Bản án số 30/2021/HSPT ngày 20/04/2021 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 30/2021/HSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 30/2021/HSPT
Tên Bản án: | Bản án số 30/2021/HSPT ngày 20/04/2021 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản |
---|---|
Tội danh: | 139.Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu |
Số hiệu: | 30/2021/HSPT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 20/04/2021 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU
BẢN ÁN 30/2021/HSPT NGÀY 20/04/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 35/2021/HSPT ngày 19/3/2021 đối với bị cáo Nguyễn Thị Hoàng O do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 84/2020/HSST ngày 10/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Thị Hoàng O, Sinh năm 1988, tại Đ;
Hộ khẩu thường trú: Khu 14, xã L, huyện L, tỉnh Đ; Chỗ ở: Điện Biên Phủ, khu phố 2, phường L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Nghề nghiệp: Nhân viên tiếp thị; Trình độ học vấn: 12/12; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Cha: Nguyễn Văn G, sinh năm 1956; Mẹ: Nguyễn Thị T, năm sinh: 1958. Bị cáo có chồng là Trần Minh T, sinh năm 1988.
Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt tại phiên tòa). Ngoài ra, trong vụ án còn có bị hại, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo và không liên quan đến kháng cáo nên Tòa không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Thị Hoàng O và Nguyễn Thị Như T1 có mối quan hệ bạn bè do làm cùng công ty với nhau, O thường xuyên đến phòng trọ của T1 tại tổ 9, khu phố 1, phường L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để chơi và cùng nấu ăn. Vì vậy, O biết T1 có một khoản tiền gửi tiết kiệm tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nên O nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền tiết kiệm của T1. Do thường xuyên đến nơi ở của T1 nên O biết T1 cất sổ tiết kiệm ở trong tủ quần áo. Đến khoảng 10 giờ 30 phút ngày 27-9-2020, lợi dụng lúc T1 đi ra khỏi phòng, O đã lục tìm trong tủ của T1 và lấy 01 sổ tiết kiệm đứng tên Nguyễn Thị Như T1. Đến trưa ngày 28-9-2020 lợi dụng lúc T1 đi tắm, O lục tìm trong giỏ xách của T1 để lấy 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thị Như T1. Sau khi lấy được sổ tiết kiệm và CMND của T1 đến khoảng 10 giờ 30 ngày 29-9-2020, O đến Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tại số phường P, thành phố B với mục đích rút tiền. O đến giao dịch tại quầy số 18 do giao dịch viên Nguyễn Thị Kim O1 làm việc, O đã giả mạo mình là Nguyễn Thị Như T1 đưa sổ tiết kiệm và CMND của T1 cho giao dịch viên Kim O1 để yêu cầu rút toàn bộ số tiền trong sổ tiết kiệm là 51.285.200 đồng. Quá trình thực hiện giao dịch viên Kim O1 có yêu cầu O cởi khẩu trang để đối chiếu với CMND nhưng do CMND đã cũ nên chị Kim O1 không phát hiện được, khi O ký tên qua đối chiếu không giống với chữ ký mẫu của T1 trên hệ thống, O tiếp tục gian dối cho rằng do ít học nên chữ ký không đồng nhất. Sau đó chị Kim O1 đã làm thủ tục tất toán và cho O rút toàn bộ số tiền trong sổ tiết kiệm. Sau khi lấy được tiền O chuyển vào tài khoản cá nhân 76110000456965 tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh B số tiền 50.000.000 đồng, số còn lại O tiêu xài cá nhân hết.
Do nhận được tin nhắn của Ngân hàng nên chị T1 phát hiện số tiền trong tài khoản tiết kiệm đã bị rút hết, chị T1 đến Ngân hàng thì được biết đã có người rút tiền, qua xem hình ảnh camera thì phát hiện người rút tiền là Nguyễn Thị Hoàng O nên chị T1 đã trình báo công an.
Tại cơ quan điều tra O đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Quá trình làm việc, Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố B đang tạm giữ:
- 01 sổ tiết kiệm của chị Nguyễn Thị Như T1 và chứng từ giao dịch mà O đã ký tại ngân hàng, ngày 08/12/2020 cơ quan điều tra đã giao trả cho ngân hàng.
- Thu giữ của Nguyễn Thị Hoàng O: 01 áo khoác dài tay, bằng thun có mũ màu tím, trên ngực trái có chữ thêu màu trắng “ADIDAS”, dọc hai bên tay áo có 3 kẻ sọc bằng vải thun màu trắng; 01 áo thu ngắn tay không rõ nhãn hiệu màu hồng;
01 quần jean ống dài màu xanh đen không rõ nhãn hiệu, cơ quan điều tra đã chuyển giao Chi cục thi hành án dân sự thành phố B bảo quản chờ xử lý.
- 01 đĩa CD chứa đoạn video ghi nhận hình ảnh Nguyễn Thị Hoàng O tại nhà giữ xe và quầy giao dịch rút tiền tại Ngân hàng lưu tại hồ sơ vụ án.
Đối với 01 chứng minh nhân dân của Nguyễn Thị Như T1, sau khi rút tiền O đã vứt bỏ nên không thu hồi được.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 84/2020/HSST ngày 10 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Hoàng O phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng Điều 38, điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;
Xử phạt: Nguyễn Thị Hoàng O 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt chấp hành án.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 24/12/2020, bị cáo Nguyễn Thị Hoàng O có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo như đã nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa đã phát biểu quan điểm đồng thời phân tích, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm trong hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Qua đó Đại diện Viện kiểm sát nhận xét bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội, mức án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là phù hợp, tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ; sau khi nghe quan điểm Kiểm sát viên, ý kiến của bị cáo;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Hoàng O làm gửi trong thời hạn quy định nên hợp lệ, Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm như sau:
[1] Về tố tụng:
Trong quá trình giải quyết vụ án hành vi của Thẩm phán, quyết định của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã tuân thủ đúng thủ tục tố tụng. Bị cáo và các đương sự khác không có ai khiếu nại hay tố cáo hành vi, quyết định của Thẩm phán và của Tòa án.
[2] Về tội danh và điều luật áp dụng:
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo công nhận bản án sơ thẩm đã viện dẫn hành vi phạm tội của bị cáo và xét xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là đúng tội; tuy nhiên khi Hội đồng xét xử, Đại diện Viện kiểm sát hỏi về hành vi phạm tội bị cáo lại khai báo quanh co nhằm mục đích làm giảm nhẹ tội. Hội đồng xét xử xem xét các tài liệu chứng cứ do quá trình điều tra đã thu giữ được; kết hợp với lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm nhận thấy phù hợp với nhau, phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở để xác định như sau:
Bị cáo Nguyễn Thị Hoàng O do mong muốn chiếm đoạt tiền trong sổ tiết kiệm của chị Nguyễn Thị Như T1 đang gửi ngân hàng nên đã lấy trộm 01 sổ tiết kiệm và 01 CMND của chị T1. Sau đó đến khoảng 10 giờ 30 ngày 29-9-2020, tại quầy giao dịch số 18 Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu - Nguyễn Hữu Thọ, phường P, thành phố B, bằng nhiều thủ đoạn gian dối bị cáo O đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt của Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu số tiền 51.285.200 đồng trong tài khoản tiết kiệm của chị Nguyễn Thị Như T1, do đó hành vi của bị cáo đã đủ dấu hiệu cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” thuộc trường hợp định khung tăng nặng quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự.
[3] Về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo O như sau:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác gây mất trật tự an ninh tại địa phương. Bị cáo O là người đã trưởng thành, bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, có đủ sức khỏe để lao động tạo ra thu nhập nhưng lòng tham muốn nhanh chóng có tiền tiêu xài nên đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Xét thấy, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm để răn đe và phòng ngừa chung. Cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và xử phạt bị cáo O 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp được tình tiết nào mới theo quy định của pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
[4] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo O phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Hoàng O; giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 84/2020/HSST ngày 10/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu:
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Hoàng O phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Nguyễn Thị Hoàng O 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 84/2020/HSST ngày 10/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo O phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng).
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (20/4/2021).
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!