000.000đ (Một trăm bốn mươi
triệu đồng).
2. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Quách Anh K, buộc vợ chồng
ông Bùi Minh Q, Đoàn Thị T2 phải trả lại cho ông Quách A Khanh số tiền
đặt cọc 3.000.000.000đ (Ba tỷ đồng) đã nhận.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành
án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm
2015.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Bùi Minh Q, Đoàn
Thị T2 về việc yêu cầu ông Quách Anh K phải trả số tiền 477.942.410đ (Bốn
trăm bảy mươi bảy triệu chín trăm bốn mươi hai ngàn bốn trăm mười đồng).
4. Về chi phí tố tụng:
Nguyên đơn ông Quách Anh K tự nhận chịu số tiền 1.600.000đ chi phí xem
xét thẩm định tại chỗ (ông K đã ứng chi và quyết toán xong).
5. Về án phí:
Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho ông Bùi Minh Q, bà Đoàn Thị T2.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bcưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9
Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
CÁC THẨM PHÁN
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Châu Thạch
Nguyễn Thành Tâm
Vũ Thị Nguyệt
11
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Thị Nguyệt
Tải về
Bản án số 200/2024/DS-ST Bản án số 200/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 200/2024/DS-ST Bản án số 200/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất