Bản án số 341/2024/DS-PT ngày 16/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 341/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 341/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 341/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 341/2024/DS-PT ngày 16/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 341/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 16/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn là ông Đào Trần Đ. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 126/2024/DS-ST ngày 19/7/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Tuyên xử |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 341/2024/DS-PT
Ngày: 16/12/2024
V/v: Tranh chấp hợp đồng
đặt cọc.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Thị Nhung.
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Hạnh Vân, ông Nguyễn Văn Bằng.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thu Hương – Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Ông
Nguyễn Chí Hiếu - Kiểm sát viên.
Ngày 16/12/2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm
công khai vụ án thụ lý số: 267/2024/TLPT-DS ngày 15/10/2024 về “Tranh chấp hợp
đồng đặt cọc”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 126/2024/DS-ST ngày 19/7/2024 của Toà án nhân
dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 312/2024/QĐPT-DS ngày
04/11/2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Cao Thị H; Địa chỉ: Thôn A, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk
Lắk. (Có mặt)
- Bị đơn: Ông Đào Trần Đ; Địa chỉ: Số nhà B, đường E, thôn A, xã H, thành phố
B, tỉnh Đắk Lắk. (Có mặt)
* Người kháng cáo: Bị đơn ông Đào Trần Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn bà Cao Thị H trình
bày:
Ngày 08/02/2023, tôi và ông Đào Trần Đ có ký Hợp đồng đặt cọc về việc mua
bán nhà, đất và các tài sản gắn liền trên đất. Hợp đồng gồm 02 tờ cụ thể như sau:
- Tờ 1: Trên hợp đồng do viết nhầm có đề ngày 8/6/2023 nhưng thực chất ngày
08/02/2023. Nội dung đặt cọc ông Đ chuyển nhượng cho 06 thửa đất 133, 134, 135,
136, 137 và 138; tờ bản đồ 102, diện tích 2.422,8m
2
tại xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk
giá chuyển nhượng 1.500.000.000 đồng.
2
Để đảm bảo thực hiện hợp đồng tôi đã đặt cọc 100.000.000 đồng, số tiền còn lại
sẽ tra hết trong 02 đợt khi công chứng hợp đồng 1.310.000.000 đồng và khi nhận Giấy
chứng nhận QSDĐ trả 90.000.000 đồng.
Thời hạn đặt cọc: 45 ngày kể từ 08/02/2023 đến 23/3/2023 do viết nhầm tháng
6 nên trong hợp đồng viết ngày 23/7/2023 các bên sẽ tiến hành ký hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất.
- Tờ 2: Hợp đồng đặt cọc ngày 8/6/2023 nội dung đặt cọc ông Đ chuyển nhượng
cho 03 thửa đất 132, 139, 140; tờ bản đồ 102, diện tích 3.588,9m
2
tại xã P, huyện K,
tỉnh Đắk Lắk giá chuyển nhượng 1.425.000.000 đồng. Các thỏa thuận như tờ 1.
Hết thời hạn đặt cọc các bên thỏa thuận kéo dài thêm thời hạn đặt cọc đến hết
tháng 4/2023 sẽ tiến hành công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Đến hạn tháng 4/2023, ông Đ đã công chứng hợp đồng chuyển nhượng đối với thửa
đất số 135 và 136 và tôi đã thanh toán hết giá trị chuyển nhượng của hai thửa đất này.
Còn số tiền cọc 100.000.000 đồng sẽ trừ khi công chứng hết các thửa đất còn lại thể
hiện lại tin nhắn Zalo lúc 12h58’ ngày 01/4/2023.
Sau đó ông Đ nói có khách mua hết 07 lô còn lại nên các bên thỏa thuận có khách
mua Đ chuyển nhượng rồi trả lại tôi số tiền cọc 100.000.000 đồng thể hiện tại tin nhắn
Zalo lúc 14h09’ ngày 17/4/2023.
Nhưng sau khi chuyển nhượng hết 07 thửa còn lại ông Đ không hoàn trả lại cho
tôi số tiền cọc. Vì vậy, tôi khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Đ phải trả
cho tôi số tiền cọc 100.000.000 đồng.
2. Quá trình tham gia tố tụng bị đơn ông Đào Trần Đ trình bày:
Ngày 08/02/2023, ông Đ có ký hợp đồng đặt cọc với bà Cao Thị H mua tất cả 09
lô đất của ông Đ. Cùng ngày bà H đã đặt cọc cho ông Đ số tiền 100.000.000 đồng,
cho đến hết hạn hợp đồng đặt cọc bà H không làm thủ tục công chứng nhận chuyển
nhượng các lô đất của ông Đ. Trong khi đó, thời gian mới ký hợp đồng đặt cọc, môi
giới đã yêu cầu ông Đ chuyển tiền hoa hồng môi giới tất cả các lô đất là 100.000.000
đồng, bao gồm 20.000.000 đồng bà H yêu cầu ông Đ san lấp mặt bằng và các công
việc khác để phân lô đóng cọc tiện cho bà H bán đất. Ông nghĩ rằng bà H đã vi phạm
hợp đồng và quên mất lợi ích, thời gian của ông Đ nên ông Đ không trả lại số tiền
100.000.000 đồng.
Tại bn n s 126/2024/DS-ST ngày 19/7/2024 của Toà n nhân dân thành
ph Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
- Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 116, Điều 117, Điều 328, Điều 401 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Áp dụng Điều 26 Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Uỷ ban tường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và
sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Cao Thị H.
3
Công nhận hợp đồng đặt cọc ngày 08/02/2023, giữa bà Cao Thị H và ông Đào
Trần Đ, thỏa thuận chuyển nhượng cho bà Cao Thị H 06 thửa đất (số 133, 134, 135,
136, 137 và 138), tờ bản đồ số 102, diện tích 2.422,8m
2
tại xã C, huyện K, tỉnh Đắk
Lắk và 03 thửa đất (số A, 139 và 140), tờ bản đồ số 102, diện tích 2.422,8m
2
tại xã C,
huyện K, tỉnh Đắk Lắk là có hiệu lực.
Buộc ông Đào Trần Đ trả cho bà Cao Thị H số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm
triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật
dân sự năm 2015.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo cho các đương
sự.
Ngày 06/8/2024, bị đơn ông Đào Trần Đ kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề
nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk nhận định:
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán cũng như tại phiên
tòa, Hội đồng xét xử và các đương sự đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố
tụng dân sự.
Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày
của các đương sự xét thấy toàn bộ nội dung kháng cáo của bị đơn ông Đào Trần Đ là
không có căn cứ, nên đề nghị HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015: Không chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của bị đơn ông Đào Trần
Đ. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 126/2024/DS-ST ngày 19/7/2024 của Toà
án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, thẩm tra tại
phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn
diện các tài liệu, chứng cứ, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên,
HĐXX nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn được nộp trong thời hạn luật định và
đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo quy định nên được xem xét giải quyết theo
trình tự phúc thẩm.
[2] Xét nội dung kháng cáo của bị đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1] Về nội dung: Hai Hợp đồng đặt cọc về việc mua bán nhà, đất và các tài sản
liên quan đến đất cùng ký ngày 08/02/2023 (có 01 hợp đồng ghi ngày 08/6/2023, tuy
nhiên các bên đương sự đều thừa nhận ghi nhầm ngày, thực tế hợp đồng được thỏa
thuận, ký kết vào ngày 08/02/2023), giữa bà Cao Thị H và ông Đào Trần Đ có nội
dung: Bên bán ông Đào Trần Đ đồng ý chuyển nhượng cho bên mua bà Cao Thị H
tổng cộng 09 thửa đất, gồm các thửa đất số 133, 134, 135, 136, 137 và 138, tờ bản đồ
102, diện tích 2.422,8m
2
; các thửa đất 132, 139 và 140, tờ bản đồ 102, diện tích
3.588,9m
2
, địa chỉ các thửa đất cùng tại xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, với tổng giá trị
4
chuyển nhượng 2.925.000.000 đồng (Hai tỷ, chín trăm hai mươi lăm triệu đồng).
Cùng ngày bà H đã đặt cọc cho ông Đ số tiền 100.000.000 đồng.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông Đ, bà H đã ký hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất đối với 02 thửa đất số 135 và 136, tờ bản đồ số 102; hai bên xác
định 02 thửa đất này đã được các bên thực hiện xong việc chuyển nhượng, không có
tranh chấp; 07 thửa đất còn lại chưa được các bên thực hiện thủ tục chuyển nhượng
theo thỏa thuận như hợp đồng đặt cọc đã ký.
Tuy nhiên, hết thời hạn hợp đồng đặt cọc (ngày 23/3/2023) ông Đ, bà H mới ký
kết hợp đồng chuyển nhượng 02 thửa đất số 135 và 136, tờ bản đồ số 102 và hai bên
tiếp tục tìm người mua đối với 07 thửa đất còn lại để ký hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất. Như vậy, mặc dù đã quá thời hạn thực hiện thỏa thuận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất theo nội dung hợp đồng đặt cọc ngày 08/02/2023 mà bà H
và ông Đ đã ký kết, nhưng các bên không có tranh chấp về hợp đồng đặt cọc mà thực
tế vẫn có những thỏa thuận khác để tiếp tục thực hiện việc chuyển nhượng đối với 07
thửa đất còn lại, thể hiện bằng việc ông Đ đã chuyển nhượng đất cho người khác, bà
H đồng ý việc này và các bên thỏa thuận việc xử lý đối với số tiền đặt cọc 100.000.000
đồng.
[2.2] Ông Đ cho rằng, ông đã nhiều lần hối thúc bà H đi công chứng hợp đồng
để ông nhận tiền nhưng bà H lấy lý do chưa tìm được người mua nên chưa thể công
chứng, vì vậy việc không ký được hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất sau
khi hết thời hạn đặt cọc là lỗi của bà H, HĐXX xét thấy: Thời hạn thực hiện hợp đồng
đặt cọc là 45 ngày, từ ngày 08/02/2023 đến ngày 23/3/2023. Quá thời hạn nêu trên
nếu một trong các bên vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận thì bên còn lại có quyền yêu
cầu hủy hợp đồng đặt cọc đã ký kết và bên có lỗi phải chịu trách nhiệm do lỗi của
mình khi xử lý tiền đặt cọc. Như vậy, khi ông Đ cho rằng bà H vi phạm nghĩa vụ của
mình là từ chối ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì ông Đ có quyền
yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc và bà H phải chịu mất số tiền 100.000.000 đồng đã đặt
cọc trước đó, nhưng thực tế sau khi hết hạn hợp đồng đặt cọc ông Đ, bà H vẫn ký kết
hợp đồng chuyển nhượng 02 thửa đất số 135, 136 và có thỏa thuận việc ông Đ được
quyền tìm người để bán những thửa đất còn lại, sau đó sẽ trả lại số tiền mà bà H đã
đặt cọc là 100.000.000 đồng. Tuy hợp đồng đặt cọc đã hết hạn, các bên chưa thực
hiện xong các nội dung thỏa thuận của hợp đồng nhưng sau đó đã có thỏa thuận khác
và đã thực hiện theo các thỏa thuận này trên thực tế. Vậy, hợp đồng đặt cọc ngày
08/02/2023 không thực hiện được không phải do lỗi của các bên mà các bên đã có
thỏa thuận khác, theo nội dung thỏa thuận thì sau khi ông Đ chuyển nhượng xong toàn
bộ 07 thửa đất còn lại sẽ trả lại cho bà H số tiền cọc ban đầu là 100.000.000 đồng.
Trên thực tế ông Đ đã chuyển nhượng xong toàn bộ 07 thửa đất còn lại được nêu trong
hợp đồng đặt cọc giữa ông Đ, bà H cho người khác. Nên Tòa án cấp sơ thẩm chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Cao Thị H là có cơ sở.
Từ những phân tích, nhận định trên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị
đơn ông Đào Trần Đ. Cần giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 126/2024/DS-ST
ngày 19/7/2024 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
[3] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn ông Đào Trần Đ
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.
5
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
1/ Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn là ông Đào Trần Đ.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 126/2024/DS-ST ngày 19/7/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Tuyên xử:
Chấp yêu cầu khởi kiện của bà Cao Thị H.
Công nhận Hợp đồng đặt cọc ngày 08/02/2023, giữa bà Cao Thị H với ông Đào
Trần Đ, thỏa thuận chuyển nhượng cho bà Cao Thị H 06 thửa đất (số 133, 134, 135,
136, 137 và 138), tờ bản đồ số 102, diện tích 2.422,8m
2
tại xã C, huyện K, tỉnh Đắk
Lắk và 03 thửa đất (số A, 139 và 140), tờ bản đồ số 102, diện tích 3.588,9m
2
tại xã C,
huyện K, tỉnh Đắk Lắk là có hiệu lực.
Buộc ông Đào Trần Đ phải trả lại cho bà Cao Thị H số tiền 100.000.000 đồng
(Một trăm triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật
dân sự năm 2015.
2/ Về án phí: Ông Đào Trần Đ phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm,
được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng mà ông Đ đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân
sự thành phố Buôn Ma Thuột theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
AA/2023/0013390 ngày 19/8/2024.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, đã có
hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND Cấp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND Tp. Buôn Ma Thuột;
- Chi cục THADS Tp. Buôn Ma Thuột;
- Các đương sự;
- Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Thị Nhung
Tải về
Bản án số 341/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 341/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 08/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 06/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm