Bản án số 14/2025/DS-PT ngày 07/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 14/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 14/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 14/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 14/2025/DS-PT ngày 07/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 14/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 07/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hà Văn A về việc buộc ông Tạ Hữu H và Phan Thị B, phải trả lại cho ông A 200.000.000đ tiền đặt cọc vào ngày 19/6/2022 và tiền lãi 22.500.000đ. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 14/2025/DS-PT
Ngày: 07/01/2025
“V/v: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
- Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Huờn.
- Các Thẩm phán: Bà Lê Thị Thanh Huyền và bà Lưu Thị Thu Hường.
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thị Thanh Trang - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Bà Trương
Thị Thu Thủy - Kiểm sát viên.
Mở phiên tòa ngày 07 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 263/2024/TLPT-DS ngày
15/10/2024, về việc: “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số:
32/2024/DS-ST, ngày 08/8/2024, của Tòa án nhân dân thành huyện Krông Năng,
tỉnh Đắk Lắk, bị kháng cáo; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 340/2024/QĐ-
PT, ngày 13/11/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 365/2024/QĐ-PT ngày
12/12/2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Hà Văn A
Địa chỉ: Thôn 3, xã B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Bùi Vân L - Có mặt ( theo
văn bản ủy quyền ngày 05/4/2024 )
Địa chỉ: Số 183 đường T, phường T, quận P, thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn: Ông Tạ Hữu H và bà Phan Thị B
Địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện N, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Lê Hồng T - Có mặt ( theo văn
bản ủy quyền ngày 10/4/2024 )
Địa chỉ: Tổ dân phố 10, thị trấn Đ, huyện B, tỉnh Đắk Lắk.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị Diễm H
Địa chỉ: Tổ dân phố 15, thị trấn Đ, huyện B, tỉnh Đắk Lắk.
2. Ông Phạm Văn T
Địa chỉ: Thôn H, thị trấn T, huyện A, tỉnh Đăk Lăk
Người đại diện theo ủy quyền của bà H và ông T: Bà Nguyễn Thị Hồng V- Có
mặt ( theo văn bản ủy quyền ngày 31/5/2024 )
2
Địa chỉ: Tổ dân phố 2, phường L, thị xã H, tỉnh Đăk Lăk
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện ngày 16/01/2024, đơn sửa đổi yêu cầu khởi kiện ngày
04/5/2024 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông Hà Văn A trình bày:
Ông cùng với bà Nguyễn Thị Diễm H và ông Phạm Văn T, thỏa thuận với nhau 03
người sẽ nhận chuyển nhượng chung thửa đất số 06, tờ bản đồ số 56, tại xã T, huyện
N, tỉnh Đăk Lăk, của vợ chồng ông Tạ Hữu H, bà Phan Thị B; trị giá chuyển nhượng
thửa đất là 1.590.000.000đ; 03 người thỏa thuận ( bằng miệng ) giao cho ông T đại
diện, ký hợp đồng đặt cọc với vợ chồng ông T, để đảm bảo việc giao kết hợp đồng
chuyển nhượng thửa đất nêu trên; Ngày 19/4/2022, ông T đại diện cho ông và bà H,
ký hợp đồng đặt cọc với ông H, bà B và giao cho ông H, bà B 300.000.000đ tiền đặt
cọc; Trong số tiền đặt cọc 300.000.000đ, tiền của ông là 150.000.000đ; tiền của bà
H 150.000.000đ và hẹn ngày 19/6/2022, sẽ giao tiền đặt cọc lần hai.
Ngày 19/6/2022, ông T đại diện cho ông và bà H, ký hợp đồng đặt cọc lần thứ
hai với ông H, bà B với số tiền đặt cọc 500.000.000đ; ngày 20/6/2022, bà H giao
cho ông H, bà B 300.000.000đ tiền đặt cọc, bằng hình thức chuyển khoản; cũng
trong ngày 20/6/2022, ông giao cho ông H, bà B 200.000.000đ tiền đặt cọc; Các bên
thỏa thuận đến ngày 06/7/2022, sẽ tiến hành giao kết hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, đối với thửa đất nêu trên nhưng sau đó ông T và vợ chồng ông
H, bà B đã ký văn bản hủy bỏ hợp đồng đặt cọc và không thông báo cho ông và bà
H biết; ông H và bà B đã chuyển nhượng thửa đất số 06 cho người khác; Việc ông
T và vợ chồng ông H, bà B hủy bỏ hợp đồng đặt cọc là nhằm chiếm đoạt
200.000.000đ của ông. Vì vậy, ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc ông
Tạ Hữu H và bà Phan Thị B phải trả lại cho ông 200.000.000đ tiền đặt cọc và tiền
lãi, tính từ ngày 20/6/2022 đến ngày 20/12/2022, với lãi suất 7,5%/năm là
22.500.000đ.
Quá trình tham gia giải quyết vụ án, bị đơn là ông Tạ Hữu H và bà Phan Thị
B trình bày: Ngày 19/4/2022, ông và bà có ký hợp đồng đặt cọc với ông Phạm Văn
T và nhận của ông T 300.000.000đ tiền đặt cọc, để đảm bảo việc ông, bà giao kết
hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 06, tờ bản đồ số 56, tại xã T, huyện N, tỉnh
Đăk Lăk, của vợ chồng ông, bà cho ông T, trị giá 1.590.000đ. Do ông T bận việc và
nhờ bà Nguyễn Thị Diễm H ký hợp đồng đặt cọc và giao tiền đặt cọc cho ông, bà;
Các bên thỏa thuận trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày ký hợp đồng đặt cọc, các bên
tiến hành ký kết hợp đồng chuyển nhượng thửa đất nêu trên và ông T thanh toán đủ
tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất; Ngày 19/6/2022, ông T yêu cầu ông,
bà gia hạn thời gian ký kết hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 06, nên ông và bà
ký hợp đồng đặt cọc lần thứ hai với ông T, với số tiền đặt cọc 500.000.000đ; Các
bên thỏa thuận trong thời hạn 17 ngày, kể từ ngày 19/6/2022 đến ngày 06/7/2022,
các bên sẽ ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất nêu trên và ông T thanh toán đủ
tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Ngày 20/6/2022, ông T nhờ bà H giao
cho ông, bà 300.000.000đ tiền đặt cọc và nhờ ông Hà Văn A giao cho ông, bà
200.000.000đ tiền đặt cọc.
3
Đến ngày 08/7/2022, ông T không đủ khả năng tài chính để nhận chuyển
nhượng thửa đất nêu trên, nên ông T thỏa thuận với ông, bà lập văn bản hủy bỏ hợp
đồng đặt cọc; Số tiền đặt cọc 200.000.000đ mà ông A giao cho ông, bà là tiền đặt
cọc của ông T. Vì vậy, ông và bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông A.
Quá trình tham gia giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
bà Nguyễn Thị Diễm H trình bày: Ngày 19/4/2022, ông Phạm Văn T nhờ bà ký thay
ông T hợp đồng đặt cọc với vợ chồng ông Tạ Hữu H, bà Phan Thị B và nhờ bà giao
cho ông H, bà B 300.000.000đ tiền đặt cọc, để đảm bảo việc ông T và vợ chồng ông
H, bà B giao kết hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 06, tờ bản đồ số 56 của ông
H, bà B; Ngày 20/6/2022, ông T nhờ bà giao thêm cho ông H, bà B 300.000.000đ
tiền đặt cọc và nhờ ông Hà Văn A giao cho ông H, bà B 200.000.000đ tiền đặt cọc;
Toàn bộ số tiền đặt cọc hai lần 800.000.000đ là tiền của ông T; không có việc bà
cùng với ông T và ông A cùng đặt cọc, để nhận chuyển nhượng chung thửa đất số
06 của vợ chồng ông H, bà B.
Quá trình tham gia giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
ông Phạm Văn T trình bày: Ông có thỏa thuận với vợ chồng ông Tạ Hữu H, bà Phan
Thị B, nhận chuyển nhượng thửa đất số 06, tờ bản đồ số 56 của ông H, bà B trị giá
1.590.000.000đ; Được sự đồng ý của ông H và bà B, ngày 19/4/2022, ông nhờ bà
Nguyễn Thị Diễm H, thay ông ký hợp đồng đặt cọc với ông H, bà B và giao cho ông
H, bà B 300.000.000đ đặt cọc, để đảm bảo việc ông và vợ chồng ông H, bà B giao
kết hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 06; Ông và ông H, bà B thỏa thuận trong
thời hạn 60 ngày, kể từ ngày ký hợp đồng đặt cọc, các bên tiến hành ký kết hợp đồng
chuyển nhượng thửa đất nêu trên và ông thanh toán đủ tiền nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất cho ông H, bà B; Ngày 19/6/2022 hết thời hạn hợp đồng đặt cọc,
ông và ông H, bà B ký hợp đồng đặt cọc lần thứ hai, với số tiền đặt cọc 500.000.000đ
và thỏa thuận trong thời hạn 17 ngày, kể từ ngày 19/6/2022 đến ngày 06/7/2022, các
bên sẽ ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất nêu trên và ông toán đủ tiền nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông H, bà B. Ngày 20/6/2022, ông nhờ bà H
giao cho ông H, bà B 300.000.000đ tiền đặt cọc và nhờ ông Hà Văn A giao cho ông
H, bà B 200.000.000đ tiền đặt cọc; Khoản tiền đặt cọc 02 lần là tiền của ông; không
có việc ông cùng với bà H và ông A cùng đặt cọc, để nhận chuyển nhượng chung
thửa đất số 06 của vợ chồng ông H, bà B.
Bản án dân sự sơ thẩm số: 32/2024/DS-ST, ngày 08/8/2023 của Tòa án nhân
dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định: Căn cứ khoản 3 Điều 26; khoản
1 Điều 35; Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 244; Điều 271; Điều 273
BLTTDS. Điều 116; Điều 117; Điều 119; Điều 166 BLDS.
Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
1. Buộc ông Tạ Hữu H, bà Phan Thị B phải liên đới trả lại 200.000.000đ cho
ông Hà Văn A.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hà Văn A về việc: Buộc ông
Tạ Hữu H, bà Phan Thị B phải trả khoản tiền lãi 22.500.000đ.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về lãi suất trong giai đoan thi hành án,
án phí và tuyên quyền kháng cáo.
4
Ngày 17/8/2024, bị đơn là ông Tạ Hữu H và bà Phan Thị B có đơn kháng cáo
với lý do: Ông H và bà B không ký hợp đồng đặt cọc với ông Hà Văn A, không nhận
tiền đặt cọc của ông A, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án và không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của ông A.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện VKSND tỉnh Đăk Lăk cho rằng: Kể từ thời
điểm thụ lý vụ án đến khi mở phiên tòa phúc thẩm, Thẩm phán và Hội đồng xét xử
đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về trình tự, thủ tục giải quyết
vụ án. Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn là ông Tạ Hữu H và bà Phan Thị B, VKSND
tỉnh Đăk Lăk xét thấy: Mặc dù ông Hà Văn A không ký hợp đồng đặt cọc với ông
Tạ Hữu H và bà Phan Thị B, để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đối với
thửa đất số 06, tờ bản đồ số 56 của ông H, bà B nhưng ngày 20/6/2022, ông A có
giao cho ông H, bà B 200.000.000đ. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử buộc ông H và bà
B, trả lại cho ông A 200.000.000đ là đúng với quy định của pháp luật, đề nghị Hội
đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông H, bà B, giữ nguyên
bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm
tra tại phiên tòa, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên và căn cứ
vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Tại phiên
tòa phúc thẩm, nguyên đơn không rút đơn khởi kiện; bị đơn không rút đơn kháng
cáo; Các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và
đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết.
[1] Xét đơn kháng cáo của bị đơn, còn trong hạn luật định, nên hợp lệ.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn là ông Tạ Hữu H và bà Phan Thị B, Hội
đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
Về quan hệ tranh chấp: Ông Hà Văn A khởi kiện cho rằng số tiền
200.000.000đ mà ông giao cho ông Tạ Hữu H, bà Phan Thị B vào ngày 20/6/2022,
là tiền ông đặt cọc cho ông H và bà B, để đảm bảo việc ông H, bà B giao kết hợp
đồng chuyển nhượng cho ông cùng với bà Nguyễn Thị Diễm H và ông Phạm Văn
T, quyền sử dụng đất, đối với thửa đất số 06, tờ bản đồ số 56. Do ông T hủy bỏ hợp
đồng đặt cọc với ông H, bà B nhưng không thông báo cho ông biết. Vì vậy, ông khởi
kiện yêu cầu Tòa án buộc ông H và bà B trả lại cho ông 200.000.000đ tiền đặt cọc
và tiền lãi 22.500.000đ; Đây là tranh chấp về hợp đồng đặt cọc. Tòa án cấp sơ thẩm
xác định quan hệ tranh chấp đòi lại tài sản, là không đúng.
Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thì ngày 19/6/2022,
ông Tạ Hữu H và bà Phan Thị B, ký kết hợp đồng đặt cọc với ông Phạm Văn T, để
đảm bảo việc ông H và bà B, giao kết hợp đồng chuyển nhượng cho ông T thửa đất
số 06, tờ bản đồ số 56; ông Hà Văn A cho rằng ông cùng với bà Nguyễn Thị Diễm
H và ông Phạm Văn T thỏa thuận ký hợp đồng đặt cọc chung với ông H, bà B, để
nhận chuyển nhượng chung thửa đất số 06. Vì vậy, ông và bà H đã ủy quyền cho
ông T ký hợp đồng đặt cọc với ông H, bà B nhưng ông H, bà B, bà H và ông T không
thừa nhận; ông A không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh ông đã
5
cùng với bà H, ủy quyền cho ông T ký hợp đồng đặt cọc với ông H, bà B, để nhận
chuyển nhượng chung thửa đất số 06.
Căn cứ nội dung hợp đồng đặt cọc, được ký kết ngày 19/6/2022, giữa ông T và
vợ chồng ông H, bà B, thì khoản tiền đặt cọc là 800.000.000đ ( ông T đã giao cho
ông H, bà B 300.000.000đ tiền đặt cọc vào ngày 19/4/2022 )
Sau khi hợp đồng đặt cọc được ký kết, ngày 20/6/2022, bà H giao cho ông H,
bà B 300.000.000đ tiền đặt cọc; ông Hà Văn A giao cho ông H, bà B 200.000.000đ
tiền đặt cọc; bà H cho rằng 300.000.000đ tiền đặt cọc, mà bà giao cho ông H, bà B
là tiền của ông T; ông T nhờ bà giao cho ông H, bà B; ông A khởi kiện cho rằng
200.000.000đ, mà ông giao cho ông H, bà B vào ngày 20/6/2022, là tiền của ông và
ông đặt cọc cho ông H, bà B để đảm bảo việc nhận chuyển nhượng thửa đất số 06;
Hội đồng xét xử xét thấy, không có căn cứ để chấp nhận. Bởi lẽ, ông A không ký
hợp đồng đặt cọc với vợ chồng ông H, bà B, để đảm bảo việc nhận chuyển nhượng
thửa đất số 06, nên không có lý do ông A đặt cọc tiền cho ông H, bà B; ông T, bà H,
ông H và bà B, đều cho rằng 200.000.000đ, mà ông A giao cho ông H, bà B vào
ngày 20/6/2022, là tiền của ông T; ông T nhờ ông A giao cho ông H, bà B. Tòa án
cấp sơ thẩm tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông A, là không có căn cứ;
Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của
ông Tạ Hữu H và bà Phan Thị B, sửa bản án sơ thẩm và tuyên xử không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của ông Hà Văn A.
Về án phí: Do sửa bản án sơ thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm, xác định lại
nghĩa vụ án phí dân sự sơ thẩm, đối với các đương sư; Ông Tạ Hữu H và bà Phan
Thị B, không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị, Hội
đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự: Chấp nhận kháng
cáo của bị đơn là ông Tạ Hữu H và bà Phan Thị B; Sửa bản án sơ thẩm.
Căn cứ Hợp đồng đặt cọc được ký kết ngày 19/6/2022, giữa ông Tạ Hữu H, bà
Phan Thị B và ông Phạm Văn T; khoản 3 Điều 26, khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hà Văn A về việc buộc
ông Tạ Hữu H và Phan Thị B, phải trả lại cho ông A 200.000.000đ tiền đặt cọc vào
ngày 19/6/2022 và tiền lãi 22.500.000đ.
Về án phí: Ông Hà Văn A phải chịu 11.125.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm,
được khấu trừ 9.734.000đ tiền tạm ứng án phí ông A đã nộp tại biên lai số: 0002537
ngày 01/02/2024 của Chi cục thi hành án dân sư huyện N; ông A còn phải nộp
1.391.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm; Ông Tạ Hữu H và bà Phan Thị B, không phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm và được nhận lại 600.000đ tiền tạm ứng án phí phúc
thẩm đã nộp, tại biên lai số: 0011755 ngày 19/8/2024 của Chi cục thi hành án dân
sự huyện N.
6
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị, có
hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND Cấp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện Krông Năng;
- Chi cục THADS huyện N;
- Các đương sự;
- Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Huờn
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 21/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm