Bản án số 06/2024/HS-ST ngày 01/02/2024 của TAND huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 06/2024/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 06/2024/HS-ST ngày 01/02/2024 của TAND huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tội danh: 139.Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Tánh Linh (TAND tỉnh Bình Thuận)
Số hiệu: 06/2024/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 01/02/2024
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Bị cáo, là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã dùng thủ đoạn gian dối, cung cấp các thông tin không đúng sự thật, để bà L tin tưởng và giao 50 triệu đồng cho bị cáo, sau đó bị cáo đã chiếm đoạt số tiền này sử dụng vào mục đích cá nhân, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN TÁNH LINH,
TỈNH BÌNH THUẬN
Số: 06 /2024/HS-ST
Ngày: 01 - 02 - 2024
CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
ỚC CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÁNH LINH, TỈNH BÌNH THUẬN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Phan Đình Phú.
Các Hội thẩm nhân dân:
- Ông Lưu Xuân nh.
- Bùi Thị Luyến.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Tân – Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Ngọc Thắng Kiểm sát viên.
Ngày 01 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh,
tỉnh Bình Thuận, xét xử thẩm công khai v án hình sự thẩm thụ số
87/2023/TLST-HS, ngày 29 tháng 12 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét x
số 03/2024/QĐXXST-HS, ngày 16 tháng 01 năm 2024, đối với bị cáo:
Trần Kim N, sinh năm: 1985, ti tỉnh Đ.N. Nơi trú: Xóm X, thôn Y,
Đ.P, huyện T.L, tỉnh B.T; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12;
dân tộc: Kinh; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Kim P và bà
Nguyễn Thị N; vNguyễn Thị Thu H 01 con cháu Trần Kim S, sinh
năm: 2019. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 04/12/2023.
- Bị hại: Đoàn Thị Pha L, sinh năm: 1983, nơi trú: TX, thôn Y,
S.N, huyện Đ.L, tnh B.T;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
2
1. Ông Nguyễn Tuấn N, sinh năm: 1951;
2. Bà Thị S, sinh năm: 1961;
Cùng nơi cư trú: Thôn X, xã Đ.P, huyện T.L, tỉnh B.T.
3. Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm: 1988, nơi cư trú: Thôn X, xã Đ.P, huyện
T.L, tỉnh B.T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu trong hồ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Tại Cáo trạng số 02/CT-VKSND-TL, ngày 28/12/2023, Viện kiểm sát nhân
dân huyện Tánh Linh xác định: Khoảng tháng 4 năm 2023, Trần Kim N biết gia đình
ông Nguyễn Tuấn N đang rao bán 250 cây cao su đang được trồng tại thửa đất thuộc
thôn 4, xã Đức Phú, huyện Tánh Linh, nên N đến hỏi và được vợ, chồng ông N báo
giá 65 triệu đồng, sau khi thương lượng, vợ, chng ông N đồng ý giá bán 64
triệu đồng đề nghị N cưa hạ 01 cây bạch đàn trên đất, N đồng ý nói đi đến ngân
hàng rút tiền để trcho vợ, chồng ông N nhưng thực tế N không đi ngân hàng như
đã nói. Cũng trong thời gian này, N nợ nhiều người và cần tiền để mua cây cảnh bán
kiếm lời, nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của Đoàn Thị Pha L, người thu
mua cây cao su. N gọi điện thoại cho bà L, thông báo có vườn cây cao su của ông N
bán với giá 50 triệu đồng, L đề nghN đưa đi xem và thống nhất với giá mua 50
triệu đồng, N đề nghị L để N cưa hcây kiếm thu nhập thì bà L đồng ý. N yêu cầu
L đặt cọc thì L yêu cu N cho gặp chủ sở hữu vườn cây cao su, nhưng N nói
dối chủ sở hữu đã đi thành phố Hồ Chí Minh, không nhà. Ngày hôm sau, N
gọi điện thoại cho L đnghchuyển tiền đặt cọc vào tài khoản của N, L đã
chuyển cho N số tiền 08 triệu đồng, N chiếm đoạt số tiền này đmua cây cảnh
tiêu sài cá nhân. Vào thời điểm này, ông N đã bán vườn cây cao su cho ông Nguyễn
Văn Minh, sinh năm: 1983, cư trú tại thôn 4, xã Đức Phú với giá 66 triệu đồng.
Ngày 02/5/2023, N tiếp tục gọi điện thoại nói dối L người sở hữu cây
cao su đang cần tiền gấp để giải quyết công việc, yêu cầu bà L giao đủ tiền mua cây
cao su, bà L đề nghị khi nào cưa cây sẽ giao đtiền nhưng N tiếp tục thúc giục và đ
nghị L được bao nhiêu thì đưa bấy nhiêu, L báo chuyển 12 triệu đồng cho
3
tròn số tiền đã giao là 20 triệu và được N đồng ý, đồng thời hẹn đến ngày 04/5/2023
sẽ tiến hành cưa hạ cây cao su cho bà L, sau khi nhận được 12 triệu đồng từ bà L, N
đã chiếm đoạt stiền và sử dụng để mua cây cảnh, tiêu sài cá nhân.
Ngày 03/5/2023, do chưa thấy N cưa cây cao su nên L đã gọi điện thoại
cho N thì được N hứa hẹn ngày 04/5/2023 sẽ tiến hành cưa vây, bà L đồng ý và cam
kết sẽ thanh toán số tiền n lại 30 triệu đồng tại rẫy cây cao su. ng ngày
04/5/2023, L mang theo 30 triệu đồng đi đến rẫy cây cao su của gia đình ông N
nhưng không thy N cưa cây như đã hẹn nên L gọi điện thoại cho N thì được N
yêu cầu đứng đợi. Khi gặp L, N nói dối là máy cưa bị hư đang được sửa, các thợ
phụ đi bốc vác hết và hứa ngày mai sửa máy xong sẽ cưa cây cho bà L, thấy vậy
L đề nghN sử dụng máy cưa của mình để cưa cây nhưng N không đồng ý, đồng thi
nói yêu cầu bà L giao đủ tiền, cam kết ngày mai sẽ cưa cây, nên bà L đồng ý và giao
cho N 30 triệu đồng, L cũng yêu cầu việc cưa cây phải được tiến hành vào ngày
mai. Sau nhiều lần ơng thượng, N đồng ý viết giấy hứa hẹn vi L ngày
08/5/2023 sẽ tiến hành việc cưa cây, nếu không N sẽ bồi thường gấp đôi. Đến ngày
09/5/2023, do không thấy N cưa cây cao su cho mình, bà L đã gọi điện thoại và hn
gặp N tại một quán phê tại xã NghĐức để trao đổi, tại đây, N thừa nhận đã chiếm
đoạt số tiền 50 triệu đồng của bà L để đi mua cây cảnh và tiêu sài cá nhân, nên bà L
yêu cầu N viết giấy cam kết đến ngày 12/5/2023 sẽ trả hết 50 triệu đồng và trả thêm
cho bà L 10 triệu đồng. Tuy nhiên, đến ngày 12/5/2023, do không thy N trtin nên
bà L đã làm đơn tố cáo Trần Kim N về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Căn cứ các tình tiết nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh đã
truy tố bị cáo Trần Kim N về: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm
c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh vẫn giữ N
nội dung Cáo trạng s02/CT-VKSND-TL, ngày 28/12/2023, đề nghị Tòa án áp dụng
điểm c khoản 2 Điều 174, điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ lut
Hình sự, tuyên bố bị cáo Trần Kim N phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, xử
phạt bị cáo N từ 15 đến 18 tháng , thời hạn chấp hành hình phạt được tính t
ngày 04/12/2023.
Trong quá trình điều tra, truy tố tại phiên tòa, bị cáo Trần Kim N thừa nhận
4
hành vi phạm tội như tả tại bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh
Linh.
Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị hại là bà Đoàn Thị Pha L
xác định nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh nêu
về quá trình thực hiện hành vi phạm tội ca bị cáo Nđúng như những được biết,
được chứng kiến khai báo. L khẳng định đã được gia đình bcáo bồi thường
số tiền 50 triệu đồng nên không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm bất kỳ khoản
tiền nào khác, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Trong quá trình điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Tuấn
N, Thị S trình bày về nội dung vụ án đúng như xác định của bản cáo trạng của
Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh.
Tại phiên tòa, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Thu
H xác định H không tham gia, không biết hành vi mà bị cáo N đã thực hiện, đồng
thi đã bồi thường, khắc phục thiệt hại với số tiền 50 triệu đồng cho Đoàn Thị Pha
L, số tiền này là tài sản chung của vợ, chồng. Theo yêu cầu của bị cáo, bà H đã tiến
hành giao số tiền này cho bà L. Bà H không yêu cầu Hội đồng xét xử gii quyết vấn
đề gì đối với khoản tiền đã bồi thường cho bị hại.
Lời nói sau cùng, bị cáo N xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt
để bị cáo sớm được quay lại đời sống, trở thành công dân tốt cho xã hội, chăm lo cho
gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào c tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đưc
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xnhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định t tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tánh
Linh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh, Kiểm sát viên trong
quá trình điều tra, truy tđã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo,
bị hại người tham gia ttụng khác không ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi,
quyết định của quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành
vi, quyết định tố tụng ca cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tng đã thực
hin phù hợp với quy định của pháp luật.
5
[2] Ông Nguyễn Tuấn N và bà Thị S không có mặt tại phiên tòa nhưng đã
cung cấp lời khai svắng mặt này không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án,
trên cơ sở ý kiến của những người tham gia ttụng có mặt tại phiên tòa, ý kiến của
đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh tham gia phiên tòa, Hội đồng xét
xử áp dụng Điu 292 Bluật Tố tụng hình sự, xét xử vụ án vắng mặt ông N và bà S.
[3] Tại Kết luận điều tra số 81, ngày 11/12/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an huyện Tánh Linh xác định, N lợi dụng sự quen biết với bà L nghe được
thông tin ông N rao bán 250 cây cao su nên đã dn bà L đi xem cây, bà L thông báo
cho N biết sẽ mua số cây này với giá 50 triệu đồng. Sau đó, N chủ động tìm đến nhà
và gặp ông N để trao đổi giá, được thông báo giá bán số cây cao su là 64 triệu đồng
N cưa hạ cho vợ, chồng ông N 01 cây bạch đàn. Tuy nhiên, theo Cáo trạng số
02/CT-VKSND-TL, ngày 28/12/2023, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh,
xác định, N biết được gia đình ông N rao bán 250 y cao su nên đến nhà gặp vợ,
chồng ông N để hỏi mua thì được báo giá là 64 triệu đồng, và N cưa hạ 01 cây bạch
đàn. Do đang nợ nhiều người và cần tiền mua cây cảnh bán kiếm lời, N đã nảy sinh
ý định chiếm đoạt tiền của bà Đoàn Thị Pha L, N gọi điện thoại cho L nói vườn
cao su của ông N bán với giá 50 triệu đồng, thì L đề nghị được đi xem, sau đó
thống nhất mua với giá 50 triệu đồng. Như vậy, kết luận điều tra của Cơ quan Cnh
sát điều tra Công an huyện và cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh
mâu thuẫn về trình tự hành vi mà bị cáo thực hiện. Do lời khai của ông N, bà S, bà L
đều không xác định chính xác ngày mà bị cáo N trao đổi, lương lượng, chỉ xác định
được khoảng cuối tháng 4 năm 2023. Trong khi đó, tại các biên bản hỏi cung bị can
ngày 28/9/2023 (Bút lục số 54 đến 58), Biên bản đối chất ngày 17/10/2023 (Bút lục
số 60 đến 64), Biên bản ghi lời khai ngày 07/8/2023 (Bút lục số 69 đến 71), Bản tự
khai ngày 05/12/2023 (Bút lục số 77), ngày 20/7/2023 (Bút lục số 83), tại phiên
tòa, bị cáo N xác định bị cáo liên hệ và thỏa thuận giá mua với vợ, chồng ông N,
S, sau đó mới liên hệ vi bà L để bán vườn cây cao su của vợ, chồng ông N. Nên Hội
đồng xét xử xác định bcáo đã trao đổi, thưởng lượng mua, bán cây cao su với v,
chồng ông N, rồi mới liên hệ với bà L, vì bị cáo biết L là người thu mua cây cao
su, và bản thân bị cáo vi L cũng đã từng quen biết, giới thiệu L mua cây cao
su trước đó.
[4] Theo hồ vụ án, bị cáo xác định số tiền bị cáo thỏa thuận với ông
6
Nguyễn Tuấn N để mua vườn cây cao su không thống nhất, có lúc bị cáo trình bày
là 50 triệu đồng (Bút lục số 52, 55, 58, 61, 66, 68, 69, 72, 74, 77, 78, 80, 82, 83, 84,
85), có lúc bị cáo trình bày là 54 triệu đồng (Bút lục số 57), có lúc bị cáo trình bày là
64 triệu đồng (Bút lục số 156), ông Nguyễn Tuấn N trình bày số tiền ông đưa ra
để bán vườn cây cao su cho bị cáo cũng không thống nhất, khi là 54 triệu đồng (Bút
lục số 66), khi là 64 triệu đồng (Bút lục số 135, 136, 138, 139, 142), bà Võ Thị S, là
vợ của ông N, xác định số tin mà vợ, chồng bà thông báo cho bị cáo N khi hỏi mua
ờn cây cao su là 64 triệu đồng (Bút lục số 147). do cho sự mâu thuẫn này, bị
cáo trình bày do nhầm lẫn trong quá trình khai báo với người tiến hành tố tụng,
ông N trình bàydo là tuổi cao, có lúc bị nhầm lẫn, và stin thực tế khi bán vườn
cây cao su cho ông Nguyễn Văn Minh 56 triệu đồng nên khai báo không chính
xác. Tại phiên tòa, bcáo N xác định stiền mua vườn cây cao su các bên đã
thương lượng 65 triệu đồng, ông N, S đề nghị bị cáo N cưa hạ 01 cây bạch
đàn thì giảm xuống còn 64 triệu đồng.
[5] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo N và bị hại là bà L
đều thống nhất xác định bị cáo là người đứng ra bán vườn cây cao su cho bhại, và
số tiền mà bị cáo và bị hại thống nhất mua, bán vườn cây cao su là 50 triệu đồng, b
hại cho thêm 02 triệu đồng khoán việc cưa cây cao su đã mua cho bcáo, đồng
thi bà L đã thanh toán 03 lần với tổng số tiền là 50 triệu đồng (một lần 8 triệu đồng,
một lần 12 triệu đồng và một lần 30 triệu đồng) và bị cáo đã nhận stiền này. Bị cáo
N thừa nhận, sau mỗi lần nhận tiền, bị cáo đều sử dụng tiền để mua cây cảnh và tiêu
sài nhân. Sau khi thương lượng và thống nhất giá mua, bán vườn cây cao su vi
bà L, bị cáo không liên hệ với với vợ, chồng ông N, bà S, biết rõ giá mua, bán mà
bị cáo L thống nht thấp hơn giá bán của vợ, chồng ông N, S đưa ra.
Đồng thời, vợ chng ông N cũng đã bán vườn cây cao su này cho ông Nguyễn Văn
Minh với giá là 66 triệu đồng, sau đó điều chỉnh giảm xuống còn 56 triệu đồng. Ông
Minh đã thực hiện việc khai thác số cây cao su này.
[6] Như vậy, đủ cơ sở để xác định, bị cáo Trần Kim N sau khi biết và hỏi giá
bán vườn cây cao su của ông Nguyễn Tuấn N và bà Thị S, đã liên hvới bà Đoàn
Thị Pha L để bán lại, mặc biết rõ giá mua của bà L là thấp hơn giá bán mà ông N,
bà S đưa ra, giữa bị cáo và ông N, bà S chưa xác lập việc mua, bán chuyển quyền sở
hữu tài sản cho bị cáo, nhưng do mong muốn chiếm đoạt 50 triệu đồng của bà L, nên
7
bị cáo đã đồng ý với bà L, nhằm làm cho bà L tin tưởng rằng đã mua được vườn cây
cao su, mặc dù, không còn liên hệ với vợ, chồng ông N, S nhưng bị cáo N liên tục
hối thúc, đưa ra các thông tin sai sự thật và yêu cầu bà L chuyển tin mua cây cho bị
cáo, sau khi nhận được tiền mua cây từ L, bcáo đã sử dụng vào mục đích
nhân.
[7] Bị cáo, người đầy đnăng lực trách nhiệm hình sự, đã dùng thủ đon
gian dối, cung cấp các thông tin không đúng stht, để L tin ởng giao 50
triệu đồng cho bị cáo, sau đó bị cáo đã chiếm đoạt số tiền này sdụng vào mục đích
cá nhân, hành vi của bị cáo đã phm vào tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy
định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự. Hành vi bcáo Trần Kim N
đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản
của công dân, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình xã hội tại địa phương, nên cần thiết
phải cách ly bị cáo khỏi đời sống hội một thời gian đgiáo dục, cải tạo bị cáo
thành công dân tốt cho xã hội, đồng thời răn đe phòng ngừa tội phạm chung.
[8] Mặc dù trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo đã có những lời khai khác
nhau, tuy nhiên, tại phiên tòa, lời khai của bị cáo khớp với nội dung trình bày của b
hại, người tham gia tố tụng khác, thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải vhành
vi phạm tội của mình, bị cáo đã tác động gia đình khắc phục thiệt hại, bị hại đề nghị
Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đây những tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình
sự. Bị cáo không tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình stheo quy định tại Điu
52 Bộ luật Hình sự. Do bị cáo 02 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1
Điều 51 Bluật Hình snên Hội đồng xét xáp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự,
quyết định hình phạt đối với bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp
dụng.
[9] Bị cáo trình bày toàn bộ các cây cảnh mà bị cáo sử dụng tiền chiếm đoạt
của L để mua hin đã bán, một số bị chết, một số ít đã tặng, cho người khác. Bị
cáo cũng không nhớ đã bán cho ai, loại cây gì. Cơ quan Cảnh sát điều tra không
thu hồi được tài sản mà bị cáo dùng tiền chiếm đoạt của bà L để mua, nên Hội đồng
xét xử không căn cứ để xử lý.
[10] Về trách nhiệm dân sự, bị hại Đoàn Thị Pha L xác định đã nhn
8
được tiền bồi thường 50 triệu đồng của gia đình bị cáo, bà L không yêu cầu gì thêm
nên Hội đồng xét xkhông xem xét. Bà Nguyễn Thị Thu H cũng không yêu cầu giải
quyết đối với khoản tiền 50 triệu đồng mà đã bồi thường cho bà L nên Hội đồng
xét xử không xem xét.
[11] Do được xác định tội nên bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí
hình sự thẩm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 Ngh quyết số
326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Tuyên bố: Bị cáo Trần Kim N phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp
dụng điểm c khoản 2 Điều 174, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ
luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Kim N: 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời gian
chấp hành hình phạt tính tngày bị cáo bị bắt tạm giam (ngày 04 tháng 12 năm
2023).
Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bluật Tố tụng hình sư, điểm a khoản 1 Điều 23
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016, bcáo Trn Kim N phải chịu
200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Thời hạn kháng cáo đối với bản án thẩm 15 ngày ktừ ngày tuyên án.
Đối với đương svắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận
được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Nơi nhận:
- Bị cáo;
- Đương sự;
- VKSND huyện Tánh Linh;
- VKSND tỉnh Bình Thuận;
- CQCSĐT Công an huyện
Tánh Linh;
- TTV phụ trách THAHS;
- NTG CA huyện Tánh Linh;
- UBND Đức Phú, huyện
Tánh Linh (thay t/báo);
- Lưu: VT; HS vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN – CHTỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Phan Đình Phú
Tải về
Bản án số 06/2024/HS-ST Bản án số 06/2024/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất