Bản án số 08/2024/HS-PT ngày 28-03-2024 của TAND tỉnh Kon Tum về về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
  • 08_2024_HS-PT_ KOM TUM

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

  • 08_2024_HS-PT_ KOM TUM

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 08/2024/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 08/2024/HS-PT ngày 28-03-2024 của TAND tỉnh Kon Tum về về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tội danh: 139.Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Kon Tum
Số hiệu: 08/2024/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/03/2024
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: N N O lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH KON TUM
Bản án số: 08/2024/HSPT
Ngày: 28/03/2024
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KON TUM
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Vũ Văn Thuấn
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Minh Thành và bà Nguyễn Thị Như Mai.
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Hoài - Thư Tòa án nhân dân tnh
Kon Tum.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Kon Tum tham gia phiên tòa:
Võ Thị Ngọc Lam - Kiểm sát viên trung cấp.
Ngày 28 tháng 03 năm 2024 tại trụ sở, Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum đưa
ra xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thsố 03/2024/HSPT
ngày 15 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo N N O, kháng cáo Bản án hình sự
thẩm số 11/2023/HS-ST ngày 12/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Ia H’Đrai,
tỉnh Kon Tum. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xsố 09/2024/QĐXXPT-HS ngày
19/02/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 37/2024/HHPT-QĐ ngày 28/02/2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum đối với:
Bị cáo kháng cáo:
N N O (tên gọi khác: Không); sinh ngày: 16/04/1983 tại: Nghệ An; Nơi đăng
HKTT: Thôn 1, xã I D, huyện I H, tỉnh Kon Tum; Nghề nghiệp: Lao động tự do;
Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con
ông N V T, sinh năm: 1942 và bà N T T; sinh năm: 1947; Chung sống như vợ chồng
nhưng không đăng kết hôn với bà L T T, sinh năm: 1987 hai con, lớn nhất
sinh năm 2009; nhỏ nhất sinh năm 2014. Gia đình bị cáo có năm anh chị em, bị cáo
con thứ trong gia đình; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giam từ ngày
31/8/2023 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu trong hồ vụ án diễn biến tại phiên tòa, vụ án được
tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 4/2021, do cần tiền tiêu sài nên N N O đã nảy sinh ý định bán
mảnh đất diện tích 10m x 60m, giáp với Quốc lộ 14C; trên đất một căn nhà
cấp 4 O đang sinh sống cho người khác đkiếm tiền khi biết đất này không
giấy tờ do Ủy ban nhân dân I D quản nhưng do quá trình sinh sống từ
2
khi O có được nhà và đất thông qua việc làm ăn và đổi công với một người tên Thủy
(không rõ nhân thân, lai lịch) mà không thấy chính quyền địa phương nói nên O
cứ tiếp tục sinh sống tại đây. Sau đó, O đã tự liên hệ và nhờ anh L P C, SN: 1985 là
người cùng thôn tìm xem ai mua đất không thì giới thiệu cho O. Đến ngày
04/5/2021, thông qua giới thiệu của anh C, chị H T TH, SN: 1990 cùng chồng là anh
H V CH, SN: 1979 cùng trú tại thôn Ia Muung, xã I D, huyện I H, tỉnh Kon Tum đã
liên lạc và hẹn gặp O tại nhà của O. Tại đây, giữa hai bên đã thỏa thuận, trao đổi về
việc mua bán nhà đất; để tạo lòng tin cho vchồng anh Ch, O đã đưa ra nhiều
thông tin không đúng sự thật như: đâyđất của O, không có tranh chấp; giấy tờ do
Nông trường thuộc Công ty Cao su Sa Thầy cấp, hiện đang đem đi làm bìa đỏ. Tin
vào những O nói nên vợ chồng anh Ch đã đồng ý mua với giá 140.000.000đ
đặt cọc trước 90.000.000đ tiền mặt và được O tự tay viết giấy sang nhượng đất cho
vợ chồng chị Th dưới sự chứng kiến của anh C, đồng thời hai bên thỏa thuận khi nào
nhận đủ số tiền còn lại sẽ làm giấy tờ sang tên giao toàn bộ giấy tờ đất, nhà cho
vợ chồng chị Thảo.
Thời gian sau đó, O vẫn tiếp tục sinh sống tại căn ntrên nhưng không những
không thực hiện những thỏa thuận với vợ chồng chị Th n nhiều lần gọi điện
thúc giục yêu cầu vợ chồng chị Th thanh toán số tiền còn lại cho O đồng thời
không nói cho ai biết việc O đã bán đất và nhà cho vợ chồng chị Th.
Đến khoảng tháng 4/2022, ông G V K, SN: 1972 vợ N T B, SN: 1973
cùng trú tại Thôn 7B, xã Ea Ô, huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk trong quá trình tìm mua
đất đã được vợ chồng L T T, SN: 1982 ttại: Thôn 1, I D, huyện I H, tỉnh
Kon Tum và ông L V C1, SN: 1982; trú tại: thị trấn Plei Kần, huyện Ngọc Hồi, tỉnh
Kon Tum cho biết việc O đang nhu cầu bán nhà nên đã chủ động xin số điện thoại
của O gọi điện hẹn gặp O để hỏi chuyện mua bán nhà. Biết được nhu cầu mua đất
nhà của vchồng ông K nên O đồng ý gặp và đến ngày 27/4/2022, hai bên đã
gặp để thỏa thuận mua bán mảnh đất ngôi nhà O đang sinh sống. Quá trình
trao đổi, O tiếp tục đưa ra các thông tin không đúng sự thật khi được vợ chồng ông
K hỏi về giấy tờ nhà như: Giấy cấp đất của Nông trường Cao su đang gửi quan
chức năng làm bìa đỏ; đất đã được quan chức năng đo đang chờ làm giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đồng thời cam kết đất không có tranh chấp. Tin vào
những O nói nên vợ chồng ông K đã đồng ý mua với giá 160.000.000đ, đặt cọc
trước 10.000.000đ tiền mặt được O tự tay viết giấy biên nhận về việc đặt cọc.
Đến ngày 03/5/2022, vợ chồng ông K tiếp tục đưa cho O số tiền 10.000.000đ tiền
mặt, đồng thời cùng O vchồng L V C1 đi ăn cơm. Tại đây, O cung cấp số tài
khoản ngân hàng 5011205011109 mang tên N T H1(là người quen của O) yêu
cầu vợ chồng ông K chuyển tiếp số tiền như đã thỏa thuận vào số tài khoản này. Do
không tài khoản ngân hàng nên ông K đã nhờ người thân N T H2, SN: 1971,
trú tại Thôn An , Huê, huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk ông N V T1, SN:
1976, trú tại Thôn S M, Ngọc , huyện n Yên, tỉnh Bắc Giang chuyển tiền
vào tài khoản ngân hàng do O cung cấp số tiền lần lượt 100.000.000đ
20.000.000đ. Sau khi chuyển xong tiền vợ chồng ông K đã được O tự tay viết giấy
sang nhượng đất dưới sự chứng kiến của anh L V C1 L T T. Tổng số tiền v
3
chồng ông K đã đưa cho O 140.000.000đ; còn 20.000.000đ sẽ thanh toán nốt khi
O hoàn thành việc làm giấy tờ và sang tên.
Sau đó, O tới gặp chị H1 để nhận lại toàn bộ số tiền vợ chồng ông K đã chuyển
khoản rồi đi về mà không nói gì hay hứa hẹn với H1 cả; cũng không thực hiện các
thỏa thuận với vợ chồng ông K.
Đến tháng 8/2022 khi vợ chồng chị Th đã đưa đủ số tiền mua đất và nhà cho O
thì đã dọn đồ đến để như đã thỏa thuận với O. Sau khi vợ chồng chị Th đến ở t
O đã bỏ đi khỏi địa phương cắt đứt liên lạc với các bị hại. Đối với tổng số tiền
280.000.000 đã chiếm đoạt, O đã đưa cho anh Ch 5.000.000đ trước đó vì đã nhờ anh
Ch tìm người mua đất, số tiền còn lại O đã tiêu sài cá nhân hết.
Đến ngày 12/9/2022, khi vợ chồng ông K dọn đến và thấy gia đình chị Thảo
đang sinh sống tại đây mới biết O đã bán cho người khác; sau đó hai gia đình liên
tục gọi điện cho O nhưng không liên lạc được. Biết mình bị N N O lừa bán đất
nhà trên, các bị hại đã làm đơn trình báo đến quan Công an để được giải quyết
theo quy định.
Tại Bản án hình sự thẩm số 11/2023/HS-ST ngày 12/12/2023 của Tòa án
nhân dân huyện I H, tỉnh Kon Tum đã ra quyết định:
Về tội danh: Tuyên bố bị o N N O phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Về hình phạt: Đim a khoản 3 Điều 174; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2
Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo N N O 8 (Tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam
31/8/2023.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử vtrách nhiệm dân sự, án phí
quyền kháng o theo luật định.
Sau khi xét xthẩm, ngày 25/12/2023 bị cáo N N O kháng o xin giảm nh
hình phạt.
Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, b cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo,
đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét việc bị cáo sang nhượng nhà, đất cho
vợ chồng anh H V CH, chị H T TH giao dịch dân sự chứ bị cáo không phạm tội
lừa đảo, Bị cáo chỉ thừa nhận hành vi lừa đảo đối với vợ chồng anh G V K và chị N
T B, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kon Tum phát biểu quan điểm về việc
giải quyết vụ án: Qua xét hỏi, tranh luận công khai tại phiên tòa, xem xét, đánh giá
về nội dung kháng cáo của bị cáo. Mặc dù, bị cáo cho rằng việc mua bán đất giữa bị
cáo các bị hại là quan hệ dân sự hành vi của bị cáo chưa đến mức phải truy
cứu trách nhiệm dân sự; tuy nhiên, qua các tài liệu, chứng cứ được thu thập được
trong hồ vụ án, thấy rằng: Mảnh đất bị cáo bán cho các bị hại chưa được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, không đủ điều kiện để chuyển quyền sdụng đất
theo quy định tại Điều 188 Luật đất đai, nhưng bị cáo vẫn đưa thông tin gian dối là
mảnh đất là của bị cáo, không tranh chấp, đang được làm giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất để hai bị hại giao cho bcáo số tiền 280 triệu đồng. Sau khi nhận được
4
tiền, bị cáo cắt liên lạc với các bị hại đi khỏi địa phương. Như vậy, cấp thẩm
xét xử bị cáo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điểm a khoản 3 Điều 174
BLHS là có căn cứ, không oan.
Về hình phạt cấpthẩm xử phạt bị cáo 08 năm tù phù hợp với tính chất,
mức độ phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, ngày 26/01/2024, bị hại N T B đã xuất trình
01 đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, trong đó có thể hiện bị cáo đã bồi thường
cho bị hại số tiền 30 triệu đồng. Đây tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy
định tại điểm b khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét
xử xem xét cho bị cáo được hưởng.
Từ những phân tích trên, thấy rằng căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm
nhẹ hình phạt của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều
355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự chấp nhận kháng cáo xin giảm
nhẹ hình phạt của bị cáo; giảm cho bị cáo từ 6-8 tháng tù.
Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về hành vi phạm tội
của bcáo, giảm nhẹ một phần hình phạt để bị cáo hội cải tạo, sớm được
trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung ván, căn cứ vào tài liệu trong hồ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
[1] Về hình thức: Sau khi xét xử sơ thẩm đến ngày 25/12/2023, bị cáo N N O
kháng cáo xin được Hội đồng xem xét về hành vi phạm tội xin giảm nhhình
phạt. Xét kháng cáo của bcáo được làm trong thời hạn luật định là hợp lệ, nên chấp
nhận để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét về nội dung đơn kháng cáo của bị cáo:
[2.1] Xét về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
Trong khoảng thời gian từ tháng 4/2021 đến tháng 8/2022, mặc dù bị cáo biết
mảnh đất diện tích 10 x 60m, giáp với Quốc lộ 14C, trên đất một căn nhà
cấp 4 thuộc địa phận Thôn 1, xã I D, huyện I H, tỉnh Kon Tum không có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, chưa làm các thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất theo quy định nhưng bị cáo vẫn cố tình đưa ra các thông tin không đúng sự thật
như đây là đất của bị cáo, không có tranh chấp; giấy tờ do Nông trường thuộc Công
ty Cao su Sa Thầy cấp, hiện đang đem đi làm bìa đỏ nhằm bán tài sản không phải
của mình cho các bị hại. Do tin vào những gì bị cáo nói và cam kết nên các bị hại đã
đồng ý mua đất và nđồng thời đã đưa tiền cho bị cáo dưới nhiều hình thức khác
nhau (Gia đình ch H T TH đã đưa cho bị cáo 140.000.000 đồng, gia đình bà N T B
đã đưa cho bị cáo 140.000.000đ). Sau khi đã chiếm đoạt tổng số tiền 280.000.000đ
của các bị hại, bị cáo đã bỏ đi khỏi địa phương, cắt đứt liên lạc với các bị hại và tiêu
sài hết số tiền đã chiếm đoạt.
Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm bị o kháng cáo cho rằng: Bị cáo sang nhượng
nhà, đất của bị cáo cho vợ chồng anh H V CH, chị H T TH chỉ là giao dịch dân sự,
5
bị cáo không có hành vi lừa đảo đối với anh Ch, chị Th. Bị cáo chỉ thừa nhận hành
vi lừa đảo đối với bị hại anh G V K và chị N T B, nên bị cáo đề nghị Hội đồng xem
xét cho bị cáo. Đồng thời bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ một phần hình phạt cho b
cáo.
Xét nội dung kháng cáo trên của bị cáo Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:
Bị cáo N N O biết rõ, nhà, đất của mình chưa không giấy tờ hợp pháp, không
được quyền chuyển nhượng theo quy định của pháp luật, như đại diện Viện kiểm sát
đã phân tích. Tại phiên tòa bị cáo cho rằng đất của bị cáo mua của ông Thủy (hiện
không xác định được tên, tuổi, địa chỉ), bị cáo xây nhà trên đất chưa giấy t
hợp pháp cũng không xin phép chính quyền địa phương. Bị cáo cho rằng đất giấy
tờ, bị cáo đã nộp cho Tòa án (Bút lục số 435). Tuy nhiên qua các tài liệu chứng cứ
thu thập có tại hồ sơ vụ án, thì Biên bản xác nhận ngày 15/7/2018 của Nông trường
cao su Suối Cát chỉ xác định diện tích nông trường bố trí anh L V L Công nhân
của nông trường 1000m
2
đất tại thôn 1, xã I D, huyện I H, phù hợp với lời khai của
anh Luyện, đây đất của Nông trường cấp cho Công nhân, không được phép chuyển
nhượng. Đất này qua điều tra, xác minh chưa được cấp giấy chứng nhận quyền s
dụng đất, đang do UBND I D, huyện I H quản lý. Như vậy, bị cáo cho rằng
nhà, đất của bị cáo, giấy tờ hợp pháp không căn cứ. Mặc biết, nhà, đất
không có giấy tờ hợp pháp bị cáo vẫn đưa ra thông tin không đúng sự thật như đây
đất của bị cáo, không tranh chấp; giấy tờ do Nông trường thuộc Công ty Cao
su Sa Thầy cấp, hiện đang đem đi làm bìa đỏ nhằm sang nhượng tài sản không phải
của mình cho các bị hại vợ chồng anh Ch, ch Thảo vợ chồng anh K, chị
Bích. Trong thời gian sang nhượng cho anh Ch, chị Th, bị cáo tiếp tục sang nhượng
tài sản này cho anh K, chị B, đồng thời nhận tiền của hai gia đình các bị hại với số
tiển là 280.000.000đ. Như vậy, ngay từ đầu, bằng thủ đoạn, cố tình đưa ra thông tin
gian dối, để sang nhượng tài sản không hợp pháp, mục đích chiếm đoạt số tiền
trên của các bị hại. Sau khi chiếm đoạt được số tiền, bị cáo đã không làm thủ tục,
giấy thợp pháp cho bị hại, bỏ đi khỏi địa phương, cắt đứt mọi liên lạc với
các bị hại. vậy, Tòa án cấp thẩm đã đánh giá, xác định hành vi của bị cáo phạm
tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a, khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự
căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo cho rằng hành vi sang
nhượng nhà, đất cho anh Ch, chị Thảo giao dịch dân sự thông thường, bị cáo
không có hành vi lừa đảo là không có cơ sở để chấp nhận.
[2.2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.
Hội đồng xét xử xét thấy: Với hành vi trên của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã
hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo
v, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương, gây dư luận xấu trong xã hội.
Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, đánh giá và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Như bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.
Bcáo bố ruột N V T được Chủ tịch nước cộng hòa hội Chủ nghĩa Việt Nam
khen thưởng đã thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; mẹ
ruột là N T T giấy chứng nhận tham gia dân công hỏa tuyến của Bộ tư lệnh Quân
khu 4. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản
6
1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Ngoài ra, bị cáo còn phải chịu tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự phạm tội hai lần trở lênquy định tại đim g khoản 1 Điều 52 BLHS.
Xphạt bị cáo 08 năm tù là phù hợp với hành vi, tính chất mức độ và hậu quả mà bị
cáo gây ra, loại tội phạm này đang ngày càng gia tăng trên địa bàn tỉnh Kon Tum
hiện nay.
Tuy nhiên xét thấy, tại Tòa án cấp phúc thẩm, bị cáo O cung cấp thêm tài liệu
mới gồm: Đơn xin giảm nhẹ hình phạt của bị hại N T B đề ngày 22/01/2024: nội
dung đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo đã bồi thường
khắc phục hậu quả cho bị hại số tiền 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng) và Văn bản
về việc kháng cáo đngày 26/01/2024. Đây tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự mới quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự chưa được áp
dụng cấp thẩm. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ chấp nhận phần kháng cáo
này của bị cáo, sửa một phần bản án thẩm.
Các phần khác của Bản án hình sự thẩm về trách nhiệm dân sự, về án phí
hình sự thẩm dân sự sơ thẩm không kháng cáo, kháng nghị hiệu lực pháp
luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên
bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ vào Điểm b khoản 1 Điều 355; Điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ
luật Tố tụng Hình sự năm 2015;
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo N N O.
Sửa một phần Bản án sơ thẩm số 11/2023/HSST ngày 12/12/2023 của Tòa án
nhân dân huyện I H, tỉnh Kon Tum như sau:
p dng: Đim a khoản 3 Điều 174; Điều 38; Điểm b, s khoản 1, khoản 2
Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: B cáo N N O phạm ti “Lừa đảo chiếm đot i sản”
Xử phạt: Bị cáo N N O 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn tính từ ngày bắt tạm
giam bị cáo 31/8/2023.
2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bcáo không phải chịu án phí hình s
phúc thẩm.
Các Quyết định khác của Bản án thẩm về trách nhiệm dân sự, về án phí
hình sự thẩm và dân sự thẩm các vấn đkhác không kháng cáo kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn khang cáo, kháng nghị.
7
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Tp.Đà Nẵng
- VKSND cấp cao tại Tp. Đà Nẵng
- VKSND tnh Kon Tum;
- TAND H. I H;
- VKSND H. I H;
- Cục THADS tỉnh Kon Tum;
-
Phòng CSHTTP và THAHSCA
H.I H
;
- Bị cáo;
- Sở pháp;
- Công an H. I H;
- u: h vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Văn Thuấn
Tải về
08_2024_HS-PT_ KOM TUM 08_2024_HS-PT_ KOM TUM

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

08_2024_HS-PT_ KOM TUM 08_2024_HS-PT_ KOM TUM

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất