Bản án số 619/2023/HS-PT ngày 22/12/2023 của TAND cấp cao về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án 619/2023/HS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án 619/2023/HS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 619/2023/HS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 619/2023/HS-PT ngày 22/12/2023 của TAND cấp cao về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản |
|---|---|
| Tội danh: | 139.Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999) |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND cấp cao |
| Số hiệu: | 619/2023/HS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 22/12/2023 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Lê Thị Hồng T và đồng phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TẠI ĐÀ NẴNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 619/2023/HS-PT
Ngày: 22-12-2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
- Ông Phạm Việt Cường
Ông Phạm Tấn Hoàng
Ông Phạm Văn Hợp.
- Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Văn Phong - Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng: Ông Đoàn Minh Lộc -
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 22-12-2023, từ điểm cầu trung tâm tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao
tại Đà Nẵng kết nối với điểm cầu thành phần tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định,
xét xử phúc thẩm công khai bằng hình thức trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số
406/2023/TLPT-HS ngày 30-8-2023 đối với Lê Thị Hồng T và bị cáo khác. Do có
kháng cáo của các bị cáo, của các bị hại và của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2023/HS-ST ngày 20-7-2023 của Tòa
án nhân dân tỉnh Bình Định.
- b :
1. Lê Thị Hồng T, sinh năm 1977, tại Bình Định; nơi đăng ký HKTT: Thôn
B, xã P, huyện T1, tỉnh Bình Định; chỗ ở: Thôn Đ, xã P, huyện T1, tỉnh Bình
Định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ;
tôn giáo: Không; con ông Lê Văn Th, sinh năm 1945 và bà Nguyễn Thị Kim H,
sinh năm 1947; chồng là Lê Văn B (đã ly hôn) và có 02 con; tiền án, tiền sự:
Không.
Bị cáo bị bắt ngày 28-11-2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an
tỉnh Bình Định, có mặt tại điểm cầu thành phần.
2. Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1967, tại Bình Định; nơi đăng ký HKTT và chỗ
ở: Thôn Đ, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Kế toán; trình độ văn hóa:
12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Thanh H1,
sinh năm 1941 và bà Nguyễn Thị N1, sinh năm 1942; vợ là Lê Thị D sinh năm
1970 và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không.
2
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 20-12-2019; đến ngày 11-12-2020, được thay đổi
bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại điểm cầu thành phần.
i tham gia t t
1. B h
1.1. Bà Trần Thị P2, sinh năm 1957; địa chỉ cư trú: Thôn NT, xã P3, huyện
T1, Bình Định, có mặt tại điểm cầu thành phần.
i bo v quya Trn Th P2:
Luật sư Phan Thanh H2 - Văn phòng Luật sư V, thuộc Đoàn Luật sư Thành
phố Hồ Chí Minh; có mặt tại điểm cầu thành phần.
1.2. Bà Huỳnh Thị Thanh T2, sinh năm 1977; địa chỉ cư trú: huyện T1, tỉnh
Bình Định, có mặt tại điểm cầu thành phần.
1.3. Bà Huỳnh Thị Băng S, sinh năm 1982; địa chỉ cư trú: huyện T1, tỉnh Bình
Định, có mặt tại điểm cầu thành phần.
1.4. Bà Bùi Thị Băng T3, sinh năm 1977; địa chỉ cư trú: thôn NT 2, xã P3,
huyện T1, tỉnh Bình Định, có mặt tại điểm cầu thành phần.
2. n l
- Công ty Cổ phần Đ.
i dit: Ông Lê Văn B - Chức vụ: Tổng Giám đốc.
i din theo y quyn (Giy y quyn n15-3-2022):
Ông Nguyễn Đức Ch, sinh năm1984; địa chỉ cư trú: Xã TK, thành phố Q,
tỉnh Quảng Ngãi, có mặt tại điểm cầu thành phần.
Nhi tham gia t t
a cho b Hng T:
1. Luật sư Vũ Thị Hương Th - Công ty Luật TNHH KT và Cộng sự thuộc
Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội, có mặt tại điểm cầu thành phần.
2. Luật sư Nguyễn D - Công ty Luật TNHH MTV D1 thuộc Đoàn Luật sư
Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt tại điểm cầu thành phần.
3. Luật sư Lê Ngô Tr - Công ty Luật TNHH MTV D1 thuộc Đoàn Luật sư
Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt tại điểm cầu thành phần.
a cho b Nguyn Ngc H:
1. Luật sư Nguyễn Minh L - Công ty Luật TNHH SC thuộc Đoàn Luật sư
Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.
2. Luật sư Nguyễn Đình T3 - Công ty Luật TNHH SC thuộc Đoàn Luật sư
Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt tại điểm cầu thành phần.
- n l
1. Bà Lê Thị Thanh P2, sinh năm 1983; địa chỉ cư trú: Khu vực Kim Châu,
phường Bình Định, thị xã A, tỉnh Bình Định, vắng mặt.
2. Bà Nguyễn Thị Thanh H3, sinh năm 1985; địa chỉ cư trú: Thôn NC, xã N, thị
xã A, tỉnh Bình Định, vắng mặt.
3
3. Bà Lê Thị Phi Y, sinh năm 1990; địa chỉ cư trú: Thôn A1, xã P3, huyện
T1, tỉnh Bình Định, vắng mặt.
4. Bà Lê Thị Giáng H4, sinh năm 1973; địa chỉ cư trú: Tổ 6, Khu vực 1,
phường N2, thành phố Q1, tỉnh Bình Định, vắng mặt.
5. Ngân hàng B2 - Chi nhánh P5; địa chỉ trụ sở: thành phố Q1, tỉnh Bình
Định.
i din theo y quyn: Ông Đào Quang Đ4, vắng mặt.
6. Ông Lê Văn B, sinh năm 1972; địa chỉ cư trú: Thôn T, xã N, thị xã A, tỉnh Bình
Định, vắng mặt.
i din theo y quyn (Giy y quy-3-2022):
Ông Nguyễn Đức Ch, sinh năm1984; địa chỉ cư trú: xã TK, thành phố Q, tỉnh
Quảng Ngãi, có mặt tại điểm cầu thành phần.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bm
Công ty TNHH Đ (trụ sở tại thôn Đ, xã P, huyện T1, tỉnh Bình Định) thành lập
ngày 28-01-2005, được Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Định cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh với ngành nghề: Mua bán xe ô tô, vật liệu xây dựng, sắt
thép, xăng dầu... Khi thành lập chỉ có hai thành viên gồm: Lê Văn B là Giám đốc
và Lê Thị Hồng T là thành viên. Sau nhiều lần thay đổi Giấy phép kinh doanh; đến
ngày 21-10-2011, Công ty TNHH Đ đổi thành Công ty Cổ phần Đ (sau đây viết tắt
là Công ty Đ), gồm các cổ đông sáng lập: Lê Văn B, Lê Thị Hồng T và Lê Thị Phi
Y; ngành nghề kinh doanh bổ sung là Xây dựng công trình kỹ thuật dân dụng,
đường sắt, đường bộ, kinh doanh bất động sản, quyền sử dụng đất thuộc chủ sở hữu,
chủ sử dụng hoặc đi thuê…
Ngày 13-4-2015, Công ty Đ đăng ký thay đổi Giấy phép kinh doanh lần thứ
14, thì Lê Thị Hồng T không còn là cổ đông của Công ty, không giữ vai trò, chức vụ
gì trong Công ty; ngày 12-7-2016, đăng ký thay đổi Giấy phép kinh doanh lần thứ
15, với nội dung thay đổi bổ sung thành viên Công ty như: Lê Thị S1 (mẹ ruột
ông Lê Văn B), Nguyễn Hồng Đ6 (chồng bà Lê Thị Phi Y), còn ông Lê Văn B -
Tổng Giám đốc là người đại diện theo pháp luật. Trong số 15 lần đăng ký, thay
đổi đăng ký nêu trên, Lê Thị Hồng T ký giả chữ ký của ông Lê Văn B trên 06
(sáu) hồ sơ thay đổi kinh doanh gồm: (1) Lần thứ nhất, ngày 18-5-2005, (2) lần
thứ ba, ngày 17-11-2006, (3) lần thứ 5, ngày 17-8-2007, (4) lần thứ 6, ngày 15-5-
2008, (5), lần thứ 8, ngày 06-02-2009 và (6) lần thứ 15, ngày 12-7-2016.
Ngày 27-3-2012, Ủy ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) tỉnh Bình Định
ban hành Quyết định số 872/QĐ-UBND về việc chấp thuận chủ trương đầu tư Dự
án Khu dân cư V2, phường Bình Định, thị xã A.
Ngày 12-12-2013, UBND tỉnh Bình Định cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho
Công ty Đ về việc đăng ký thực hiện Dự án đầu tư nhà ở Khu dân cư V1.
4
Ngày 27-5-2014, UBND tỉnh Bình Định ban hành Quyết định số 1663/QĐ-UBND
về việc thu hồi và giao đất đợt 1 cho Công ty Đ để đầu tư Dự án phát triển nhà ở
Khu dân cư V1.
Ngày 09-6-2015, UBND tỉnh Bình Định ban hành Quyết định số 1952/QĐ-UBND
về việc thu hồi đất và giao đất cho Công ty Đ (đợt 2) để đầu tư Dự án phát triển
nhà ở Khu dân cư V1.
Ngày 25-5-2018, UBND tỉnh Bình Định ban hành Quyết định số 1724/QĐ-UBND
về việc chấp thuận đầu tư Dự án khu dân cư V1, phường Bình Định, thị xã A.
Căn cứ các văn bản nêu trên, thì Công ty Đ là Chủ đầu tư Dự án Khu dân cư
V1 được UBND tỉnh Bình Định giao đất để thực hiện Dự án; trong đó: Phần đất ở
đô thị thuộc dự án Công ty được quyền xây dựng nhà ở theo thiết kế Dự án đã
được duyệt và chuyển nhượng cho người khác theo giá thị trường để thu tiền sử
dụng đất nộp vào ngân sách Nhà nước. Vì vậy, ngày 12-5-2016, Công ty đã dùng
phần đất giao làm dự án là tài sản hình thành trong tương lai thế chấp tại Ngân hàng
Thương mại Cổ phần B2 - Chi nhánh P5 để vay vốn thực hiện dự án.
Ngày 01-10-2018, UBND tỉnh Bình Định ban hành Quyết định số 3322/QĐ-UBND
về việc cho phép Công ty Đ thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã đầu tư
xây dựng hạ tầng cho người dân tự xây dựng nhà ở đối với 163/215 lô đất tại Dự
án Khu dân cư V1, phường Bình Định, thị xã A.
Ngày 13-4-2015, Lê Thị Hồng T (vợ ông Lê Văn B) không còn là cổ đông
Công ty Đ và không giữ chức vụ gì tại Công ty, nhưng do biết chủ trương của Công ty
Đ triển khai Dự án Khu dân cư V1, phường Bình Định, thị xã A, T đã lợi dụng
danh nghĩa là vợ ông Lê Văn B - Tổng Giám đốc Công ty Đ sử dụng pháp nhân của
Công ty ký giả chữ ký của ông Lê Văn B, dùng dấu tròn Công ty, dấu chức danh, dấu
tên “Tổng Giám đốc - Lê Văn B” đóng lên chữ ký giả trên hồ sơ, giấy tờ, tài liệu của
Công ty để phát hành các văn bản như: Báo cáo tài chính, báo cáo thuế; đăng ký
thay đổi giấy phép kinh doanh của Công ty; thông báo mẫu con dấu Công ty; các
công văn trao đổi với các Ngân hàng, Chi cục thuế A, Sở Tài chính tỉnh Bình Định;
bản đồ quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch Khu dân cư V1, phường Bình Định, thị xã
A năm 2016, năm 2017; ký đăng ký mở tài khoản Công ty tại Ngân hàng Vietinbank
P5, Ngân hàng Vietcombank Q1 và toàn bộ chứng từ giao dịch rút, chuyển tiền qua
02 tài khoản này làm cho đối tác hay khách hàng của Công ty không phân biệt được
đâu là chữ ký thật của ông Lê Văn B.
Từ ngày 20-9-2017 đến ngày 04-5-2018, Lê Thị Hồng T lấy tư cách pháp nhân
của Công ty Đ ký giả chữ ký của ông Lê Văn B để lừa đảo chiếm đoạt tiền của người
khác thông qua việc: Lập và ký kết 08 Hợp đồng hợp tác góp vốn với các bà Trần Thị
P2, Huỳnh Thị Thanh T2 và Huỳnh Thị Băng S tổng trị giá là 33.092.625.000
đồng để bán 33 lô đất tại Khu dân cư V1, nguồn gốc đất này không phải của T mà
của Công ty Đ làm cho các bà Trần Thị P2, Huỳnh Thị Thanh T2 và Huỳnh Thị
Băng S tin tưởng rồi đem tiền đến Văn phòng Công ty Đ giao cho T. T nhận tiền
và chỉ đạo các nhân viên Kế toán lập 08 Phiếu thu tiền mua đất của các bà Trần Thị
P2, Huỳnh Thị Thanh T2 và Huỳnh Thị Băng S rồi in ra đưa cho Nguyễn Ngọc H
(Kế toán Trưởng Công ty ký), còn T ký ở mục “Thủ quỹ” và ký giả chữ ký của
5
Tổng Giám đốc Lê Văn B. Sau đó, dùng dấu tròn của Công ty, dấu chức danh, dấu
tên “Tổng Giám đốc - Lê Văn B” đóng lên các phiếu thu tiền này và yêu cầu các
nhân viên xóa bút toán, không hạch toán vào nguồn thu của Công ty. Sau khi ký
xong đưa cho các bà Trần Thị P2, Huỳnh Thị Thanh T2 và Huỳnh Thị Băng S,
mỗi người giữ 01 bản. Ngoài ra, T còn lấy danh nghĩa Công ty Đ, ký giả chữ ký
ông Lê Văn B - Tổng Giám đốc lập 01 Hợp đồng nguyên tắc mua bán nhà ở hình
thành trong tương lai với bà Bùi Thị Băng T3 để bán cho bà T3 04 lô đất thuộc sỡ
hữu của Công ty Đ tại Khu dân cư V1, thị xã A (đã bán cho bà T2 trước đó) để thu
1.393.095.000 đồng không nộp Công ty, chiếm đoạt sử dụng cá nhân, lấy mẫu
phiếu thu thông thường theo quy định của Bộ Tài chính, ký giả chữ ký ông Lê
Văn B, dùng dấu tròn của Công Đ đóng lên để lập hai phiếu thu tiền đợt 1 theo
Hợp đồng đưa cho bị hại để tạo niềm tin, nhưng không giao đất và cũng không trả
tiền cho họ, cụ thể như sau:
1. Lo chit 16.539.025.000 đồng ca Trn Th P2:
Từ ngày 20-9-2017 đến ngày 21-11-2017, bà Trần Thị P2 ký 04 Hợp đồng
hợp tác góp vốn thực hiện dự án, đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật và nhận phân
chia nền đất với Công ty Đ do Lê Thị Hồng T ký giả chữ ký của ông Lê Văn B -
Tổng Giám đốc để mua 16 lô đất nền của Công ty Đ và bà P2 đã nộp tiền mặt tại
Văn phòng Công ty Đ qua 04 Phiếu thu theo từng Hợp đồng, với tổng số tiền là
16.539.025.000 đồng, cụ thể:
- Hợp đồng ngày 20-9-2017, với số tiền góp vốn là 6.172.000.000 đồng để
được nhận 06 nền đất ký hiệu: E180, E181, E182, E183, E184, E185 tại Dự án
Khu dân cư V1. Theo hợp đồng này, ngày 06-10-2017, bà P2 đến Văn phòng Công
ty Đ nộp cho T 6.172.000.000 đồng. Với lý do “B không có mặt ở Công ty để ký
phiếu thu”, T lập phiếu thu tạm, ký xác nhận Thủ quỹ thu tiền Lê Thị Hồng T,
đóng dấu treo của Công ty Đ đưa cho bà P2 giữ, hẹn lập phiếu thu chính thức sẽ
gửi sau. Mấy ngày sau, T đến nhà bà P2 đem 02 liên Phiếu thu của Công ty Đ số:
PT10/01 ngày 06-10-2017 đưa cho bà P2 ký, nội dung thể hiện: Trần Thị P2 nộp
6.172.000.000 đồng về khoản mua đất Khu dân cư V1 theo hợp đồng, đã có chữ ký
Tổng Giám đốc Lê Văn B được đóng dấu tròn Công ty Đ, dấu chức danh, dấu tên
“Tổng Giám đốc - Lê Văn B”, chữ ký Kế toán trưởng được đóng dấu tên “Nguyễn
Ngọc H” và chữ ký Thủ quỹ được ghi rõ họ và tên “Lê Thị Hồng T”. Bà P2 ký vào
chỗ người nộp tiền và giữ lại 01 liên, trả lại cho T 01 liên cùng với Phiếu thu tạm
(thu giữ Phiếu thu tạm này tại nhà Nguyễn Ngọc H).
- Hợp đồng ngày 23-10-2017, với số tiền góp vốn là 3.400.000.000 đồng để
được nhận 04 nền đất ký hiệu: D53, D54, D55, D56 tại Dự án Khu dân cư V1. Theo
hợp đồng này, ngày 01-11-2017, bà P2 đến Văn phòng Công ty Đ nộp cho T
3.400.000.000 đồng. Lê Thị Hồng T đem 02 liên Phiếu thu của Công ty Đ số:
PT10/15 ngày 01-11-2017 đưa cho bà Trần Thị P2, nội dung thể hiện: Trần Thị P2
nộp 3.400.000.000 đồng về khoản mua đất Khu dân cư V1 theo hợp đồng, đã có
chữ ký Tổng Giám đốc Lê Văn B, được đóng dấu tròn Công ty Đ, dấu chức danh,
dấu tên “Tổng Giám đốc - Lê Văn B”, chữ ký Thủ quỹ được ký ghi rõ họ và tên “Lê
Thị Hồng T”. Bà P2 nhận Phiếu thu này thấy không có chữ ký Kế toán trưởng, nên
6
yêu cầu T đưa cho Kế toán trưởng ký. Vì vậy, T đưa 02 liên Phiếu thu này cho Nguyễn
Ngọc H (Kế toán trưởng) ký, đóng dấu tên “Nguyễn Ngọc H” rồi đưa cho bà P2 ký
vào chỗ người nộp tiền rồi giữ lại 01 liên, trả lại cho T 01 liên.
- Hợp đồng ngày 21-11-2017, với số tiền góp vốn là 3.825.000.000 đồng để
được nhận 03 nền đất ký hiệu: D15, D16, D17 (thực tế không có nền đất ký hiệu
D15, D16, D17, mà chỉ có nền đất ký hiệu: C15, C16, C17) tại Dự án Khu dân cư
V1. Theo hợp đồng này, ngày 25-12-2017, bà Trần Thị P2 đến Văn phòng Công ty Đ
nộp cho Lê Thị Hồng T 3.825.000.000 đồng. T đưa cho bà P2 02 liên Phiếu thu
của Công ty Đ số: PT15/15 ngày 25-12-2017, nội dung thể hiện: Trần Thị P2 nộp
3.825.000.000 đồng về khoản mua đất Khu dân cư V1 theo hợp đồng, đã có chữ
ký Tổng Giám đốc Lê Văn B, được đóng dấu tròn Công ty Đ, dấu chức danh,
dấu tên “Tổng Giám đốc - Lê Văn B”, chữ ký Kế toán trưởng được đóng dấu
tên “Nguyễn Ngọc H” và chữ ký Thủ quỹ được ghi rõ họ và tên “Lê Thị Hồng T”
đưa cho bà P2 ký. Bà P2 ký vào chỗ người nộp tiền và giữ lại 01 liên, trả lại cho T
01 liên.
- Hợp đồng ngày 21-11-2017, với số tiền góp vốn là 3.142.025.000 đồng để
được nhận 03 nền đất ký hiệu: D47, D48, D49 tại Dự án khu dân cư V1. Theo hợp
đồng này, ngày 07-4-2018, bà Trần Thị P2 đến Văn phòng Công ty Đ nộp cho Lê
Thị Hồng T 3.142.025.000 đồng. T đem 02 liên Phiếu thu của Công ty Đ số: 01/04
PT ngày 07-04-2018 đưa cho bà Trần Thị P2 ký, nội dung: Trần Thị P2 nộp
3.142.025.000 đồng về khoản mua đất Khu dân cư V1 theo hợp đồng, đã có chữ
ký Tổng Giám đốc Lê Văn B, đóng dấu tròn Công ty Đ, dấu chức danh, dấu tên
“Tổng Giám đốc - Lê Văn B”, chữ ký Kế toán trưởng họ tên “Nguyễn Ngọc H” và
chữ ký Thủ quỹ được họ tên “Lê Thị Hồng T”. Bà Trần Thị P2 ký vào chỗ người
nộp tiền và giữ lại 01 liên, trả lại cho T 01 liên.
2. Lo chit 10.603.600.000 ng ca Hunh Th Thanh T2:
Ngày 20-9-2017, bà Huỳnh Thị Thanh T2 ký 02 Hợp đồng hợp tác góp vốn
thực hiện dự án, đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật và nhận phân chia nền đất với
Công ty Đ do ông Lê Văn B - Tổng Giám đốc đại diện ký, để mua 11 lô đất nền
của Công ty Đ và đã nộp tiền mặt tại Văn phòng Công ty Đ theo 02 Hợp đồng này,
với tổng số tiền là 10.603.600.000 đồng, cụ thể:
- Hợp đồng ngày 20-9-2017, với số tiền góp vốn là 5.976.200.000 đồng để
được nhận 07 nền đất ký hiệu: D61, D62, D63, D64, D65, D66, D67 tại Dự án Khu dân
cư V1. Theo hợp đồng này, ngày 11-10-2017, bà Huỳnh Thị Thanh T2 đến Văn
phòng Công ty Đ nộp cho Lê Thị Hồng T 5.976.200.000 đồng. Với lý do B
t T lập Phiếu thu tạm, ký xác nhận Thủ quỹ, ghi
rõ họ và tên “Lê Thị Hồng T”, đóng dấu treo của Công ty Đ rồi đưa cho bà T2 giữ,
hẹn lập phiếu thu chính thức gửi sau. Vài ngày sau, T đến nhà bà T2 đem 02 liên
Phiếu thu của Công ty Đ số: PT10/03 ngày 11-10-2017 đưa cho bà T2 ký, nội dung
thể hiện: Huỳnh Thị Thanh T2 nộp 5.963.100.000 đồng về khoản mua đất Khu dân
cư V1 theo hợp đồng, đã có chữ ký Tổng Giám đốc Lê Văn B, được đóng dấu tròn
Công ty Đ, dấu chức danh, dấu tên “Tổng Giám đốc - Lê Văn B”, chữ ký Kế
toán trưởng, được đóng dấu tên “Nguyễn Ngọc H” và chữ ký Thủ quỹ được ghi rõ
7
họ và tên “Lê Thị Hồng T”. Huỳnh Thị Thanh T2 ký vào chỗ người nộp tiền và giữ
lại 01 liên, trả lại cho bà T 01 liên cùng với phiếu thu tạm.
- Hợp đồng ngày 20-9-2017, với số tiền góp vốn là 4.640.500.000 đồng để
được nhận 04 nền đất ký hiệu: H137, H138, H139, H140 tại Dự án khu dân cư V1.
Theo hợp đồng này, ngày 27-10-2017, bà Huỳnh Thị Thanh T2 nộp cho Lê Thị
Hồng T 4.640.500.000 đồng. T đem 02 liên Phiếu thu của Công ty Đ số: PT10/16
ngày 27-10-2017 đưa cho bà T2 ký, nội dung thể hiện: Huỳnh Thị Thanh T2 nộp
4.640.500.000 đồng về khoản mua đất Khu dân cư V1 theo hợp đồng, đã có chữ ký
Tổng Giám đốc Lê Văn B, được đóng dấu tròn Công ty Đ, chữ ký Thủ quỹ Lê Thị
Hồng T. Khi nhận Phiếu thu này, bà T2 thấy không có chữ ký Kế toán trưởng
Nguyễn Ngọc H, nên yêu cầu T đưa cho ông H ký. T đưa 02 liên Phiếu thu này cho
H ký rồi đưa cho bà T2, bà T2 ký vào chỗ người nộp tiền và giữ lại 01 liên, trả lại
cho T 01 liên.
3. Lo chit 5.950.000.000 đồng ca Hunh Th S:
Từ ngày 17-11-2017 đến ngày 15-12-2017, bà Huỳnh Thị Băng S ký 02 Hợp
đồng hợp tác góp vốn thực hiện dự án, đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật và nhận
phân chia nền đất với Công ty Đ do ông Lê Văn B - Tổng Giám đốc đại diện ký, để
mua 06 nền đất của Công ty và đã nộp tiền tại Văn phòng Công ty Đ theo 02 Hợp
đồng này, với tổng số tiền là 5.950.000.000 đồng, cụ thể:
- Hợp đồng ngày 17-11-2017, với số tiền góp vốn là 3.400.000.000 đồng để
được nhận 04 nền đất ký hiệu: D52, D57, D58, D68 tại Dự án Khu dân cư V1. Theo
hợp đồng này, ngày 20-12-2017, bà Huỳnh Thị Băng S đến Văn phòng Công ty Đ
nộp cho Lê Thị Hồng T 3.400.000.000 đồng. T nhận tiền và đem 02 liên Phiếu thu
của Công ty Đ số: PT15/12 ngày 20-12-2017 đưa cho bà S ký, nội dung thể hiện:
Huỳnh Thị Băng S nộp 3.400.000.000 đồng về khoản mua đất Khu dân cư V1 theo
hợp đồng, đã có chữ ký Tổng Giám đốc Lê Văn B, đóng dấu tròn Công ty Đ, dấu
chức danh, dấu tên “Tổng Giám đốc - Lê Văn B”, chữ ký của Kế toán trưởng, đóng
dấu tên Nguyễn Ngọc H và chữ ký Thủ quỹ ghi họ và tên “Lê Thị Hồng T”. Bà S ký
vào chỗ người nộp tiền và giữ lại 01 liên, trả lại cho T 01 liên.
- Hợp đồng ngày 15-12-2017, với số tiền góp vốn là 2.550.000.000 đồng để
được nhận 02 nền đất ký hiệu: C18, C19 tại Dự án Khu dân cư V1. Theo hợp đồng
này, ngày 25-12-2017, bà Huỳnh Thị Băng S nộp cho Lê Thị Hồng T 2.550.000.000
đồng. T đưa cho bà Băng S 01 phiếu thu tạm có chữ ký xác nhận của Kế toán
trưởng Nguyễn Ngọc H và Thủ quỹ Lê Thị Hồng T. Ngày 25-12-2017, bà S đến
Văn phòng Công ty Đ trả lại phiếu thu tạm cho T, T đưa cho bà S 01 liên Phiếu thu
của Công ty Đ số: PT12/06 ngày 25-12-2017, nội dung thể hiện: Huỳnh Thị Băng S
nộp 2.550.000.000 đồng, về khoản mua đất Khu dân cư V1 theo hợp đồng, đã có chữ
ký Tổng Giám đốc Lê Văn B, đóng dấu tròn Công ty Đ, dấu chức danh, dấu tên
“Tổng Giám đốc - Lê Văn B”, chữ ký Kế toán trưởng, đóng dấu tên “Nguyễn Ngọc
H” và chữ ký Thủ quỹ, ghi họ và tên “Lê Thị Hồng T”. Bà S ký vào chỗ người nộp
tiền và giữ lại 01 liên, trả lại cho T 01 liên cùng với Phiếu thu tạm.
Tổng cộng, Công ty Đ ký 08 Hợp đồng hợp tác góp vốn thực hiện Dự án Khu
dân cư V1 với bà Trần Thị P2, với tổng số tiền là 33.092.625.000 đồng và cam kết
8
sẽ giao 33 lô đất nền tại Khu dân cư V1 theo hợp đồng. Trên cơ sở đó, các bà Trần
Thị P2, Huỳnh Thị Thanh T2 và Huỳnh Thị Băng S đã nộp cho Lê Thị Hồng T theo
08 Hợp đồng tại Văn phòng Công ty Đ qua 08 phiếu thu, với tổng số tiền tiền là
33.092.625.000 đồng.
4. Lo chit 1.393.095.000 đồng ca b :
Năm 2018, bà Bùi Thị Băng T3 quen biết với Lê Thị Hồng T thông qua bà
Huỳnh Thị Thanh T2. Đến giữa tháng 4-2018, bà T3 có nhu cầu mua đất Dự án
Khu dân cư V1 của Công ty Đ, nên đã gặp T hỏi mua, thì T nói T3 quen
bit, nu mua T gii thiu nhng v kim l, T giới thiệu cho bà
T3 04 lô ký hiệu H137.H138. H139.H140 và dẫn bà T3 xem thực địa đất (thực tế 04
lô này đã bán cho bà Huỳnh Thị Thanh T2 và đã thu đủ tiền). T thỏa thuận bán cho
bà T3 02 lô giá rẻ có tổng diện tích là 249,10 m
2
, với số tiền là 2.117.350.000
đồng; 02 lô theo giá của Công ty có tổng diện tích là 240,60 m
2
, với số tiền là
2.526.300.000 đồng. Tổng 04 lô diện tích là 489,7 m
2
, giá: 4.643.650.000 đồng,
nộp tiền theo tiến độ, từ đợt 1 đến đợt 3 mỗi đợt 30% giá trị hợp đồng =
1.393.095.000 đồng, đợt 4 nộp 10%, còn lại 464.365.000 đồng (khi nhận Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất).
Để thu tiền của bà T3, T lấy mẫu “Hợp đồng nguyên tắc mua bán nhà ở hình
thành trong tương lai” của Công ty Đ, lấy pháp nhân Công ty lập “Hợp đồng nguyên
tắc mua bán nhà ở hình thành trong tương lai số 27-4-2018/HĐMB-ĐT” ký kết với
bà T3 theo nội dung thỏa thuận nêu trên, ký giả chữ ký ông Lê Văn B trên hợp đồng rồi
lấy dấu tròn Công ty Đ đóng lên 1/3 chữ ký giả đưa cho bà T3 và bảo B ng
i, T3 ”. Bà T3 xem hợp đồng thấy nội dung đúng như thỏa thuận, có
chữ ký của ông B, được đóng dấu tròn Công ty Đ, nên tin tưởng ký hợp đồng và giữ lại
01 bản, giao cho T giữ 01 bản. Theo hợp đồng này, ngày 27-4-2018, bà T3 đến Văn
phòng Công ty Đ nộp cọc cho T 200.000.000 đồng. T nhận tiền, nhưng chưa giao phiếu
thu, với lý do B , i anh B v u thu, khi
T3 np tip tin mt 1, T s giao phi”, bà T3 đồng ý.
Ngày 04-5-2018, bà T3 đến Văn phòng Công ty Đ nộp cho T theo đợt 1. T
mạo danh Công ty Đ lập sẵn 02 phiếu thu để giao cho bà T3 bằng cách: Không vào
phần mềm chương trình kế toán Công ty Đ để lập, mà tự lên mạng lấy mẫu phiếu
thu của Bộ Tài chính, chỉnh sửa thành phiếu thu của Công ty Đ để lập 01 Phiếu thu
tiền đề ngày 27-4-2018 về khoản bà T3 nộp tiền đặt cọc theo Hợp đồng số tiền là
200.000.000 đồng và 01 Phiếu thu ngày 04-5-2018 về khoản bà T3 nộp tiền đất đợt
1 theo Hợp đồng số tiền là 1.193.095.000 đồng, tổng 2 phiếu thu là 1.393.095.000
đồng (đúng với khoản thu đợt 1 theo hợp đồng). T ký giả chữ ký của ông Lê Văn B
trên 02 phiếu thu tại vị trí Giám đốc, lấy dấu tròn Công ty Đ đóng lên 1/3 chữ ký
giả và ký tên mình, ghi rõ họ, tên Lê Thị Hồng T tại vị trí người lập phiếu trên 02
phiếu thu.
Đối với Nguyễn Ngọc H - Kế toán trưởng Công ty Đ có trách nhiệm thực hiện
các quy định của pháp luật về kế toán, tài chính trong Công ty; tổ chức điều hành
bộ máy kế toán theo quy định của Luật Kế toán năm 2015; lập báo cáo tài chính kế
toán, tuân thủ chế độ kế toán và chuẩn mực kế toán; có quyền độc lập về chuyên
9
môn nghiệp vụ kế toán, nhưng vì động cơ cá nhân đã nghe theo chỉ đạo của Lê Thị
Hồng T, cùng tham gia mạo danh Công ty Đ lập, ký 08 phiếu thu tiền đất do các bà
P2, T2 và S nộp theo 08 Hợp đồng mạo danh, với tổng số tiền là 33.092.625.000
đồng, không hạch toán (bỏ ngoài sổ sách kế toán Công ty) số tiền do các bà P2, T2
và S nộp vào nguồn thu của Công ty Đ, giúp cho Lê Thị Hồng T chiếm đoạt
33.092.625.000 đồng.
Ti Kt lun nh s 120/PC09 n-5- thu
nh kt lun:
Chữ ký đứng tên Lê Văn B dưới mục “Bên A” trên 08 Hợp đồng hợp tác góp
vốn thực hiện dự án, đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật và nhận phân chia nền đất
và 08 phiếu thu tiền là không do cùng một người ký ra.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2023/HS-ST ngày 20-7-2023, Tòa án
nhân dân tỉnh Bình Định:
1. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản
1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Lê Thị Hồng T 19 (mười chín) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28-11-2019.
2. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm s, v khoản 1 Điều 51 và khoản
1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Nguyễn Ngọc H 07 (bảy) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời
hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án (được trừ thời gian tạm
giam từ ngày 20-12-2019 đến ngày 11-12-2020.
3. Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự; các Điều 127; 131 và 587 của Bộ luật
Dân sự; buộc Lê Thị Hồng T và Công ty Đ, người đại diện theo pháp luật là ông Lê
Văn B phải liên đới bồi thường cho các bị hại, cụ thể:
3.1. Bồi thường cho vợ chồng bà Trần Thị P2 16.539.025.000 đồng.
3.2. Bồi thường cho vợ chồng bà Huỳnh Thị Thanh T2 10.603.600.000 đồng.
3.3. Bồi thường cho vợ chồng bà Huỳnh Thị Băng S 5.950.000.000 đồng.
3.4. Bồi thường cho vợ chồng bà Bùi Thị Băng T3 1.393.095.000 đồng.
Chia theo phần: Lê Thị Hồng T phải bồi thường 2/3 số tiền trên cho các bị
hại; Công ty Đ đại diện theo pháp luật là ông Lê Văn B phải bồi thường 1/3 số tiền
trên cho các bị hại.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về nghĩa vụ chậm thi hành án dân sự,
xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
-7-2023:
- Công ty Đ kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo
hướng Công ty không phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường cho các bị hại theo
tỷ lệ 1/3 số tiền như quyết định của bản án sơ thẩm.
- Bị hại là bà Bùi Thị Băng T3 kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tăng
hình phạt đối với Lê Thị Hồng T; buộc Công ty Cổ phần Đ phải liên đới trả cho bà
số tiền đã bị chiếm đoạt là 1.393.095.000 đồng.
10
01-8-2023:
- Các bị cáo Lê Thị Hồng T và Nguyễn Ngọc H kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm;
- Bị hại là bà Huỳnh Thị Băng S kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tăng
hình phạt đối với Lê Thị Hồng T và Nguyễn Ngọc H; truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với ông Lê Văn B; buộc Công ty Đ, ông Lê Văn B, các bị cáo Lê Thị Hồng T
và Nguyễn Ngọc H phải liên đới trả cho bà số tiền đã bị chiếm đoạt là
5.950.000.000 đồng, cùng với tiền lãi.
- Bị hại là bà Huỳnh Thị Thanh T2 kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm
tăng hình phạt đối với Lê Thị Hồng T và Nguyễn Ngọc H; truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với ông Lê Văn B; buộc Công ty Đ, ông Lê Văn B, các bị cáo Lê Thị
Hồng T và Nguyễn Ngọc H phải liên đới trả cho bà số tiền đã bị chiếm đoạt là
10.603.600.000 đồng, cùng tiền lãi hoặc giá trị đất hiện nay; kê biên tài sản của cá
nhân ông Lê Văn B, của các bị cáo Lê Thị Hồng T và Nguyễn Ngọc H và của
Công ty Đ.
,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Lê Thị Hồng T và Nguyễn Ngọc H kháng
cáo toàn bộ bản án; các bị hại là bà Trần Thị P2, Huỳnh Thị Thanh T2, Huỳnh Thị
Băng S và Bùi Thị Băng T3; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty Đ
kháng cáo bản án sơ thẩm. Đơn kháng cáo của các bị cáo, của các bị hại và của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là trong thời hạn quy định tại khoản 1và
khoản 3 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, do đó Hội đồng xét xử quyết định
đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Các bị cáo Lê Thị Hồng T và Nguyễn Ngọc H đề nghị Hội đồng xét xử hủy
bản án sơ thẩm để điều tra lại;
- Các bị hại giữ nguyên kháng cáo, đề nghị sửa bản án sơ thẩm, tăng hình phạt
đối với các bị cáo Lê Thị Hồng T và Nguyễn Ngọc H; truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với ông Lê Văn B; buộc Công ty Đ, ông Lê Văn B và các bị cáo Lê Thị Hồng T,
Nguyễn Ngọc H phải liên đới trả tiền đã chiếm đoạt của họ và tiền lãi theo quy
định.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty Đ giữ nguyên kháng cáo,
đề nghị không tuyên buộc Công ty phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường cho các bị
hại theo tỷ lệ 1/3 số tiền như quyết định của bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét
xử phúc thẩm căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355; các điểm a, b khoản 1 Điều 358
của Bộ luật Tố tụng hình sự:
11
- Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Thị Hồng T và Nguyễn Ngọc H; hủy
bản án hình sự sơ thẩm để điều tra lại, với lý do: Truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với Lê Thị Hồng T và Nguyễn Ngọc H về tội “Làm giả tài liệu của tổ chức” theo
Điều 341 của Bộ luật Hình sự; ngoài ra, trong vụ án này các bị cáo làm giả 09 Hợp
đồng và 10 Phiếu thu, nhưng Cơ quan Cảnh sát điều tra chỉ trưng cầu giám định đối với
08 Hợp đồng và 08 Phiếu thu là điều tra không đầy đủ mà tại cấp phúc thẩm không thể
bổ sung được; đồng thời, Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty Đ liên đới với bị cáo Lê
Thị Hồng T bồi thường cho các bị hại là không đúng quy định của pháp luật.
[2]. Xét kháng cáo của các bị cáo, của các bị hại:
[2.1]. Đối với hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
Nội dung vụ án thể hiện:
Mặc dù, Lê Thị Hồng T không còn là thành viên của Công ty Đ và cũng không
giữ chức trách, nhiệm vụ gì trong Công ty, nhưng từ ngày 20-9-2017 đến ngày 04-8-
2018, T đã giả chữ ký của ông Lê Văn B là Tổng Giám đốc Công ty Đ, giả nội dung
Hợp đồng hợp tác góp vốn của Công ty Đ, sử dụng con dấu của Công ty Đ để ký tên
đóng dấu trên 08 Hợp đồng hợp tác góp vốn thực hiện dự án, đầu tư xây dựng hạ tầng
kỹ thuật và nhận phân chia nền đất; Hợp đồng nguyên tắc hình thành trong tương lai và
10 Phiếu thu để thu tiền của 04 bị hại. Tòa án cấp sơ thẩm xác định Lê Thị Hồng T
chiếm đoạt của bà Trần Thị P2 16.539.025.000 đồng, chiếm đoạt của bà Huỳnh Thị
Thanh T2 10.603.600.000 đồng, chiếm đoạt của bà Huỳnh Thị Băng S
5.950.000.000 đồng và chiếm đoạt của bà Bùi Thị Băng T3 1.393.095.000 đồng,
với tổng số tiền chiếm đoạt của 04 bị hại là 34.485.720.000 đồng, từ đó kết án Lê
Thị Hồng T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 4 Điều 174 của Bộ luật
Hình sự.
Tuy nhiên, có cơ sở để cho rằng việc điều tra của cơ quan tiến hành tố tụng cấp
sơ thẩm không đầy đủ, mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được. Vì vậy, để có
căn cứ vững chắc kết án Lê Thị Hồng T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, cần
phải điều tra làm rõ các nội dung sau:
Thứ nhất, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm,
Lê Thị Hồng T và Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng giữa bị cáo T và 04 bị hại
có quan hệ làm ăn chung và vay mượn tài sản. Chỉ do bị cáo T không còn khả năng
trả nợ, nên giữa bị cáo và các bị hại thỏa thuận tính toán các khoản nợ gốc và lãi rồi
lập các Hợp đồng hợp tác góp vốn thực hiện dự án, đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật
và nhận phân chia đất nền để khấu trừ các khoản nợ; đồng thời, các bị hại luôn gây
sức ép để buộc bị cáo T phải làm giả các Phiếu thu tiền của các bị hại, chứ thực tế
không có việc bị cáo nhận tiền mặt từ các bị hại. Tuy bị cáo có hành vi gian dối,
nhưng bị cáo không chiếm đoạt tiền, do đó bị cáo không phạm tội “Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản”.
Đối với nội dung này, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị hại
là bà Trần Thị P2 có nhiều lời khai khác nhau về việc có quan hệ làm ăn chung, hùn
vốn với vợ chồng bị cáo Lê Thị Hồng T, cụ thể: Tại Biên bản lấy lời khai ngày
03-6-2019 (bút lục số 585 - 586), bà P2 khai ,
12
; tại phiên
tòa sơ thẩm ngày 06-5-2022 (bút lục số 3417 - 3420), có lúc bà P2 khai K
, khi thì khai ; bị hại Huỳnh
Thị Băng T2 có lời khai -12-
. VT
t
B T
, ..., kèm theo là Giấy tờ ghi số tiền nợ
có chữ ký của bị cáo Lê Thị Hồng T (bút lục số 3465-3466). Như vậy, cần điều tra
làm rõ giữa bị cáo T và các bị hại có việc làm ăn chung? có việc vay nợ, khấu trừ
nợ? như lời khai của bị cáo và Luật sư bào chữa cho bị cáo không? từ đó mới đủ
căn cứ để xác định có hay không có hành vi gian dối và số tiền bị cáo Lê Thị Hồng
T chiếm đoạt.
Thứ hai, cần điều tra làm rõ phương thức, địa điểm giao nhận tiền, bởi lẽ:
Quá trình điều tra, các bị hại có nhiều lời khai khác nhau về việc giao nhận tiền, lời
khai của bị hại Huỳnh Thị Thanh T2 tại Biên bản làm việc ngày 16-4-2019 (bút lục
số 853 - 854): N20-9-T
-10-T2
... nhưng Biên bản ghi lời khai ngày
05-6-2019 (bút lục số 855), bà T2 khai khi giao nhận tiền chỉ có bị hại nộp tiền mặt
cho bị cáo, mà không có mặt các nhân viên của Công ty Đ; trong khi lời khai của
những người làm chứng là các nhân viên Kế toán Công ty khẳng định không biết
việc giao nộp tiền (bút lục số 1256-1260); lời khai của bị cáo Nguyễn Ngọc H (bút
lục số 1872-1873) cũng khẳng định khi ký Phiếu thu không biết ai là người nộp
tiền, ai là người thu tiền, nộp bao nhiêu, thu bao nhiêu, có nộp hay không, hình
thức nộp thế nào?.
[2.2]. Đối với hành vi Làm giả tài liệu của Công ty Đ:
Kết quả điều tra xác định:
Từ ngày 20-9-2017 đến ngày 04-5-2018, Lê Thị Hồng T lấy tư cách pháp
nhân của Công ty Đ ký giả chữ ký của ông Lê Văn B để lập và ký kết 09 Hợp
đồng hợp tác góp vốn với các bị hại Trần Thị P2, Huỳnh Thị Thanh T2 và Huỳnh
Thị Băng S, tổng giá trị của các hợp đồng là 33.092.625.000 đồng để bán 33 lô đất
tại Khu dân cư V1. Tuy nhiên, thực tế các nền đất trong các Hợp đồng là một phần
của diện tích đất dự án là tài sản hình thành trong tương lai được Công ty Đ đã thế
chấp tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần B2 - Chi nhánh P5 để vay vốn thực hiện
dự án; nội dung các Hợp đồng thể hiện các nền đất là tài sản của Công ty Đ là không
đúng sự thật. T cũng là người yêu cầu các nhân viên kế toán lập 08 Phiếu thu để
thu tiền mua đất của các bị hại rồi in ra đưa cho Nguyễn Ngọc H (Kế toán trưởng Công
ty ký) còn Lê Thị Hồng T ký ở mục “Thủ quỹ” và ký giả chữ ký của Tổng Giám
đốc Công ty Lê Văn B rồi dùng dấu tròn của Công ty Đ, dấu chức danh, dấu tên
“Tổng Giám đốc - Lê Văn B” đóng lên các phiếu thu tiền này và yêu cầu các nhân

13
viên xóa bút toán, không hạch toán vào nguồn thu Công ty. Trong quá trình điều
tra, Lê Thị Hồng T khai nhận toàn bộ hành vi giả chữ ký của ông Lê Văn B, làm giả
tài liệu là các Hợp đồng hợp tác góp vốn, Phiếu thu tiền mua đất của Công ty
Đ.
Lê Thị Hồng T còn sử dụng danh nghĩa pháp nhân của Công ty để ký giả chữ
ký Lê Văn B, dùng dấu tròn Công ty, dấu chức danh, dấu tên “Tổng Giám đốc - Lê
Văn B” đóng lên chữ ký giả trên hồ sơ, giấy tờ, tài liệu của Công ty Đ để phát hành
các văn bản như: Báo cáo tài chính, báo cáo thuế; đăng ký thay đổi giấy phép kinh
doanh của Công ty; thông báo mẫu con dấu Công ty; các công văn trao đổi với các
ngân hàng, Chi cục thuế A, Sở Tài chính Bình Định; bản đồ quy hoạch, điều chỉnh quy
hoạch khu dân cư V1, phường Bình Định, thị xã A năm 2016, năm 2017; ký đăng ký
mở tài khoản Công ty tại Vietinbank P5; Vietcombank Q1 và toàn bộ chứng từ giao
dịch rút, chuyển tiền qua 02 tài khoản này làm cho dẫn đến đối tác hay khách hàng
của Công ty không phân biệt được đâu là chữ ký thật của ông Lê Văn B.
Nguyễn Ngọc H là Kế toán trưởng Công ty Đ có trách nhiệm thực hiện các
quy định của pháp luật về kế toán, tài chính trong Công ty; tổ chức điều hành bộ
máy kế toán theo quy định của Luật Kế toán; lập báo cáo tài chính kế toán, tuân
thủ chế độ kế toán và chuẩn mực kế toán; có quyền độc lập về chuyên môn nghiệp
vụ kế toán, nhưng vì động cơ cá nhân nghe theo chỉ đạo của Lê Thị Hồng T, cùng
tham gia mạo danh Công ty Đ, cùng với T ký vào các Phiếu thu tiền.
Tại Kết luận giám định số 120/PC09 ngày 24-5-2019, Phòng Kỹ thuật hình sự
Công an tỉnh Bình Định kết luận: Ch i m
08 Hng hn thc hin d ng h tng k thu
nhu thu tikhông do cùng một người ký ra.
Như vậy, chuỗi hành vi nêu trên của Lê Thị Hồng T và hành vi đồng phạm
của Nguyễn Ngọc H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Làm giả tài liệu của tổ chức” tội
phạm và hình phạt quy định tại Điều 341 của Bộ luật Hình sự. Các cơ quan tiến hành tố
tụng cấp sơ thẩm không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Lê Thị Hồng T,
Nguyễn Ngọc H về tội danh trên là bỏ lọt tội phạm. Để giải quyết triệt để vụ án,
cần phải điều tra lại, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Lê Thị Hồng T và
Nguyễn Ngọc H về tội “Làm giả tài liệu của tổ chức” theo Điều 341 của Bộ luật
Hình sự.
Ngoài ra, trong vụ án này các bị cáo làm giả 09 Hợp đồng và 10 Phiếu thu,
nhưng Cơ quan Cảnh sát điều tra chỉ mới trưng cầu giám định đối với 08 Hợp đồng
và 08 Phiếu thu là điều tra không đầy đủ mà tại cấp phúc thẩm không thể bổ sung được.
Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 26-4-2023, Hội đồng xét xử sơ thẩm đã trả hồ sơ để
điều tra bổ sung nhiều vấn đề trong đó yêu cầu điều tra làm rõ hành vi làm giả tài liệu
của cơ quan tổ chức, sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức của Lê Thị Hồng T,
nhưng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định ban hành Công văn số 599/CV-VKSBĐP1
giữ nguyên Cáo trạng số 49/CT-VKSBĐ-P1 ngày 11-7-2022 của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định. Do đó, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã căn cứ
Điều 298 của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về “Giới hạn của việc xét xử” chỉ
14
xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố.
Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không có lỗi khi bị hủy bản án để điều tra lại.
[3]. Xét kháng cáo của Công ty Đ:
Trong vụ án này, Công ty Đ do ông Lê Văn B là đại diện theo pháp luật cũng có
phần lỗi khi không thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong việc bảo quản tài liệu, con dấu
của Công ty, từ đó để cho Lê Thị Hồng T có điều kiện thực hiện tội phạm. Tuy nhiên,
Công ty Đ và ông Lê Văn B (Tổng Giám đốc Công ty) cũng là tổ chức, cá nhân bị
Lê Thị Hồng T lợi dụng để giả chữ ký, làm giả các tài liệu, các Hợp đồng hợp tác
góp vốn, Phiếu thu tiền mua đất để thu tiền của các bị hại. Tại khoản 1 Điều 584
của Bộ luật Dân sự quy định:
, tài sản
; đồng thời, để thực hiện đúng hướng dẫn tại Hội
nghị trực tuyến tập huấn chuyên đề “Giải đáp những thác mắc về nghiệp vụ xét xử
và hướng dẫn áp dụng pháp luật của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao”
ngày 24-3-2023 của Tòa án nhân dân tối cao, nếu không chứng minh được cá nhân
ông Lê Văn B đồng phạm với Lê Thị Hồng T, cũng như cùng sử dụng số tiền bị
cáo chiếm đoạt, thì không thể buộc trách nhiệm liên đới của ông Lê Văn B bồi
thường cho các bị hại; trường hợp, khi điều tra lại, nếu Lê Thị Hồng T bị cơ quan tiến
hành tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thì
phải xác định trách nhiệm hoàn trả lại tài sản đã chiếm đoạt của người khác hoàn toàn
thuộc về bị cáo.
[4]. Như vậy, kháng cáo của các bị cáo Lê Thị Hồng T và Nguyễn Ngọc H; kháng
cáo các bị hại và kháng cáo của Công ty Đ đã được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem
xét và có cơ sở để chấp nhận.
Do hủy bản án sơ thẩm, nên các nội dung kháng cáo khác của các bị hại sẽ
được xem xét trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử lại vụ án.
[5]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Do hủy bản án sơ thẩm, nên những người
kháng cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355, các điểm a, b khoản 1 Điều 358 của Bộ
luật Tố tụng hình sự.
1.1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Lê Thị Hồng T và bị cáo
Nguyễn Ngọc H; chấp nhận một phần kháng cáo của các bị hại là các bà Trần
Thị P2, Huỳnh Thị Thanh T2, Huỳnh Thị Băng S và Bùi Thị Băng T3; chấp nhận kháng
cáo của Công ty Cổ phần Đ.
1.2. Hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2023/HSST ngày 20-7-2023
của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.
15
1.3. Chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định để giải
quyết theo thủ tục chung.
2. Về án phí hình sự phúc thẩm:
Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm f khoản 2 Điều 23 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Những người kháng cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Định
(02 bản, kèm hồ sơ vụ án);
- TAND tỉnh Bình Định;
- TANDTC - Vụ I;
- VKSNDCC tại Đà Nẵng;
- Cơ quan CSĐT - CA tỉnh Bình Định;
- Cục THA dân sự tỉnh Bình Định;
- Trại tạm giam Công an tỉnh Bình Định;
(02 bản, để giao cho bị cáo T 01 bản);
- Bị cáo Nguyễn Ngọc H (theo địa chỉ);
- Các bị hại (theo địa chỉ);
- Lưu: Phòng HCTP, LTHS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Phạm Việt Cường
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 05/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 01/02/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 01/02/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 01/02/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 29/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 26/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 25/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Bản án số 02/2024/HS-ST ngày 17-01-2024 của TAND tỉnh Hậu Giang về về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Ban hành: 17/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 12/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 28/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 28/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 27/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 26/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 22/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 22/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm