Bản án số 25/2024/HS-ST ngày 30/01/2024 của TAND Q. Cầu Giấy, TP. Hà Nội về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 25/2024/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 25/2024/HS-ST ngày 30/01/2024 của TAND Q. Cầu Giấy, TP. Hà Nội về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tội danh: 139.Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Q. Cầu Giấy (TAND TP. Hà Nội)
Số hiệu: 25/2024/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/01/2024
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Bị cáo Đỗ Văn S1 phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
QUẬN CẦU GIẤY
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Bản án số: 25/2024/HS-ST
Ngày: 30/01/2024
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY THÀNH PHỐ HÀ NỘI
- Thành phn Hội đồng xét x sơ thm gm có:
Thẩm phán – Chủ toạ phiên toà: Bà Hoàng Lan Chi
Các hội thẩm nhân dân: Ông Lưu Văn Thiệm
Ông Hoàng Văn Hạnh
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thanh Thư ký Toà án nhân dân quận
Cầu Giấy
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy tham gia phiên tòa: Ông
Đinh Như Quỳnh Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành
phố Nội xét xử thẩm công khai vụ án hình sự thụ số 13/2024/TLST-HS
ngày 11 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
14/2024/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:
ĐỖ VĂN S1 Sinh năm: 2002; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Địa
ch thường trú cư trú: Thôn V, xã V, huyn V, tnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lao
động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo:
không; Họ tên bố: Đỗ Văn G; Họ tên mẹ: Bùi Thị V; D chỉ bản số 702 lập ngày
27/11/2023 tại Công an quận C, thành phố Hà Nội; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt
tạm giam ngày 28/11/2023. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 – Công an
thành phố H. (Có mặt tại phiên toà). Người bị hại: Anh Nguyễn Quang D1 Sinh
năm: 2001; Địa ch thưng trú: M, M, Nam Đnh; Nơi hin ti: S I Ngõ B đường
H, phường M, qun C, thành ph Hà Ni. (Có mặt tại phiên toà).
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Anh Đỗ Đức N Sinh năm 2002; Nơi thường trú: Thôn V, xã V, huyn V,
tnh Thái Bình; Nơi hiện tại: Phòng 1606, DN5, KTX M, M, quận N, thành phố
Hà Nội. (Vắng mặt tại phiên toà).
2
- Chị Trần Thị Kim H Sinh năm 2002; Nơi thường trú: Bản Lào, T, huyện
T, tỉnh Sơn La; Nơi ở hiện tại: Số H ngõ G đường C, C, quận B, thành phố Hà Nội.
(Có mặt tại phiên toà).
- Anh Nguyễn Hồng S Sinh năm 2001; Nơi thường trú: 180 Đ, Q, thành phố
H, tỉnh Hải Dương; Nơi hiện tại: Số C ngách C ngõ B P, quận N, thành phố
Nội. (Vắng mặt tại phiên toà).
- Chị Bàn Thị D2 Sinh năm 1997; Địa chỉ thường trú trú: Tổ A phường
L, quận L, thành phố Hà Nội. (Vắng mặt tại phiên toà).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu trong hồ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án
được tóm tắt như sau:
Khoảng đầu tháng 11/2022, Đỗ Văn S1 thuê phòng trọ cùng anh Nguyễn
Quang D1 (Sinh năm 2001; HKTT: xã M, huyện M, tỉnh Nam Định) tại địa chỉ nhà
số C, Ngách C, ngõ E P, M, Cầu G, Hà Nội. Ngày 29/11/2022, anh D1 gọi điện cho
S1 nhờ tìm chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu HP Pavilion 15 bị mất. Do lúc này
đang cần tiền chi tiêu nên S1 nảy sinh ý định bảo anh D1 đưa tiền cho S1 nhờ người
để tìm máy tính. S1 nói dối với anh D1 mình có mối quan hệ với Công an có thể tìm
lại máy tính trong thời hạn 10 ngày nhưng phải mất chi phí 5.000.000 đồng, anh D1
đồng ý với số tiền trên. Ngày 30/11/2022, anh D1 đã chuyển khoản cho S1 số tiền
5.000.0000 đồng (chuyển 1.500.000 đồng tài khoản momo số 0333009940 mang n
Đỗ Đức N 3.500.000 đồng vào tài khoản ngân hàng M 8130102082002 mang tên
Trần Thị Kim H - Các số tài khoản trên do S1 cung cấp).
Ngày 16/12/2022, Đỗ Văn S1 nói với anh D1 công an đã khoanh vùng được
chiếc máy tính bị mất nhưng người mua lại chiếc máy tính yêu cầu số tiền 8.500.000
đồng để chuộc lại, anh D1 nói không còn tiền, thì S1 nói sẽ nhờ người nhà mình sẽ
chuyển giúp số tiền 5.500.000 đồng, còn lại anh D1 chuyển cho S1 3.000.000 đồng,
nhưng anh D1 vẫn không có tiền để chuyển cho S1. Lúc này S1 nhớ còn nợ anh D1
5.500.000 đồng nên đã đề nghị anh D1 trừ hết số tiền nợ trên cho mình và được anh
D1 đồng ý. Sau đó, S1 lấy lý do anh D1 không cung cấp được giấy tờ mua bán máy
tính và căn cước công dân nên anh D1 đưa cho S1 500.000 đồng để S1 xin xác nhận
mất căn cước công dân làm thủ tục nhận lại tài sản. Ngày 24/01/2023, S1 tiếp tục
nói với anh D1 người mua lại chiếc máy tính yêu cầu phải chuyển ngay 2.000.000
đồng nếu không sẽ bán chiếc máy tính cho người khác. Do lo sợ chiếc máy tính nếu
bị bán sẽ không tìm được lại được nên anh D1 đã chuyển khoản số tiền 2.000.000
đồng cho S1 (chuyển vào tài khoản ngân hàng M số 0963910867 mang tên Ban T -
là số tài khoản do S1 cung cấp), chị D2 sau đó chuyển lại stiền trên, S1 đã chi tiêu
cá nhân hết. Ngày 24/4/2023, anh Nguyễn Quang D1 đếnquan Công an quận C,
Hà Nội tố giác đối với Đỗ Văn S1 về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
3
Tại quan điều tra, ĐVăn S1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của
mình, lời khai của Đỗ Văn S1 phù hợp với lời khai của người bị hại là anh Nguyễn
Quang D1, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là chị
Trần Thị Kim H, anh Đỗ Đức N, anh Nguyễn Hồng S, chị Bàn Thị D2, cùng các tài
liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.
Đối với anh Đỗ Đức N, chị Trần Thị Kim H, chị Bàn Thị D2 là những người
được Đỗ Văn S1 nhờ nhận hộ tiền do anh Nguyễn Quang D1 chuyển khoản và đều
đã chuyển lại cho S1. Anh N, anh Nguyễn Hồng S, chị H chị D2 đều không biết
là tiền S lừa đảo chiếm đoạt của anh D1 nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
Người bị hại, anh Nguyễn Quang D1 đã được S bồi thường số tiền 3.000.000
đồng, anh D1 yêu cầu S tiếp tục bồi thường số tiền 10.000.000 đồng còn lại cho anh
D1.
Tại Bản cáo trạng số 12/CT-VKSCG ngày 10/01/2024, Viện kiểm sát nhân
dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội đã truy tố Đỗ Văn S1 về tội “Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà:
Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như trong quá trình điều tra nội dung
bản Cáo trạng đã nêu. Bị cáo thừa nhận trong khoảng từ ngày 30/11/2022 đến ngày
24/01/2023, bị cáo đã lợi dụng việc anh Nguyễn Quang D1 nhờ tìm lại chiếc máy
tính bị mất, bị cáo đã nói dối và đưa ra nhiều thông tin không thật về việc có quen
biết quan công an để tìm lại chiếc máy tính để anh D1 tin ởng đưa tiền nhiều
lần cho bị cáo với tổng số tiền 13.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền chiếm đoạt, bị cáo
đã tiêu sài nhân hết, sau đó bị cáo đã khắc phục hậu quả 1 phần, đã bồi thường
cho anh D1 được số tiền 3.000.000 đồng. Anh Dũng yêu cầu bị cáo tiếp tục bồi
thường số tiền 10.000.000 đồng còn lại cho anh D1, bị cáo không có ý kiến gì.
Người bị hại, anh Nguyễn Quang D1 giữ nguyên các ý kiến đã trình bày trong
quá trình điều tra, xác định do tin tưởng bị cáo nên anh D1 đã đưa tiền nhiều lần cho
bị cáo với tổng số tiền 13.000.000 đồng, bcáo đã bồi thường cho anh D1 được
số tiền 3.000.000 đồng, yêu cầu bị cáo tiếp tục bồi thường số tiền 10.000.000 đồng
còn lại cho anh D1.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan, chị Trần Thị Kim H ginguyên
các ý kiến đã trình bày trong quá trình điều tra, xác định có việc Đỗ Văn S1 nhờ chị
H nhận hộ tiền qua tài khoản ngân hàng do người khác chuyển khoản chị H đã
chuyển lại tiền cho S1, chị H không biết nguồn gốc số tiền đó tiền S1 lừa đảo
chiếm đoạt của anh D1.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận Cầu Giấy giữ quan điểm truy tvới
Đỗ Văn S1 như tội danh điều luật đã viện dẫn tại bản Cáo trạng. Sau khi phân
tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét
nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng, đã đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ
4
khoản 1 Điều 174; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ
luật hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 12 đến 16 tháng tù; Không áp dụng hình phạt
bổ sung bằng tiền đối với bị cáo. Về dân sự: Bị cáo đã khắc phục hậu quả 1 phần, đã
bồi thường cho người bị hại được số tiền 3.000.000 đồng, người bị hại yêu cầu bị
cáo tiếp tục bồi thường số tiền 10.000.000 đồng còn lại là căn cứ nên đề nghị Hội
đồng xét xử chấp nhận, buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường số tiền 10.000.000 đồng
còn lại cho người bị hại. Bị cáo phải chịu án phình sự sơ thẩm án phí n s
về bồi thường dân sự theo quy định của pháp luật.
Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận C, Điều
tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, Kiểm sát viên trong quá trình điều
tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự. Quá trình điều tra tại phiên tòa, bị cáo không ý kiến hoặc khiếu
nại về hành vi, quyết định của quan tiến hành tố tụng, người tiến nh tố tụng.
Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai
của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, của người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan, được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ
trong hồ vụ án, Hội đồng xét xử đủ sở kết luận: Trong khoảng tngày
30/11/2022 đến ngày 24/01/2023, bị cáo đã lợi dụng việc anh Nguyễn Quang D1
nhờ tìm lại chiếc máy tính bị mất, bị cáo đã nói dối và đưa ra nhiều thông thông tin
không có thật về việc có quen biết cơ quan công an để tìm lại chiếc máy tính để anh
D1 tin tưởng đưa tiền nhiều lần cho bị cáo với tổng số tiền 13.000.000 đồng. Bị cáo
đã có hành vi, thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của người bị hại. Toàn bộ
số tiền chiếm đoạt, bị cáo đã tiêu sài nhân hết, sau đó bcáo đã khắc phục hậu qu
1 phần, đã bồi thường cho anh D1 được số tiền 3.000.000 đồng. Bị cáo là người có
năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người
khác bị pháp luật cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo Đỗ Văn
S1 đã đủ yếu tcấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội danh và hình phạt được
quy định tại khoản 1 điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Viện kiểm t nhân dân quận Cầu Giấy truy tố bị o về tội danh điều luật nêu
trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo
nguy hiểm cho hội, vi phạm luật hình sự, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu
5
tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo đã
hành vi, thủ đoạn gian dối làm cho người bị hại tin tưởng giao tài sản nhiều lần
cho bị cáo với tổng số tiền 13.000.000 đồng, nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của
người bị hại. Hành vi của bị cáo nghiêm trọng, bcáo nhận thức hành vi của
mình bị pháp luật cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện, tổng giá trị tài sản bị o chiếm
đoạt tương đối lớn chưa khắc phục được hết hậu quả. Do đó cần áp dụng mức
hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời
sống xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo giáo dục đối với bị cáo và phòng
ngừa tội phạm chung, bảo đảm trật tự kỷ cươnghội.
[4] Về nhân thân của bị cáo: Không có tiền án, tiền sự.
[5] Vtình tiết giảm nhẹ: Khi áp dụng hình phạt, Hội đồng xét xử đã xem xét,
tại cơ quan điều tra tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn n hối cải về
hành vi phạm tội của mình, bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, phạm
tội lần đầu; Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ một phần trách nhiệm
hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[6] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội nhiều lần do vậy bị áp dụng tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình
sự.
[7] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không nghề nghiệp và nguồn thu nhập
ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.
[8] Về xử lý vật chứng: Không.
[9] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, anh Nguyễn Quang D1 đã được b
cáo Đỗ Văn S1 bồi thường số tiền 3.000.000 đồng, anh D1 yêu cầu S1 tiếp tục bồi
thường số tiền 10.000.000 đồng còn lại cho anh D1, yêu cầu này n cứ nên
chấp nhận, buộc bị cáo ĐVăn S1 phải bồi thường số tiền 10.000.000 đồng cho anh
Nguyễn Quang D1.
[10] Đối với anh ĐĐức N, chị Trần Thị Kim H, chị n Thị D2 những
người được ĐVăn S1 nhờ nhận hộ tiền do anh Nguyễn Quang D1 chuyển khoản
đều đã chuyển lại cho S1. Anh N, anh Nguyễn Hồng S, chH chị D2 đều không
biết là tiền S lừa đảo chiếm đoạt của anh D1 nên quan điều tra không đề cập x
lý. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.
[11] Về án phí, quyền kháng cáo: B cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và
án phí dân sự về bồi thường dân sự theo quy định của pháp luật. Bị cáo, người bị
hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo Bản án theo quy
định của pháp luật.
Từ những nhận đnh trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố Bị cáo Đỗ Văn S1 phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản.
6
2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g
khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự, Xử phạt: Đỗ Văn S1 12 (Mười
hai) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù
tính từ ngày 28/11/2023.
Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày
để đảm bảo việc thi hành án.
Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.
3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều
584, Điều 585, Điều 586 Bộ luật dân sự: Buộc bị cáo ĐVăn S1 phải bồi thường số
tiền 10.000.000 (Mười triệu) đồng cho anh Nguyễn Quang D1.
Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật đơn yêu cầu thi hành án ca
người bị hại, nếu bị cáo không thanh toán trả số tiền trên cho người bị hại thì hàng
tháng còn phải chịu tiền lãi suất theo mức lãi suất bản do Ngân hàng N1 quy định
tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự, người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận
về việc thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời
hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4. Đối với anh Đỗ Đức N, chị Trần Thị Kim H, chị Bàn Thị D2 những người
được Đỗ Văn S1 nhờ nhận hộ tiền do anh Nguyễn Quang D1 chuyển khoản và đều
đã chuyển lại cho S1. Anh N, anh Nguyễn Hồng S, chị H chị D2 đều không biết
tiền S lừa đảo chiếm đoạt của anh D1 nên quan điều tra không đcập xử lý.
Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.
5. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a
khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án plệ phí Tòa án và khoản 1 phần I Mục A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án
ban hành kèm theo Nghị quyết: Bị cáo ĐVăn S1 phải chịu 200.000 (Hai trăm
nghìn) đồng án phí hình sự thẩm và 500.000 (Năm trăm nghìn) đồng án phí dân
sự sơ thẩm về bồi thường dân sự.
6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Ttụng hình sự
năm 2015:
Bị cáo, người bị hại mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo Bản án trong hạn
15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan mặt mặt tại phiên tòa quyền
kháng cáo về phần Bản án, quyết định liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình
trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
7
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa quyền kháng
cáo về phần Bản án, quyết định liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong
hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết
theo quy định của pháp luật.
Nơi nhận:
- Bị cáo; Người bị hại; Người liên quan;
- VKSND quận Cầu Giấy;
- Công an quận Cầu Giấy;
- Chi cục Thi hành án DS quận Cầu Giấy;
- TAND.TP Hà Nội;
- VKSND TP.Hà Nội;
- Trại tạm giam số 1 – Công an TPHN;
- UBND Việt Thuận, huyện Thư, tỉnh Thái
Bình;
- Lưu hồ sơ vụ án + Văn phòng.
Tải về
Bản án số 25/2024/HS-ST Bản án số 25/2024/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất