Bản án số 64/2024/HS-ST ngày 06/09/2024 của TAND huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 64/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 64/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 64/2024/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 64/2024/HS-ST ngày 06/09/2024 của TAND huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình |
---|---|
Tội danh: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Kiến Xương (TAND tỉnh Thái Bình) |
Số hiệu: | 64/2024/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 06/09/2024 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | HS T + C + S |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN KIẾN XƯƠNG
TỈNH THÁI BÌNH
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 64/2024/HSST
Ngày: 06-9-2024
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Thanh Xuân.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Đức Bường và bà Đoàn Thị Duyên
- Thư ký phiên tòa: Bà Vũ Thị Khánh Ly - Thư ký Tòa án nhân dân
huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình
tham gia phiên tòa: Ông Phạm Quang Trung - Kiểm sát viên.
Ngày 06 tháng 9 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương
xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 66/2024/HSST ngày 09 tháng 8
năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2024/QĐXXST-HS ngày
26/8/2024 đối với:
1. Bị cáo Nguyễn Ngọc T sinh ngày 20/12/1995; giới tính: Nam; Nơi cư
trú: thôn Nam S, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân
tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự
do; Con ông Nguyễn Văn T và con bà Nguyễn Thị L; có vợ là chị Nguyễn Thị
Quỳnh H, có 01 con sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân:
- Tham gia nghĩa vụ quân sự từ tháng 02/2014 đến tháng 01/2016 tại
Trung đoàn 2, Sư đoàn 395 Bộ Quốc Phòng.
- Quyết định số 1335 ngày 05/10/2018 bị Chủ tịch UBND huyện Kiến
Xương xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.000.000đồng về hành vi Đánh bạc
2
Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 07/5/2024 đến ngày 16/5/2024 chuyển tạm
giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Kiến Xương;
có mặt.
2. Bị cáo Phạm Bá S sinh ngày 24/7/1999; giới tính: Nam; Nơi cư trú:
thôn Đ, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;
Tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con
ông Phạm Tự T và con bà Phạm Thị H; chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự:
Không;
Nhân thân:
- Bản án hình sự phúc thẩm số 04/2015/HSPT ngày 21/01/2015 của Tòa
án nhân dân tỉnh Thái Bình xử phạt 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án
treo, thời gian thử thách 05 năm kể từ ngày 21/5/2015 về tội “Cướp tài sản”,
chấp hành xong án phí hình sự và đã bồi thường xong cho gia đình bị hại; đã
được xóa án tích.
- Bản án hình sự phúc thẩm số 98/2016/HSPT ngày 25/11/2016 của Tòa
án nhân dân tỉnh Thái Bình xử phạt 06 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có”. Tổng hợp hình phạt của Bản án số 04/2015/HSPT ngày
21/01/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình, buộc bị cáo phải thi hành 03
năm tù kể từ ngày thi hành án (13/3/2017), chấp hành xong hình phạt tù ngày
13/5/2019, đã chấp hành xong trách nhiệm dân sự.
- Quyết định số 42B/QĐ-XPHC ngày 10/3/2021 của Công an thành phố
Thái Bình tỉnh Thái Bình xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2.500.000đồng về
hành vi gây thương tích cho người khác.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 07/5/2024 đến ngày 16/5/2024 chuyển tạm
giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình;
có mặt.
3. Bị cáo Phạm Công C sinh ngày 06/6/1996; giới tính: Nam; Nơi
ĐKHKTT: thôn P, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình; Nơi ở: thôn An Vinh, xã Vũ
An, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;
Tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con
ông Phạm Văn Q (đã chết) và con bà Nguyễn Thị H; chưa có vợ, con; Tiền án,
tiền sự: Không;
Nhân thân:
3
- Tham gia nghĩa vụ quân sự từ tháng 02 năm 2016 đến tháng 01/2018 tại
vùng 4, Hải Quân.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 07/5/2024 đến ngày 16/5/2024 chuyển tạm
giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Kiến Xương;
có mặt.
4 Người chứng kiến:
4.1. Ông Trần Thanh N, sinh năm 1973; vắng mặt;
4.2. Ông Trần Xuân T, sinh năm 1975, vắng mặt;
Đều cư trú tại: thôn A, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ ngày 06/5/2024, bị cáo T đến khu vực cầu Kìm xã Vũ Lạc
thành phố Thái Bình mua 02 gói ma túy loại Methamphetamine với giá
400.000đồng rồi mang về nhà cất giấu, mục đích để sử dụng. Đến khoảng 07 giờ
30 phút ngày 07/5/2024, bị cáo T đến nhà bị cáo C để cùng sử dụng ma túy
nhưng bị cáo C không có mặt ở nhà. Bị cáo T đứng đợi thì thấy bị cáo C và bị
cáo S (là bạn của bị cáo T và bị cáo C) đi ăn sáng về. Bị cáo C mở cửa cho ba
người vào phòng ngủ của bị cáo C để cùng sử dụng ma túy. Khi vào phòng ngủ
của bị cáo C, bị cáo T thấy ở gầm bàn cạnh giường ngủ có sẵn bộ dụng cụ sử
dụng ma túy nên cầm để lên trên bàn, đồng thời bị cáo T bỏ 02 gói ma túy mang
theo đặt ở trên bàn và nói “ đồ đây này”. Cả ba bị cáo hiểu ý là ma túy để cùng
nhau sử dụng. Bị cáo S lấy 01 gói ma túy cho một phần vào dụng cụ và dùng bật
lửa có sẵn tại mặt bàn để đốt nóng ma túy. Lần lượt bị cáo T, đến bị cáo S và
cuối cùng là bị cáo C thay nhau sử dụng ma túy, mỗi người sử dụng khoảng 2
đến 3 lượt thì bị Công an huyện Kiến Xương kiểm tra, bắt quả tang.
Kết luận giám định số 623/KL-KTHS ngày 13/5/2024 của Phòng kỹ thuật
hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu vật trong phong bì niêm phong
quản lý của Nguyễn Ngọc T gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có
khối lượng 0,1029 gam (số ma túy còn lại); quản lý của Phạm Công C gửi giám
định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,0241gam (chất trong
ống thủy tinh)
4
Kết luận giám định số 624/KL-KTHS ngày 13/5/2024 của Phòng kỹ thuật
hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: mẫu nước tiểu thu của Nguyễn Ngọc
T, Phạm Công C và Phạm Bá S gửi giám định đều tìm thấy ma túy và sản phẩm
chuyển hóa của ma túy loại Methamphetamine.
Phiếu kết quả xác định tình trạng nghiện ma túy của Bệnh viện tâm thần
tỉnh Thái Bình Sở y tế Thái Bình ngày 07/5/2024 xác định: Nguyễn Ngọc T,
Phạm Công C và Phạm Bá S không nghiện ma túy.
Cáo trạng số 68/CT-VKSKX ngày 08/8/2024, Viện kiểm sát nhân dân
huyện Kiến Xương truy tố các bị cáo Nguyễn Ngọc T, Phạm Công C và Phạm
Bá S về tội: "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi của
mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.
Tại phiên toà, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình
giữ nguyên truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Ngọc T, Phạm Công C và
Phạm Bá S phạm tội: "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy".
2. Về hình phạt:
2.1. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 17; Điều 38; Điều 50 và Điều 58 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T mức án từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm
06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/5/2024.
2.2. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 17; Điều 38; Điều 50 và Điều 58 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Phạm Công C mức án từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù,
thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/5/2024.
2.3. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17;
Điều 38; khoản 3 Điều 35; Điều 50 và Điều 58 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Phạm Bá S mức án từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm 06
tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/5/2024.
Các bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng
hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
5
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ
luật tố tụng hình sự, đề nghị: Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu của các bị cáo còn
lại sau giám định; 01 chai nhựa trong suốt có nắp màu đỏ và 01 chiếc bật lửa ga
màu trắng.
4.Về án phí: Áp dụng các Điều 21; 23 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Các
bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định.
Các bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến
Xương, tỉnh Thái Bình đã truy tố, không tranh luận gì.
Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của
mình, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan C sát điều tra Công an
huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình và của Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân
dân huyện Kiến xương, tỉnh Thái Bình và của Kiểm sát viên trong quá trình điều
tra, truy tố đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục, đúng thẩm quyền theo quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và
người chứng kiến không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định
tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là
đúng quy định của pháp luật.
[2] Tại phiên toà, các bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội
của mình như đã khai tại cơ quan điều tra. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù
hợp với nhau, chứng minh hành vi phạm tội của nhau. Lời khai nhận tội của bị cáo
phù hợp nội dung bản cáo trạng và được chứng minh bằng các chứng cứ sau
đây: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan C sát điều tra Công an
huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình lập hồi 09 giờ 15 phút ngày 07/5/2024 (bút
lục số 01 đến 06); Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ (bút lục số
09); Kết luận giám định số 623/KL- KTHS ngày 13/5/2024 và số 624/KL-
KTHS ngày 13/5/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình;
Phiếu trả lời kết quả về việc xác định tình trạng nghiện ma túy của Bệnh viện
tâm thần Sở y tế Thái Bình ngày 07/5/2024; Biên bản ghi lời khai của người
6
chứng kiến là anh Trần Thanh N và anh Trần Xuân T. Cùng các tài liệu, chứng
cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy lời khai của các bị cáo phù hợp với lời
khai của người chứng kiến, phù hợp với các chứng cứ khác về thời gian, địa
điểm, hành vi phạm tội.
[3] Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời
gian từ 08 giờ đến 08 giờ 45 phút ngày 07/5/2024, tại chỗ ở của bị cáo Phạm
Công C thuộc thôn An V, xã V huyện K tỉnh Thái Bình, bị cáo Nguyễn Ngọc T
cung cấp ma túy loại Methamphetamine, bị cáo Phạm Bá S chế ma túy vào dụng
cụ sử dụng và bị cáo Phạm Công C bố trí địa điểm tại nơi ở và dụng cụ để cùng
nhau sử dụng trái phép ma túy..Hành vi của các bị cáo Nguyễn Ngọc T, Phạm
Công C và Phạm Bá S đã phạm vào tội “ Tổ chức sử dụng trái phép chất ma
túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ
luật hình sự.
Điều 255: Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, quy định:
“1. Người nào tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức
nào, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
…
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07
năm đến 15 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
…
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến
500.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch
thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
[4] Mặc dù các bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy cũng như quy định
của pháp luật nghiêm cấm tổ chức và sử dụng trái phép chất ma túy nhưng các bị
cáo đã bất chấp pháp luật cố ý cung cấp ma túy, chuẩn bị địa điểm, dụng cụ và
chế biến ma túy để cùng nhau sử dụng trái phép chất ma túy. Hành vi phạm tội
của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của
Nhà nước đối với các chất gây nghiện, gây nguy hại lớn cho xã hội. Tội phạm mà
các bị cáo đã thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng. Bị cáo T đã từng bị xử phạt
vi phạm hành chính bằng tiền về hành vi đánh bạc, bị cáo Phạm Bá S đã 02 lần
bị xử phạt tù về hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác và bị xử phạt vi phạn
hành chính bằng tiền về hành vi gây thương tích cho người khác nhưng sau đó
các bị cáo không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi
phạm tội là thể hiện ý thức coi thường pháp luật của các bị cáo. Vì vậy, Hội
đồng xét xử xử phạt các bị cáo mức án tương xứng với hành vi, phù hợp với tính
chất, mức độ phạm tội của các bị cáo, cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi
đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục các bị
7
cáo và góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm trong xã hội. Cần phạt bổ sung
là phạt tiền đối với các bị cáo.
[5] Xét thấy, hành vi phạm tội của các bị cáo là đồng phạm giản đơn, cùng
rủ nhau tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Tuy nhiên tính chất, mức độ của
hành vi phạm tội và nhân thân các bị cáo khác nhau do đó cần đánh giá để cá thể
hóa trách nhiệm hình sự cho phù hợp với quy định của pháp luật. Xét vai trò của
các bị cáo trong vụ án thì bị cáo T là người cung cấp ma túy nên giữ vai trò thứ
nhất trong vụ án cần phải xử phạt nghiêm minh hơn so với các bị cáo khác. Bị cáo
C và bị cáo S giữa vai trò thứ hai sau bị cáo T. Vì vậy khi quyết định hình phạt
cần căn cứ vào vai trò, mức độ thực hiện hành vi phạm tội, nhân thân của từng bị
cáo để đưa ra mức hình phạt tương xứng thể hiện được việc cá thể hóa trách nhiệm
hình sự trong vụ án đồng phạm.
[6] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị
cáo thấy: Các bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào
theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt
cũng cần xét đến trong quá trình truy tố và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã
thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo T và bị cáo C có thời
gian tham gia nghĩa vụ quân sự -là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy
định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ
hình phạt cho các bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.
[7] Về nguồn gốc số ma tuý: Bị cáo T khai mua tại khu vực cầu Kìm xã Vũ
Lạc thành phố Thái Bình tỉnh Thái Bình, do không xác định được người bán ma
túy cho bị cáo T nên không có căn cứ xử lý.
[8] Về xử lý vật chứng:
[8.1]. Đối với 0,0548 gam Methamphetamine còn lại sau giám định quản
lý của Nguyễn Ngọc T và 0,0115 gam Methamphetamine còn lại sau giám định
quản lý của Phạm Công C là chất ma túy Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành
vì vậy cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật
hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
[8.2]. Đối với 01 chai nhựa trong suốt có nắp màu đỏ và 01 chiếc bật lửa ga
màu trắng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[9] Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[10] Các bị cáo có quyền kháng cáo ttrong thời hạn luật định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
8
1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Ngọc T, Phạm Công C và Phạm Bá S
phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
2. Hình phạt
2.1. Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2
Điều 51; Điều 17; Điều 38; khoản 3 Điều 35; Điều 50 và Điều 58 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T 07 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành
hình phạt tù tính từ ngày 07/5/2024. Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Ngọc T số tiền
10.000.000 đồng để nộp vào ngân sách nhà nước.
2.2. Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51;
Điều 17; Điều 38; khoản 3 Điều 35; Điều 50 và Điều 58 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Phạm Bá S 07 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình
phạt tù tính từ ngày 07/5/2024. Phạt bổ sung bị cáo Phạm Bá S số tiền 7.000.000
đồng để nộp vào ngân sách nhà nước.
2.3. Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2
Điều 51; Điều 17; Điều 38; khoản 3 Điều 35; Điều 50 và Điều 58 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Phạm Công C 07 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù
tính từ ngày 07/5/2024. Phạt bổ sung bị cáo Phạm Công C số tiền 7.000.000
đồng để nộp vào ngân sách nhà nước.
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm
a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
3.1. Tịch thu tiêu hủy 0,0548 gam Methamphetamine còn lại sau giám
định quản lý của Nguyễn Ngọc T và 0,0115 gam Methamphetamine còn lại sau
giám định quản lý của Phạm Công C trong 02 phong bì niêm phong số
623/KLGĐ-KTHS.
3.2. Tịch thu tiêu hủy 01 bật lửa ga màu trắng và 01 chai nhựa trong suốt
có nắp màu đỏ, trên nắp có 02 lỗ hình tròn đường kính 0,7mm, trong đó một lỗ
được gắn một ống nhựa màu vàng đường kính 0,7mm, dài 30cm.
(Vật chứng nêu trên Cơ quan điều tra đã chuyển sang Chi cục thi hành án
dân sự huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình ngày 09/8/2024).
4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21;
Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án:.
9
Các bị cáo Nguyễn Ngọc T, Phạm Công C và Phạm Bá S, mỗi bị cáo phải
nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7, 7a, 9
Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
điều 30 Luật thi hành án dân sự.
5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Nguyễn Ngọc T, Phạm Công C và
Phạm Bá S có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ
thẩm.
Nơi nhận:
- VKSND huyện Kiến Xương;
- VKSND tỉnh Thái Bình;
- Cơ quan Điều tra CA huyện Kiến
Xương;
- Cơ quan THAHS CA huyện Kiến
Xương;
- Bị cáo;
- Sở Tư pháp Thái Bình;
- Chi cục THADS huyện Kiến
Xương;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thị Thanh Xuân
10
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Các Hội thẩm nhân dân
Thẩm phán- Chủ toạ phiên toà
Lê Thị Thanh Xuân
Tải về
Bản án số 64/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 64/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 14/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Bản án số 175/2024/HNGĐ-PT ngày 12/12/2024 của TAND TP. Hà Nội về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm