Bản án số 109/2023/HS-ST ngày 26/12/2023 của TAND Quận 3, TP. Hồ Chí Minh về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 109/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 109/2023/HS-ST ngày 26/12/2023 của TAND Quận 3, TP. Hồ Chí Minh về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tội danh: 139.Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Quận 3 (TAND TP. Hồ Chí Minh)
Số hiệu: 109/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/12/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Trần Nhật V - Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 3 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
__________________ _____________________________________
Bản án: 109/2023/HS-ST
Ngày: 26/12/2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 3 TP. HỒ CHÍ MINH
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
- Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Lê Huệ Chi.
- Các Hội thẩm nhân dân:
1/ Ông Hoàng Văn Định
2/Nguyễn Thị Xuyến
- Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Phan Thị Dung - Cán bộ Tòa
án nhân dân Quận 3 TP. Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận 3 TP. Hồ Chí Minh tham gia
phiên tòa: Ông Lê Quốc Vương - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 3 Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử thẩm công khai vụ án hình sự th số
116/2023/TLST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử số 111/2023/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2023 Quyết định
hoãn phiên tòa số 457/2023/HSST-ngày 22 tháng 12 năm 2023 đối với bị
cáo:
Trần Nhật V, sinh năm 1991; tại TP. Hồ Chí Minh; nơi thường trú: số
137/12 đường S, Phường B, quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh; chỗ ở: số 94
đường C, phường A, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ
văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt
Nam; con ông Trần Kim N (chết) Nguyễn Thị Thu H; chồng Nguyễn
Thanh T con Quỳnh T1; tiền án: ngày 16/11/2022, bị Tòa án nhân dân
huyện Đ, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
(Bản án số 125/2022/HSST)”; tiền sự: không, bị tạm giam từ ngày 10/02/2022;
bị cáo có mặt.
- Bị hại:
1. Cửa hàng TNHH MTV Thương mại P (Vắng mặt)
Địa chỉ: số 6-8-10 đường H, Phường M, Qun 10, TP. Hồ Chí Minh
2. Công ty Cổ phần D
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Chu Thị H1 (Có đơn xin vắng mặt)
2
Trụ sở: Tòa nhà M đường D, phường T, TP. Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh
3. Ông Trương Công T2, sinh 1982 (Có đơn xin vắng mặt)
Địa chỉ: số 382/2 đường S, Phường H, Quận 10, TP. Hồ Chí Minh
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu trong hồ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng đầu năm 2019, Trần Nht V có tng cho anh Mạc Văn N1 sim s
đin thoi 0839339xxx để s dng, s đin thoi này V mua ca Đỗ Văn C là
bn ngoài xã hội (chưa rõ lai lịch). Đến ngày 27/02/2021, V đin thoi hn Công
đến ca hàng Vinafone trên đường L để làm th tc sang tên s đin thoi này
cho V s dng. Đến khoảng 16 giờ ngày 27/02/2021, V gặp Nguyễn Văn H2
(chưa rõ lai lịch) tại địa chỉ số 94 đường C, phường A, Quận 3 và H2 có hỏi V về
tin tức của anh N1. Do V không liên lạc được với anh N1n V ly sim điện thoi
0839339839 gắn vào máy điện thoại của V xem thông tin v anh N1 hay
không. Sau khi kích hoạt sim số điện thoi 0839339839 thì V vào ứng dụng Zalo
để đăng ly lại mật khẩu sử dụng tài khoản Zalo của anh N tên E”, sau đó
V khôi phục lại toàn b ni dung tin nhắn của anh N trước đó thì thy tài khon
Zalo tên “Hang M” nhắn tin thường xuyên với anh N v vic mua bán điện
thoại chuyển khoản trả tiền sau. c này, V ny sinh ý định chiếm đoạt điện
thoại bán ly tiền nên sử dụng i khon Zalo E, mạo danh là anh N1 nhn tin
vi tài khoản Zalo “Hang Mca ch Th Hng S (nhân viên ca ca hàng
đin thoi P s 6-8-10 đường H, Phường M, Qun 10) đặt mua 01 đin thoi
Iphone 12 Pro max 256 GB vi giá 31.500.000 đồng. V hn ch S giao điện thoi
cho V tại chung H, Phường I, Quận 10 rồi sau đó li kêu giao tại trước Ngân
hàng Nam Á s 201 203 C, Phường B, Qun 3. Do tin tưởng anh N1 đặt
mua điện thoi nên ch S đồng ý bán hàng và cho trả tin sau. Để tạo thêm tin
tưởng đối với cửa hàng, V đưa máy gắn sim số 0839339839 cho H2 giảanh N1
để xác nhận với cửa hàng đặt mua điện thoại thì cửa hàng mới đồng ý giao.
Đến khong 17 gi cùng ngày, anh Nguyn Hoàng T3 là nhân viên ca ca
hàng đin thoi P đến trước số 201 203 đường C giao đin thoi Iphone 12 Pro
max cho V. Sau khi nhận được điện thoi thì V cùng H2 đem đến quán phê
SNOB s 185 đường K, phường P, Quận 1 gặp Hải T4. Tại đây, V giới thiệu
H2 người cần bán điện thoại vi giá 29.500.000 đồng, không nói nguồn gốc
chiếc điện thoại thì được T4 đồng ý mua. T4 đưa cho V 5.000.000 đồng để trả
cho H2 trước tại quán và nói sau khi kiểm tra y xong sẽ chuyển khoản trả V
số tiền còn lại 24.500.000 đồng. Sau khi V và H2 về thì T4 chuyển vào tài
khoản của V 17.500.000 đồng nhắn tin cho V nói trừ 7.000.000 đồng V thiếu
3
T4 trước đó. Số tiền 17.500.000 đồng có được từ việc bán điện thoại V ly trả nợ
cho H2. Cùng ngày, T4 đem bán chiếc điện thoại Iphone 12 Pro max cho người
không rõ lai lịch tại quán với giá 31.500.000 đồng, không thu hồi được.
Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 29/9/2021, Trần Nhật V nhờ Nguyễn Thanh
T (chồng V) chđến cửa hàng X, địa chỉ số 3 đường G, Phường E, Quận 10, V
nói T đứng bên ngoài còn V đi vào cửa hàng gặp nhân viên xưng tên Nguyễn
Thị Thanh T5 rồi giả vhỏi mua 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro max,
màu xanh 128Gb với giá 22.990.000 đồng. Sau khi thỏa thuận với nhân viên bán
hàng xong, V yêu cầu giao điện thoại đến 201-203 đường C, Phường B, Quận 3
cho số điện thoại liên lạc 0904625xxx. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng
ngày, nhân viên cửa hàng X là anh Nguyễn Văn P1 đem chiếc điện thoại Iphone
12 màu xanh 128Gb đến trước số 201-203 đường C, Phường B, Quận 3. Khi gặp
anh P1 thì V yêu cầu thanh toán bằng hình thức thẻ nhưng không thực hiện
được, xong V nói sẽ chuyển khoản, anh P1 đưa cho V số tài khoản của ngân
hàng Vietcombank tên Huy H3. V dùng điện thoại đăng nhập tài khoản ngân
ng Á Châu số tài khoản 358882xxx lập lệnh chuyển khoản chuyển tiền vào số
tài khoản anh P1 cung cp số tiền 23.000.000 đồng rồi chụp lại màn hình đưa
cho anh P1 xem xác nhận đã chuyển khoản. Lúc này, anh P1 tin tưởng nên
giao điện thoại cho V nhưng V đã hủy bỏ lệnh chuyển tiền không chuyển
tiền cho anh P1, chiếm đoạt chiếc điện thoại bán cho đối tượng ngoài xã hội
(không rõ lai lịch) ly tiền tiêu xài hết.
Khoảng 18 gingày 16/10/2021, Trần Nhật V nhờ Nguyễn Thanh T chở
đến nhà anh Trương Công T2 tại số 382/2 đường S, Phường H, Quận 10 hỏi mua
chiếc xe máy Click, biển số 59Zl-47xxx (số máy KF35E1017516, số khung
3507L5117516) do anh T2 đứng tên trên hợp đồng ủy quyền lần 2, với giá
77.000.000 đồng. Đến 19 giờ 55 phút cùng ngày, V gọi điện cho anh T2 bằng số
điện thoại là 0904625xxx rồi yêu cầu anh T2 cung cp hình ảnh giy chứng nhận
đăng ký xe hợp đồng ủy quyền của xe máy qua một tài khoản zalo số
0938031xxx mang tên “M” để V nhờ người quen xem trước thể giy
mua bán được hay không rồi hn ngày hôm sau sẽ ly xe và trả tiền. Đến khoảng
12 giờ ngày 17/10/2021, V nhắn tin qua tài khoản Zalo yêu cầu anh T2 giao xe
qua tận nhà theo địa chỉ số 94 đường C, phường A, Quận 3. Anh T2 và vợ là Lục
Thị H4 chạy xe qua giao cho V, anh T2 đồng ý thoả thuận bán xe thanh toán
trước số tiền 67.000.000 đồng, V nợ lại 10.000.000 đồng hn hôm sau sẽ
thanh toán đủ sau khi làm hợp đồng mua bán xe tại phòng công chứng. Lúc này,
V dùng số tài khoản 010309xxx thuộc Ngân hàng Quốc tế VIB để thực hiện
chuyển khoản số tiền 67.000.000 đồng qua số tài khoản 0461000424xxx thuộc
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam do vợ anh T2 làm chủ
tài khoản. V chụp màn hình khi tiến hành chuyển khoản và gửi qua tin nhắn Zalo
để làm tin và xác nhận rằng V đã chuyển khoản thành công. V nói với anh T2 do
4
thực hiện việc chuyển khoản vào ngày chủ nhật nên tiền chưa qua được, anh T2
tin tưởng chờ đợi ngày thứ hai tiền sẽ vào tài khoản nên vợ chồng anh T2 để
xe lại đi về. Trong thời gian từ 17 giờ ngày 18/10/2021 đến ngày 03/12/2021,
anh T2 liên tục kiểm tra thông tin trên tài khoản nhưng không thy tiền đâu, biết
bị lừa đảo anh T2 trình báo quan công an, còn V bỏ trốn về huyện Q, tỉnh
Đồng Nai ở, chiếc xe máy của anh T2 thì V bỏ lại nhà T sdụng như thế nào V
không rõ.
Quá trình điều tra, Trần Nhật V đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi
phạm tội như trên, phù hợp với toàn bộ tài liệu, chứng cứ được thu thập trong hồ
vụ án. Đối với việc V lừa đảo chiếm đoạt tài sản những bị hại thì T không
biết, V chỉ nhờ T chở đến địa điểm cho V giao dịch.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 29/KL-HĐĐGTS ngày 16/3/2021 của
Hội đồng định giá tài sản trong Ttụng hình sự Quận 3, xác định: Chiếc điện
thoại Iphone 12 Pro max, dung lượng 256 GB, màu xanh vào thời điểm tháng
02/2021 trị giá 31.830.000 đng (Bút lục 34, 35).
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 92/KL-HĐĐGTS ngày 12/10/2021,
xác định: 01 chiếc điện thoại Iphone 12 màu xanh 128Gb, vào thời điểm tháng
09/2021 trị giá 20.826.000 đng (bút lục 213, 214).
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 32/KL-HĐĐGTS ngày 04/4/2022, xác
định: 01 chiếc xe máy hiệu Click, biển số 59Z1-47526, vào thời điểm tháng
10/2021, trị giá 57.667.000 đồng (bút lục 334, 335).
Vật chứng của vụ án:
- 01 (một) điện thoại Iphone 12 Pro max, dung lượng 128Gb, màu xanh,
01 xe máy Click biển số 59Z1-47526, Cơ quan điều tra không thu hồi được.
- 01 (một) điện thoại di động Itel, màu đen, số Imel 1: 353510102393924;
số Imel 2: 353510102393932; 01 (một) điện thoại di động Iphone 6S, màu xám,
dung lượng 64GB, số Imel 1: 353343078504864, số Imel 2: 35334307850486;
01 (một) điện thoại di động Nokia 215, màu đen, số Imel 1: 353159111151285,
số Imel 2: 353159111603582, đã nhập kho vật chứng.
Trách nhiệm dân sự: Ngày 03/3/2021, chị Thị Hồng S (đại diện cửa
hàng P) đã nhận số tiền 31.500.000 đồng do bị can V bồi thường không yêu cầu
thêm. Anh Lâm Quốc T6 (đại diện cửa hàng X, đa chỉ số 03 đường G, Phường
E, Quận 10) yêu cầu bị can bồi thường 23.000.000 đồng. Ông Trương Công T5 yêu
cầu bị can bồi thường 77.000.000 đồng.
5
Tại bản cáo trạng số 14/CT-VKS-HS ngày 19/01/2023 Viện kiểm sát nhân
dân Quận 3 đã truy tố bị cáo Trn Nht V về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
theo điểm c khoản 2 Điều 174 B luật Hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay:
- Bcáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung o trạng đã nêu. Lời
nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nh hình phạt.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân n Quận 3 giữ quyền công tố luận tội và
tranh luận như sau: Tại cơ quan điều tra tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa
nhận hành vi phạm tội như trên.
Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo đề nghị Hội
đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b,
s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo t 03 (ba) năm đến 03
(ba) năm 06 (sáu) tháng tù.
Xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.
- Bị hại Công ty Cổ phần D: Yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 23.000.000
đồng và ngoài ra không yêu cầu gì thêm.
- Bị hại ông Trương ng T2: Yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền
77.000.000 đồng và ngoài ra không yêu cầu gì thêm
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hvụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an
Quận 3, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3, Kiểm sát viên trong quá
trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra tại phiên tòa, bị cáo không
ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại quan điều tra cũng như tại
phiên tòa, lời khai c bị hại, nhân chứng các tài liệu chứng cứ khác trong
hồ vụ án, Hội đồng xét xử đã đầy đủ sở kết luận bị cáo V thực hiện 03
hành vi phạm tội như sau:
Từ thời gian ngày 27/02/2021, 29/9/2021 ngày 16/10/2021, bị cáo Trần
Nhật V đã dùng các thủ đoạn gian dối với mục đích tạo sự tin tưởng cho các bị
hại và thực hiện 03 lần với hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản như sau:
- Ngày 27/02/2021, V bằng thđoạn gian dối sử dụng i khoản giả trên
điện thoại tạo sự tin tưởng đchiếm đoạt 01 điện thoại Iphone 12 Pro max, dung
lượng 256Gb g trị 31.830.000 đồng của Cửa hàng TNHH MTV Thương mại
6
P (Theo Kết luận định giá tài sản s29/KL-HĐĐGTS ngày 16/3/2021 của Hội
đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 3).
- Ngày 29/9/2021, bằng thủ đoạn gian dối chuyển khoản giả trên điện
thoại tạo sự tin tưởng đchiếm đoạt 01 chiếc điện thoại Iphone 12, dung lượng
128Gb giá tr20.826.000 đồng của Cửa hàng X chuỗi cửa hàng Công ty
Cổ phần D (Theo Kết luận định giá tài sản số 92/KL-HĐĐGTS ngày 12/10/2021
của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 3).
- Ngày 17/10/2021, bằng thủ đoạn gian dối chuyển khoản giả trên điện
thoại tạo sự tin tưởng để chiếm đoạt 01 chiếc xe máy Click, biển số 59Zl-47xxx
của ông Trương Công T2 giá trị 57.667.000 đồng (Theo Kết luận định giá tài
sản số 32/KL-HĐĐGTS ngày 04/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố
tụng hình sự Quận 3).
Tổng trị gtài sản bị cáo V chiếm đoạt của 03 bhại 110.323.000 đồng
hành vi của bị cáo phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định
tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự.
[3] Xét hành vi trên đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp
pháp của người khác, xâm phạm trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xu đến trật tự
trị an hội nên cần xnghiêm theo pháp luật và để phòng ngừa chung cho
hội thy cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi hội một thời gian mới đủ tác dụng
răn đe, giáo dc để bị cáo trở thành công dân tốt sau này
[4] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội 02 lần trở lên nên bị áp dụng tình
tiết quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[5] Tình tiết giảm nh: Tại cơ quan điều tra tại phiên a hôm nay bị cáo
đã thành khẩn khai o, ăn n hối cải; bị o đã bồi thường thiệt hại cho bị hại
Cửa hàng TNHH MTV Thương mại P, nên căn cứ điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ
luật Hình sự giảm nh một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
[6] Xét tại bản án số 125/2022/HSST ngày 16/11/2022, Tòa án nhân dân
huyện Đ, tỉnh Đồng Nai đã xử phạt bị cáo V 02 năm về tội “Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản. vậy, cần phải tổng hợp hình phạt chung cho hai bản án theo
Điều 56 Bộ luật Hình sự.
[7] Vật chứng vụ án: Đối với 01 (một) điện thoại di động Itel, màu đen; 01
(một) điện thoại di động Iphone 6S, màu xám; 01 (một) điện thoại di động Nokia
215, màu đen của bị cáo V. Các điện thoại trên công cụ, phương tiện phạm tội
nên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.
[8] Trách nhiệm dân sự:
- Cửa hàng TNHH MTV Thương mại P đã nhận số tiền 31.500.000 đồng
do bị cáo bồi thường và không yêu cầu gì thêm, nên không xét.
7
- ng ty Cphần D yêu cầu bồi thường số tiền 23.000.000 đng ông
Trương Công T2 yêu cầu bồi thường số tiền 77.000.000 đồng do không thu hồi
được tài sản bị mt. Tại phiên tòa, bị cáo đồng ý bồi thường như yêu cầu của 02 bị
hại, nên ghi nhận sự tự nguyện bồi thường của bị cáo.
[9] Đối với đối tượng tên H2, do chưa xác định được lai lịch nên quan
điều tra tiếp tục truy xét xử lý sau.
Đối với đối tượng tên Hải T4 khi mua chiếc điện thoại Iphone 12 Pro
max từ bị cáo V, do không biết đây là tài sản do phạm ti mà có nên không phạm
tội.
Đối với Nguyễn Thanh T, trong quá trình xét xử Tòa án nhân dân Quận 3
đã ra Quyết định trả điều tra bổ sung số 15/2023/HSST- ngày 14/8/2023
nhằm làm vai trò của T trong vụ án để xử theo quy định. Sau đó, theo Biên
bản xác minh nơi trú ngày 24/10/2023 thì T không mặt tại địa phương, đi
đâu không rõ. Ngày 31/10/2023, quan Cảnh sát điều tra - Công an Quận 3 đã
ra Quyết định truy tìm người số 70/QĐ-TT-CSHS cùng với Quyết định tách
hành vi tài liệu liên quan trong v án hình sự số 02/-CQCSĐT-CSHS đối
với đối tượng Nguyễn Thanh T; đối với chiếc xe máy hiệu Click, biển số 59Zl-
47xxx, quan Cảnh sát điều tra - Công an Quận 3 đã ra thông báo truy tìm vật
chứng vụ án, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s
khoản 1 Điều 51; Điều 56 Bộ luật Hình sự;
Tuyên bố bị cáo Trần Nhật V đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Xử phạt: Bị cáo Trần Nhật V 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.
Căn cứ Điều 56 Bộ luật Hình s.
Tổng hợp hình phạt bản án này với hình phạt 02 năm tù của bản án số
125/2022/HSST ngày 16/11/2022 Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đồng Nai về
tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Buộc bị cáo phải chp hành hình phạt tù chung
cho cả hai bản án là 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù.
Thời hạn tính từ ngày 10/02/2022, được khu trừ thời gian tạm gitừ
ngày 04/3/2021 đến ngày 13/3/2021.
Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự và Điều 589 Bộ luật Dân sự.
Buộc bo bi thường cho Công ty Cổ phần D số tiền 23.000.000 đồng
bồi thường cho ông Trương Công T5 số tiền 77.000.000 đồng.
Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự;
8
Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động Itel, màu
đen, số Imel 1: 353510102393924; số Imel 2: 353510102393932; 01 (một) điện
thoại di động Iphone 6S, màu xám, dung lượng 64GB, số Imel 1:
353343078504864, số Imel 2: 35334307850486; 01 (một) điện thoại di động
Nokia 215, màu đen, số Imel 1: 353159111151285, số Imel 2:
353159111603582. Tt cả đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng máy móc
bên trong.
(Tang vật tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước được ghi trong Quyết định
chuyển vật chứng số 696/QĐ-VKS-HS ngày 15/7/2021 của Viện kiểm sát nhân
dân Quận 3).
Áp dụng các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí lệ phí
năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Buộc bị cáo chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án phí dân sự sơ thẩm bị cáo phải chịu là 5.000.000 đồng.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi sut quy định tại Điều 357, Điều 468
Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Áp dụng các Điều 331, 333, 336 và Điều 337 Bộ luật Tố tụng Hình sự;
Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh trong
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các bị hại được quyền kháng cáo lên Tòa án
nhân dân TP. Hồ Chí Minh trong hạn 15 ngày kể tngày được tống đạt bản án,
hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Nơi nhận:
- TAND TP. HCM;
- VKSND TP. HCM;
- VKSND Quận 3;
- Công an Quận 3;
- Nhà tạm giữ CAQ.3;
- Sở Tư pháp;
- Chi cục Thi hành án dân sự Q.3;
- UBND P.13, Q.Phú Nhuận, TP. HCM;
- Đương sự;
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
9
- Lưu VP, Hồ sơ.
Lê Huệ Chi
Tải về
Bản án số 109/2023/HS-ST Bản án số 109/2023/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất