Bản án số 362/2024/DS-PT ngày 25/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 362/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 362/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 362/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 362/2024/DS-PT ngày 25/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 362/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | - Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Vũ Thị Hồng T. - Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 188/2024/DS-ST ngày 27 tháng 8 năm 2024 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 362/2024/DS-PT
Ngày 25 - 12 - 2024
V/v tranh chấp hợp đồng đặt cọc
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Trịnh Văn Toàn.
Các Thẩm phán: Ông Trần Duy Tuấn, ông Nguyễn Văn Bằng.
- Thư ký phiên toà: Bà Trần Thị Mỹ Hạnh - Thư ký Toà án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Ông
Ngụ Văn Minh - Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 384/2024/TLPT-DS ngày 27 tháng
11 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”. Do bản án dân sự sơ thẩm
số: 188/2024/DS-ST ngày 27/8/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma
Thuột, tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 417/2024/QĐ-PT ngày
11/12/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn G, sinh năm 1997; Địa chỉ: Thôn A, xã C,
huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo uỷ quyền: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1995; Địa chỉ:
Số A P, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (Có đơn xin vắng mặt).
2. Bị đơn: Bà Vũ Thị Hồng T, sinh năm 1986; Địa chỉ: Số I T, phường E,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Địa chỉ liên lạc: Khách sạn I, số D L, phường E,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (Có mặt).
* Người kháng cáo: Bị đơn bà Vũ Thị Hồng T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án đại diện theo uỷ quyền
của nguyên đơn là bà Nguyễn Thị H trình bày:
Ngày 15/3/2024, ông Nguyễn Văn G và bà Vũ Thị Hồng T thoả thuận: Bà T
nhận đặt cọc của ông G số tiền 20.000.000 đồng để ký hợp đồng cho thuê khách
2
sạn I tại địa chỉ: Số D đường L, phường E, thành phố B do bà T đang đứng tên
đăng ký hoạt động kinh doanh, nội dung thoả thuận sẽ soạn thảo hợp đồng cho
thuê, thời hạn thuê 10 năm, giá thuê 50.000.000 đồng/tháng; Hai bên thoả thuận
trong vòng 10 ngày (từ ngày 15/3 đến 25/3/2024) sẽ ký hợp đồng thuê chính thức
tại văn phòng công chứng.
Trong thời hạn đặt cọc, nhiều lần ông G yêu cầu bà T cung cấp giấy tờ gốc
để đến văn phòng công chứng ký hợp đồng nhưng bà T cố tình trì hoãn, đến khi
bà T gửi hình ảnh qua Zalo cho ông G thì ông G thấy người đứng tên chủ sở hữu
nhàđất tại địa chỉ D L, phường E, thành phố B là ông Vũ Viết T1 (là bố của bà T
vẫn còn đứng tên nhà đất nhưng đã chết), bà T cho biết hiện giấy tờ nhà đất đang
thế chấp tại Ngân hàng nên không thể công chứng hợp đồng thuê được. Khi biết
thông tin này, ông G yêu cầu bà T hoàn trả tiền cọc nhưng bà T không thực hiện.
Nhận thấy, bà T đã không trung thực khi nhận tiền cọc, nói dối mình là chủ
nhà đất, khi ông G yêu cầu cung cấp thông tin chính xác để làm hợp đồng thuê tại
văn phòng công chứng thì mới biết bà T không phải chủ sở hữu nhà đất định cho
thuê. Do đó, ông G khởi kiện yêu cầu Tòa án: Tuyên vô hiệu biênbản nhận đặt
cọc ngày 15/3/2024 giữa ông Nguyễn Văn G và bà Vũ Thị Hồng T; Buộc bà Vũ
Thị Hồng T trả lại cho ông Nguyễn Văn G toàn bộ số tiền đã nhận đặt cọc là
20.000.000 đồng.
* Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Vũ Thị Hồng T trình bày:
Ngày 15/3/2024, ông G và bà T đã ký kết hợp đồng đặt cọc để đảm bảo thực
hiện ký kết hợp đồng cho thuê khách sạn I. Trước đó ông G và bà T đã có sự trao
đổi trong khoảng thời gian rất lâu khoảng 06 tháng. Bà T đã nói rất rõ tình trạng
pháp lý của khách sạn I mà bà T đang được quyền sử dụng hợp pháp là sổ đỏ của
khách sạn đang vay ngân hàng không thể công chứng được, chỉ có bản photo.
Ông G đồng ý với những điều khoản trong hợp đồng mà bà T đã gửi cho ông G
và qua các cuộc gọi thoại trao đổi zalo, nếu ông G đồng ý ký hợp đồng không
công chứng thì đặt cọc số tiền 20.000.000 đồng cho bà T và hẹn sau 10 ngày sẽ
tiến hành ký kết hợp đồng cho thuê khách sạn. Sau đó, ông G tự nguyện chuyển
cho bà T số tiền 20.000.000 đồng để làm tin. Trước và sau khi ký hợp đồng đặt
cọc, ông G đều không yêu cầu bà T phải cung cấp sổ đỏ để làm thủ tục công
chứng. Tới ngày ký kết hợp đồng, bà T đã nhiều lần gọi điện thoại cho ông G
nhưng ông G lấy nhiều lý do để từ chối ký hợp đồng. Hành vi của ông G đã gây
khó khăn cho bà T cũng như ảnh hưởng đến việc kinh doanh của khách sạn. Vì
vậy, ông G không có cơ sở yêu cầu bà T trả lại tiền cọc.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 188/2024/DS-ST ngày 27/8/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Căn cứ Bộ luật Dân sự năm 2015; Luật Nhàở;
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn G về việc:
+ Tuyên bố hợp đồng đặt cọc ngày 15 tháng 3 năm 2024 giữa ông Nguyễn
Văn G và bà Vũ Thị Hồng T vô hiệu.
3
+ Buộc bà Vũ Thị Hồng T trả lại cho ông Nguyễn Văn G số tiền đã nhận cọc
20.000.000 đồng (Hai mươi triu đồng).
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của
các đương sự theo quy định pháp luật.
Ngày 01/10/2024, bị đơn bà Vũ Thị Hồng T kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, bác toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn, chuyển hồ sơ sang cơ quan cảnh sát điều tra để làm rõ
có hay không hành vi tiêu cực nhận hối lộ, bao che của Hội đồng xét xử sơ thẩm.
Tại phiên tòa, người kháng cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo, các đương
sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét
xử, Thư ký, các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố
tụng dân sự - Không chấp nhận kháng cáo của bà Vũ Thị Hồng T. Giữ nguyên
Bản án sơ thẩm số 188/2024/DS-ST ngày 27 tháng 8 năm 2024 của Toà án nhân
dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ các tài liu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, được
thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, lời trình bày của các
đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng: Ngày 27/8/2024, Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột
xét xử vụ án “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc” giữa ông Nguyễn Văn G và bà Vũ
Thị Hồng T. Đến ngày 19/9/2024, bà T nhận được bản án. Ngày 01/10/2024, bà
T làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm là trong thời hạn luật định và đã nộp
tạm ứng án phí phúc thẩm nên vụ án được xem xét theo trình tự phúc thẩm là phù
hợp.
[2] Về nội dung:
[2.1] Căn cứ vào tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của các
đương sự thì vào ngày 15/3/2024, ông Nguyễn Văn G đã đặt cọc cho bà Vũ Thị
Hồng T số tiền 20.000.000 đồng để ký kết hợp đồng thuê lại khách sạn I tại địa
chỉ: Số D đường L, phường E, thành phố B do bà T làm chủ với thời hạn 10 năm,
hẹn trong vòng 10 ngày sẽ ký kết hợp đồng, trong thời gian này ông G sẽ về soạn
thảo, điều chỉnh lại hợp đồng gửi bà T xem lại. Hết thời hạn, hai bên không tiến
hành ký kết hợp đồng cho thuê khách sạn. Lý do ông G đưa ra là do phía bà T
không cung cấp các giấy tờ gốc để đến văn phòng C ký hợp đồng mà chỉ cung
cấp được bản photo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất tại địa chỉ
trên là ông Vũ Viết T1 (bố của bà T, hiện đã chết và chưa làm thủ tục thừa kế cho
4
ai) và cho biết giấy chứng nhận đang thế chấp tại ngân hàng nên không thể công
chứng được, do đó ông G không đồng ý mà yêu cầu trả lại tiền cọc. Còn bà T cho
rằng, các thông tin trên bà đã trao đổi đầy đủ cho ông G trước khi ông G tiến
hành đặt cọc, bà là chủ sở hữu khách sạn, là con đẻ của ông Vũ Viết T1, khi ông
T1 còn sống đã đồng ý cho bà được sử dụng sổ đỏ và đứng tên để đăng ký kinh
doanh khách sạn I, ông G đã biết rõ nhưng vẫn đồng ý đặt cọc, hết thời hạn đặt
cọc ông G từ chối ký kết hợp đồng thuê nên mất tiền cọc.
Xét lời khai của bà T là không có cơ sở xem xét, bởi lẽ: Bản thân bà T
khẳng định đã nói rõ tình trạng pháp lý của khách sạn cho ông G biết thông qua
các cuộc gọi, tin nhắn trao đổi qua zalo nhưng không được ông G thừa nhận,
không cung cấp được chứng cứ chứng minh mà chỉ có các tin nhắn trao đổi các
nội dung liên quan, giá tiền thuê, cách thức làm việc của hai bên; trong số tin
nhắn bà T cung cấp thì có đoạn ông G hỏi bà T “giấy tờ pháp lý tất cả đầy đủ
chứ ạ” thì bà T nhắn lại “đúng rồi e, đầy đủ c mới hoạt động được chứ” (BL 68);
tại bản “Hợp đồng thuê và cho thuê nhà” do bà T cung cấp, theo bà T đây là Hợp
đồng do bà T soạn và gửi cho ông G xem lại thì tại Điều 1.1 có ghi “Bên A (bà T)
cam kết là chủ sử dụng, chủ sở hữu hợp pháp nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại
địa chỉ nhà số D L, phường E, Tp B, tỉnh Đăk Lắc” (BL 85), nhưng giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất hiện nay vẫn đang đứng tên ông Vũ Viết T1 là bố của bà
T. Do đó yêu cầu của ông G về công chứng hợp đồng thuê là không thể thực hiện
được.
Xét hợp đồng đặt cọc giữa ông G và bà T đã được thiết lập và không thuộc
các trường hợp bị vô hiệu theo quy định của Bộ luật dân sự nhưng trong quá trình
trao đổi, hai bên đều chưa nói rõ tất cả các yêu cầu của mình, các thông tin cần
thiết để ký kết hợp đồng thuê, thời hạn đặt cọc từ ngày 15/3/2024 đến ngày
25/3/2024 đến nay đã hết, các bên đều không muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng
thuê nên hợp đồng bị chấm dứt, việc tuyên bố hợp đồng đặt cọc bị vô hiệu là
không phù hợp.
Tuy nhiên hợp đồng đặt cọc đã được thiết lập và không thuộc các trường
hợp hợp đồng bị vô hiệu như Toà án cấp sơ thẩm đã nhận định, thời hạn đặt cọc
từ ngày 15/3/2024 đến ngày 25/3/2024 đến nay đã hết,
Đối với số tiền ông G đặt cọc cho bà T là 20.000.000 đồng, bà T thừa nhận
có nhận số tiền này. Do các bên đều từ chối tiếp tục thực hiện hợp đồng thuê nên
bà T phải trả lại cho ông G số tiền đặt cọc là phù hợp.
[2.2] Ngoài ra, bà T kháng cáo cho rằng phiên tòa sơ thẩm không có mặt đại
diện của Viện kiểm sát cùng cấp tham gia là thiếu sự khách quan thì thấy: Tòa án
cấp sơ thẩm đã thực hiện việc chuyển giao hồ sơ và các quyết định xét xử, quyết
định hoãn phiên tòa đến Viện kiểm sát cùng cấp nhưng tại phiên tòa đại diện
Viện kiểm sát không tham gia. Tại khoản 1 Điều 232 Bộ luật Tố tụng dân sự quy
định “Kiểm sát viên được Vin trưởng Vin kiểm sát cùng cấp phân công có
nhim vụ tham gia phiên tòa; nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn
tiến hành xét xử, không hoãn phiên tòa”. Do đó Toà án cấp sơ thẩm xét xử vụ án
5
vắng mặt Kiểm sát viên là đúng quy định, hơn nữa, sau khi nhận được Bản án sơ
thẩm, Viện kiểm sát cùng cấp cũng không có kiến nghị, kháng nghị đối với bản
án.
Về yêu cầu của bà T chuyển hồ sơ sang cơ quan cảnh sát điều tra để làm rõ
có hay không hành vi tiêu cực nhận hối lộ, bao che của Hội đồng xét xử sơ thẩm
là thiếu căn cứ, không liên quan đến nội dung vụ án nên không xem xét giải
quyết.
Từ những phân tích trên, xét thấy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của
bà T, cần giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bà T phải chịu án
phí dân sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự:
- Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Vũ Thị Hồng T.
- Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 188/2024/DS-ST ngày 27 tháng 8
năm 2024 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Căn cứ Điều 328 của Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26, khoản 1
Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn G về việc:
Buộc bà Vũ Thị Hồng T trả lại cho ông Nguyễn Văn G số tiền đã nhận cọc
là 20.000.000 đồng (Hai mươi triu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ
luật Dân sự 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn bà Vũ Thị Hồng T phải chịu án phí dân sự
sơ thẩm là 1.000.000 đồng (Một triu đồng).
Trả lại cho ông Nguyễn Văn G 800.000 đồng (T2 trăm nghìn đồng) tạm ứng
án phí đã nộp (do Nguyễn Thị H nộp thay) theo biên lai số AA/2023/0009904
ngày 19/4/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
6
- Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Vũ Thị Hồng T phải chịu án phí dân sự phúc
thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ số tiền 300.000 đồng
tạm ứng án phí đã nộp theo biênsố AA/2023/0013735 ngày 11/10/2024 tại Chi
cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND Tp Buôn Ma Thuột;
- CCTHADS Tp B;
- Các đương sự;
- Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Trịnh Văn Toàn
Tải về
Bản án số 362/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 362/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 02/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm