Bản án số 01/2024/HS-ST ngày 29/10/2024 của TAND huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 01/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 01/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 01/2024/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 01/2024/HS-ST ngày 29/10/2024 của TAND huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh |
---|---|
Tội danh: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Tiểu Cần (TAND tỉnh Trà Vinh) |
Số hiệu: | 01/2024/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 29/10/2024 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | đánh bạc |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH TRÀ VINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lâm Thị Mai Xuân
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Bà Trang Thị Cẩm Nhuần
2. Bà Nguyễn Thị Hồng Nhung
- Thư ký phiên tòa: Bà Huỳnh Thị Huyền Trân - Thư ký Tòa án nhân dân
huyện T, tỉnh Trà Vinh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Trà Vinh tham gia
phiên tòa: Ông Nguyễn Hoài Linh - Kiểm sát viên.
Trong ngày 29 tháng 10 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh
Trà Vinh tiến hành xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:
02/2024/HSST ngày 07 tháng 10 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử
số: 01/2024/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 10 năm 2024 đối với:
Bị cáo: Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1987; tại tỉnh Trà Vinh; nơi cư trú: Ấp B,
xã P, huyện T, tỉnh Trà Vinh; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình đ văn hóa: 10/12;
Dân tc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông
Nguyễn V H, sinh năm 1966 và bà Cao Thị L A, sinh năm 1967; Có vợ là Vũ Th
T, sinh năm 1994; Con rut: 02 người (nam), lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất
sinh năm 2023; Anh, chị, em rut: 02 người, bao gồm luôn bị can, lớn nhất là bị
can, nhỏ nhất sinh năm 1988; Tiền án: không; Tiền sự: 01 (mt): ngày
16/02/2023, Công an thị trấn T ra Quyết định xử phạt hành chính số: 02/QĐ-
XPHC về hành vi “Đánh bạc” với số tiền 1.500.000 đồng (chưa chấp hành việc
np phạt); Bị cáo bị áp dụng Bện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ
07/5/2024 cho đến nay tại ấp B, xã P, huyện T, tỉnh Trà Vinh (Bị cáo có mặt tại
phiên tòa).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1/ Nguyễn N T, sinh năm 1988 (Vắng mặt);
Nơi cư trú: Ấp T, xã H, huyện T, tỉnh Trà Vinh.
2/ Trương H V, sinh năm 1997 (Vắng mặt);
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN T
TỈNH TRÀ VINH
Bản án số: 01 /2024/HS-ST
Ngày: 29-10-2024
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
Nơi cư trú: Ấp T, xã H, huyện T, tỉnh Trà Vinh.
3/ Nguyễn C C, sinh năm 1990 (Vắng mặt);
Nơi cư trú: Ấp T, xã H, huyện T, tỉnh Trà Vinh.
4/ Trần M D, sinh năm 1981(Vắng mặt);
Nơi cư trú: Ấp T, xã H, huyện T, tỉnh Trà Vinh.
5/ Nguyễn Đ L, sinh năm 1986 (Vắng mặt);
Nơi cư trú: Ấp T, xã H, huyện T, tỉnh Trà Vinh.
6/ Trương V M, sinh năm 1973 (Vắng mặt);
Nơi cư trú: Ấp T, xã H, huyện T, tỉnh Trà Vinh.
7/ Bùi Văn B, sinh năm 1990 (Vắng mặt);
Nơi cư trú: Ấp T, xã H, huyện T, tỉnh Trà Vinh.
8/ Huỳnh Tấn P, sinh năm 1974 (Vắng mặt);
Nơi cư trú: Ấp K, xã H, huyện T, tỉnh Trà Vinh.
9/ Trần Vĩnh N, sinh năm 2000 (Có đơn xin vắng mặt);
Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
10/ Lê Trung C1, sinh năm 1984 (Có đơn xin vắng mặt);
Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn Bến tại phiên tòa, ni dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 13 giờ 00 phút ngày 09/02/2024, Công an huyện T nhận được tin
báo từ quần chúng nhân dân tại khu vực vườn dừa trên phần đất giáp ranh của
ông Nguyễn Văn T và ông Nguyễn Văn N cư trú ấp T, xã H, huyện T, tỉnh Trà
Vinh có nhiều đối tượng đang đánh bạc được, thua bằng tiền dưới hình thức đá
gà. Nhận được nguồn tin, Công an huyện T tiến hành kiểm tra địa điểm nêu trên
thì có khoảng từ 20 – 30 người nhưng nhiều đối tượng bỏ chạy, tại hiện T chỉ
còn lại 03 (ba) đối tượng gồm: Nguyễn N T, Nguyễn Đ L, Lê Trung C; cùng cư
trú ấp T, xã H, huyện T, tỉnh Trà V nên tiến hành lập Bên bản sự việc. Tại hiện
trường, Công an huyện T tạm giữ 01 (mt) con gà trống cân nặng 3,2kg và các
đồ vật, dụng cụ có liên quan đến việc đánh bạc. Tạm giữ trên người của T, L và
C số tiền 13.326.000 đồng cùng 03 (ba) điện thoại di đng. Tại Cơ quan Cảnh
sát điều tra Công an huyện T thì Nguyễn N T, Nguyễn Đ L, Lê Trung C,
Nguyễn Văn Đ đã khai nhận:
Vào khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 09/02/2024, T tự đứng ra tổ chức việc
đánh bạc được, thua bằng tiền dưới hình thức đá gà để thu tiền xâu. Để thực hiện
3
hành vi, T đứng ra làm trọng tài để phân định thắng thua, cung cấp cân, băng
keo, cựa gà. T đã tự sử dụng điện thoại di đng nhãn hiệu OPPO màu đen, màn
hình cảm ứng, trên điện thoại gắn sim có số thuê bao 0964922733 để gọi điện
liên lạc với Nguyễn C C, Trương H V; cùng cư trú ấp T, xã H, huyện T, tỉnh Trà
V; Huỳnh Tấn P, cư trú Ấp K, xã H, huyện T, tỉnh Trà V; Trần Vĩnh N, cư trú
Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Trà V và bị cáo Nguyễn Văn Đ, cư trú ấp B, xã P,
huyện T, tỉnh Trà V hẹn đến khu vực vườn dừa trên phần đất giáp ranh của ông
T và ông N tại ấp T, xã H, huyện T để cáp kèo cho các bên có gà tham gia đánh
bạc (đá gà) với nhau. Thỏa thuận số tiền của từng trận gà để thu tiền xâu, nếu
tổng số tiền đá sổ và đá giao hữu là 1.000.000 đồng thì T sẽ lấy tiền xâu 100.000
đồng.
Trong ngày 09/02/2024, T đã tổ chức được 03 (ba) trận gà:
- Trận gà thứ nhất: Thỏa thuận gà Tây Ban Nha (lông màu trắng – đỏ),
trọng lượng 2,8kg của Trương H V sẽ đá đồng với gà điều bông (lông màu đỏ -
trắng – đen), trọng lượng 2,8kg của Nguyễn C C. Thống nhất đá sổ 600.000
đồng, đá giao hữu 1.000.000 đồng và xác gà là 200.000 đồng, bên nào thua cuc
nếu chuc lại xác gà thì sẽ đưa tiền cho bên thắng cuc. Bên gà của V chỉ có V
tham gia đặt cược. Bên gà của C thì C tham gia số tiền 600.000 đồng, L tham
gia 500.000 đồng, mt người thanh niên lạ mặt (không xác định được họ tên, địa
chỉ) trong khu vực đánh bạc tham gia số tiền 500.000 đồng. Sau đó, T cung cấp
cựa và băng keo để cho C quấn cựa, thả gà. Gà bên V do ông Trương V M, cư
trú ấp T, xã H, huyện T, tỉnh Trà V ôm gà để V quấn cựa và thả gà (ông M là
cha rut của V). Kết quả, bên gà của V thắng cược, T gom tiền bên gà của C là
1.600.000 đồng, lấy tiền xâu 150.000 đồng, còn lại 1.450.000 đồng T đưa cho V,
xác gà thì V lấy vì C không chuc xác gà. Tổng số tiền đánh bạc của trận gà thứ
nhất là 3.600.000 đồng.
- Trận gà thứ hai: Gà khét (lông màu vàng) cân nặng 2,9kg của Huỳnh Tấn
P đá đồng với gà chuối (lông màu xanh – trắng – đen) cân nặng 2,9kg của người
thanh niên lạ mặt tại địa điểm đánh bạc (không xác định được họ tên, địa chỉ).
Thống nhất đá sổ 600.000 đồng, đá giao hữu 1.000.000 đồng và xác gà là
200.000 đồng, bên nào thua cuc nếu chuc lại xác gà thì sẽ đưa tiền cho bên
thắng cuc. Sau đó, T cung cấp băng keo, cựa cho hai bên chủ gà. Bên gà của P
chỉ có P tham gia đặt cược. Bên gà của người thanh niên lạ mặt thì có L tham
gia hùn số tiền 500.000 đồng. Sau khi thỏa thuận xong thì người thanh niên tên
T1 (không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể) trồng cựa và thả gà dùm P, còn C thì trồng
cựa và thả gà dùm cho người thanh niên lạ mặt. Kết quả, bên gà của P thắng
cược, T gom tiền bên gà của người thanh niên lạ mặt là 1.600.000 đồng, lấy tiền
xâu 150.000 đồng, còn lại 1.450.000 đồng T đưa cho P, xác gà thì P lấy vì người
thanh niên lạ mặt không có chuc xác gà. Tổng số tiền đánh bạc của trận gà thứ
hai là 3.600.000 đồng.
- Trận gà thứ ba: Gà bướm (lông màu trắng – đen) cân nặng 2,5kg của bị
cáo Nguyễn Văn Đ đá đồng với gà điều đỏ (lông màu đen – đỏ) cân nặng 2,5kg
của Trần Vĩnh N. Thống nhất đá sổ 600.000 đồng, giao hữu 500.000 đồng và
4
xác gà 200.000 đồng, bên nào thua cuc nếu chuc lại xác gà thì sẽ đưa tiền cho
bên thắng cuc. Sau đó, T cung cấp băng keo, cựa gà cho hai bên chủ gà tự
trồng cựa và thả gà. Hai bên chủ gà tự cược tiền với nhau, không có ai tham gia
hùn tiền. Kết quả bên gà của bị cáo Đ thắng cược, T gom tiền của N là
1.100.000 đồng, lấy tiền xâu 100.000 đồng, còn lại 1.000.000 đồng T đưa cho Đ,
xác gà thì N lấy và đưa cho Đ số tiền 200.000 đồng. Tổng số tiền đánh bạc của
trận gà thứ ba là 2.600.000 đồng.
- Trận gà thứ tư: Sau khi trận gà thứ ba kết thúc, T chuẩn bị cân gà để cáp
kèo cho hai chủ gà do những người có mặt tại địa điểm đánh bạc điện thoại kêu
đến (T không Bết họ tên và địa chỉ cụ thể của hai chủ gà) thì Công an huyện T
phát hiện sự việc nên các đối tượng ôm tang vật bỏ chạy.
Trong quá trình T tổ chức các trận đá gà thì có nhiều người đứng xem
nhưng có cá cược với nhau không thì T không Bết. Tại trận gà thứ hai thì có các
đối tượng tham gia đá hàng sáu (cá cược riêng không thông qua T) gồm:
- Lê Trung C, cư trú Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Trà V tham gia cá cược với
Trần M D, cư trú Ấp T, xã H, huyện T, tỉnh Trà V. C1 cược bên gà của bị can Đ
đá chấp ăn tám số tiền 1.000.000 đồng, nếu C1 thắng cược thì D trả 800.000
đồng, còn thua cược thì chung cho D 1.000.000 đồng. Kết quả, C1 thắng cược
và nhận số tiền 800.000 đồng.
- Bùi Văn B, cư trú ấp T, xã H, huyện T, tỉnh Trà V tham gia cá cược với
người thanh niên (không rõ họ tên) ở xã Tân An, huyện Càng Long, tỉnh Trà V
số tiền 300.000 đồng, B cược theo bên gà của bị can Đ. Kết quả, B thắng cược
và nhận số tiền 300.000 đồng.
Quá trình làm việc, bị cáo Nguyễn Văn Đ khai thừa nhận vào khoảng 09
giờ, ngày 09/02/2024 Nguyễn N T đã điện thoại cho bị cáo hẹn đem gà để đá do
T tổ chức đá gà để cáp kèo đá gà ăn thua bằng tiền với nhau, khoảng 12 giờ
cùng ngày thì bị cáo đem theo 01 con gà trống màu trắng – đen, trọng lượng
khoảng 2,5kg đến khu vực vườn dừa đất trống tại ấp T do T chỉ dẫn để tham gia
cá cược đá gà ăn thua bằng tiền, cụ thể gà của bị cáo Đ được T cáp đá với gà
màu đều đỏ của người tên N, T đứng ra làm trọng tài giao ước đá sổ 600.000
đồng, giao hữu 500.000 đồng và xác gà 200.000 đồng, kết quả gà của bị cáo Đ
thắng nên T lấy của N số tiền là 1.300.000 đồng đưa lại cho bị cáo Đ 1.200.000
đồng, T lấy 100.000 đồng tiền xâu, sau đó bị cáo Đ ôm gà ra về không tiếp tục đá
nữa, sau đó được cơ quan công an mời làm việc. Số tiền mà bị cáo Đ sử dụng dùng
vào việc đánh bạc và thắng bạc của từng trận gà tổng cng là 2.600.000 đồng, dưới
mức định lượng 5.000.000 đồng, chưa đủ định lượng để cấu thành ti “Đánh bạc”
quy định tại Điều 321 B luật Hình sự. Tuy nhiên, ngày 16/02/2023, Nguyễn Văn
Đ bị Công an thị trấn Tra Quyết định xử phạt hành chính số: 02/QĐ-XPHC về
hành vi “Đánh bạc” với số tiền 1.500.000 đồng, chưa chấp hành xong việc np phạt
và chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi
phạm theo khoản 1 Điều 7 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Do đó, hành vi “Đánh
5
bạc” vào ngày 09/02/2024 của Nguyễn Văn Đđã cấu thành ti “Đánh bạc” quy
định tại khoản 1 Điều 321 B luật Hình sự.
Tại Cáo trạng số: 44/CT-VKS-HS ngày 02/10/2024, Viện kiểm sát nhân
dân huyện T, tỉnh Trà V đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ về ti “Đánh bạc” theo
khoản 1 Điều 321 B luật Hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Văn Đ đã khai nhận hành vi phạm
ti của mình như ni dung cáo trạng đã truy tố. Trong quá trình tiến hành tố tụng
tại cơ quan điều tra bị cáo không bị bức cung, không bị cưỡng ép, lời khai của bị
cáo là tự giác, đúng với hành vi phạm ti của bị cáo.
Qua tranh luận công khai, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tthực
hiện quyền công tố giữ nguyên cáo trạng đã truy tố, kết luận và đề nghị Hi
đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm ti “Đánh bạc” theo quy định
tại khoản 1 Điều 321 B luật Hình sự. Sau khi phân tích ni dung vụ án, hành vi
phạm ti của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối
với bị cáo, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tđề nghị Hi đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 50, Điều 65
B luật Hình sự.
Phạt bị cáo từ 06 (Sáu) tháng đến 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án
treo. Thời gian thử thách từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng. Đề nghị giao bị cáo
Nguyễn Văn Đ cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện T, tỉnh Trà V giám sát, giáo
dục trong thời gian thử thách.
- Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hi đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều
321 B luật Hình sự, phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Văn Đ số tiền từ 10.000.000
đồng đến 15.000.000 đồng sung vào ngân sách Nhà nước.
- Về vật chứng và xử lý vật chứng, Bện pháp tư pháp:
Áp dụng Điều 47 B luật Hình sự, Điều 106 B luật Tố tụng hình sự, đề
nghị Hi đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy:
+ 04 (bốn) b lắc bầu cua; 01 (mt) bình nước màu xanh hiệu ADC; 03 (ba)
giỏ xách đệm dùng để đựng gà cơ quan điều tra đã không xác định được chủ sở
hữu;
+ 07 (bảy) b cựa sắt; 06 (sáu) đoạn băng keo trắng, đã qua sử dụng; 08 (tám)
cun băng keo đã qua sử dụng; 01 (mt) chai nước hiệu Pepsi, dùng để vẽ vòng
tròn cho việc đánh bạc các đồ vật này là của Nguyễn N T phục vụ cho việc tổ chức
đánh bạc.
Đề nghị Hi đồng xét xử tuyên tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 (mt)
cân đồng hồ nhãn hiệu N H loại 05kg của Nguyễn N T.
Đề nghị Hi đồng xét xử tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 2.500.000
đồng mà bị cáo Nguyễn Văn Đ dùng đánh bạc và thắng bạc có được đã giao np,
Cơ quan điều tra đã tạm gửi vào tài khoản mở tại Kho bạc Nhà nước huyện T, tỉnh
Trà Vinh.
6
- Về án phí: Đề nghị Hi đồng xét xử áp dụng Điều 136 B luật Tố tụng
hình sự 2015 và Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hi quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu np, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buc bị cáo Nguyễn Văn Đ
phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo Nguyễn Văn Đ thống nhất với quan điểm luận ti của vị đại diện
Viện kiểm sát nhân dân huyện T, không tranh luận với Kiểm sát viên.
Lời nói sau cùng của bị cáo Nguyễn Văn Đ: Bị cáo đã ăn năn hối hận về
hành vi phạm ti của mình, bị cáo hứa không tham gia đánh bạc trái phép nữa,
xin Hi đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở ni dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hi đồng xét xử nhận định sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan gồm: Nguyễn N T, Trương H V, Nguyễn C C, Trần M D, Nguyễn Đ
L, Trương V M, Bùi Văn B, Huỳnh Tấn P đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng
mặt không có lý do; đối với Trần Vĩnh N, Lê Trung C1 có đơn xin xét xử vắng
mặt. Tuy nhiên, việc vắng mặt của những người này không làm ảnh hưởng đến
việc xét xử vụ án nên căn cứ Điều 292, Điều 293 B luật Tố tụng hình sự năm
2015. Hi đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan.
[2] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an
huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên:
Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự,
thủ tục theo quy định của B luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên
tòa hôm nay bị cáo không có khiếu nại, không có ý kiến nào khác phản đối các
quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và hành vi của người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng. Do đó, Hi đồng xét xử xác định các quyết định tố tụng của
Cơ quan tiến hành tố tụng, hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định.
[3] Về hành vi và ti danh của bị cáo Nguyễn Văn Đ:
Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Văn Đ đã khai, hoàn toàn thừa nhận
hành vi đánh bạc (đá gà ăn thua bằng tiền). Xét lời khai nhận ti của bị cáo trong
quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với Bên bản sự việc, biên bản
khám nghiệm hiện trường, các vật chứng thu giữ, phù hợp với bản tự khai, lời
khai của bị cáo, người có liên quan, người làm chứng tại cơ quan điều tra, phù
hợp với cáo trạng đã truy tố bị cáo thể hiện bị cáo và các con bạc đã có hành vi
đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền. Mặc dù tại thời điểm đánh bạc bị phát hiện, bị
cáo Nguyễn Văn Đ và các con bạc sử dụng số tiền để đánh bạc chưa đủ định
7
lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng do bị cáo Nguyễn Văn Đ đã bị
Công an thị trấn T ra Quyết định xử phạt hành chính số: 02/QĐ-XPHC về hành vi
“Đánh bạc” với số tiền 1.500.000 đồng, quyết định xử phạt của Công an thị trấn T
là có căn cứ đúng quy định, bị cáo Đ không khiếu nại, khiếu kiện nhưng bị cáo
chưa np phạt số tiền trên và chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi
phạm hành chính mà còn vi phạm theo khoản 1 Điều 7 Luật Xử lý vi phạm hành
chính nên hành vi của bị cáo phạm ti “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1
Điều 321 B luật Hình sự. Như vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân
huyện T, tỉnh Trà Vinh truy tố bị cáo là có đủ cơ sở, đúng người, đúng ti, đúng
pháp luật. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố bị cáo,
kết luận và đề nghị tuyên bố bị cáo bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm ti “Đánh bạc”
theo quy định tại khoản 1 Điều 321 B luật Hình sự là có căn cứ, đúng người,
đúng ti, không oan sai đối với bị cáo. Như vậy, Hi đồng xét xử có đủ cơ sở kết
luận bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm ti “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều
321 B luật Hình sự.
[4] Xét thấy hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Đ thể hiện tính trái pháp luật,
nguy hiểm cho xã hi với lỗi cố ý trực tiếp. Khi thực hiện hành vi phạm ti, bị
cáo nhận thức được hành vi của mình, nhưng do vụ lợi bị cáo và các con bạc
khác đã cáp đ đá gà ăn thua bằng tiền nhằm chiếm đoạt tiền của nhau; hành vi
đó thể hiện ý thức xem thường pháp luật, gây mất trật tự, trị an địa phương, vi
phạm quy định của pháp luật hình sự. Khi thực hiện hành vi phạm ti bị cáo có
năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Trước khi bị
khởi tố, bị cáo đã bị Công an thị trấn T, tỉnh Trà Vinh ra Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính ngày 16/02/2023 với hình thức phạt tiền là 1.500.000 đồng về
hành vi đánh bạc trái phép, chưa hết thời hạn được xem là không có tiền sự
nhưng bị cáo không từ bỏ việc đánh bạc ăn tiền trái quy định pháp luật. Như
vậy, bị cáo nhận thức được việc đánh bạc (đá gà) ăn thua bằng tiền là vi phạm
pháp luật, bị xử lý hình sự nhưng bị cáo vẫn bất chấp, vẫn tiếp tục thưc hành vi
phạm ti với lỗi cố ý trực tiếp.
[5] Bị cáo Nguyễn Văn Đ không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm ti lần đầu, thuc T hợp
ít nghiêm trọng, khi bị bắt giữ đã thật thà khai báo và thành khẩn nhận ti tại
phiên tòa hôm nay, bị cáo có ông ni tên Nguyễn Văn G được Nhà nước tặng
thưởng Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng ba, Huân chương chiến thắng hạng
ba. Bị cáo tự nguyện giao np lại số tiền dùng đánh bạc và số tiền thu lợi bất
chính từ việc đánh bạc. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị
cáo theo quy định tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 B luật Hình sự. Do bị cáo
không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng nếu
không bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù thì không gây ảnh hưởng xấu đến
việc đấu tranh phòng, chống ti phạm nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi
xã hi mà cho bị cáo hưởng án treo như quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân
huyện T cũng đủ để giáo dục bản thân bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hi.
8
[6] Đối với hành vi của các đối tượng Nguyễn N T, Trương H V, Nguyễn C
C, Trần M D, Nguyễn Đ L, Trương V M, Bùi Văn B, Huỳnh Tấn P, Trần Vĩnh
N, Lê Trung C1 có tham gia đánh bạc không đủ yếu tố cấu thành ti phạm nên
Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
[7] Đối với ông Nguyễn Văn T2 và ông Nguyễn Văn N1 không biết bị cáo Đ
và các đối tượng đánh bạc trong phần đất do mình quản lý nên không có cơ sở
để xử lý.
[8] Về vật chứng và xử lý vật chứng, các Bện pháp tư pháp:
Đối với vật chứng phạm ti nêu trên theo đề nghị của Viện kiểm sát là có
căn cứ:
Hiện C cục Thi hành án dân sự huyện Tđang tạm giữ: + 04 (bốn) b lắc bầu
cua, 01 (mt) bình nước màu xanh hiệu ADC, 03 (ba) giỏ xách đệm dùng để đựng
gà không xác định được chủ sở hữu; + 07 (bảy) b cựa sắt; 06 (sáu) đoạn băng keo
trắng, đã qua sử dụng; 08 (tám) cun băng keo đã qua sử dụng, 01 (mt) chai nước
hiệu Pepsi của Nguyễn N T. Đây là các vật chứng, tang vật dùng đánh bạc nên
tịch thu tiêu hủy.
Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 (mt) cân đồng hồ nhãn hiệu N H loại
05kg của Nguyễn N T
Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 2.500.000 đồng của bị cáo Nguyễn
Văn Đ dùng đánh bạc và thắng bạc giao np lại, Cơ quan điều tra đã tạm gửi vào
tài khoản mở tại Kho bạc Nhà nước huyện T, tỉnh Trà V.
[9] Về án phí: Áp dụng Điều 136 B luật Tố tụng hình sự 2015 và Điều 23
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hi quy định về mức thu, miễn, giảm, thu np, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án. Buc bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm
theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Về ti danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm ti “Đánh bạc”
2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều
51; Điều 50; Điều 65 B luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo,
thời gian thử thách là 01 (mt) năm tính từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Nguyễn Văn Đ cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện T, tỉnh Trà V
giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án
treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật
thi Hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý
vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buc người được
9
hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Về hình phạt bổ sung: Buc bị cáo Nguyễn Văn Đ np phạt số tiền
10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước.
3. Về vật chứng, xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 B luật Hình
sự; áp dụng Điều 106 B luật Tố tụng hình sự 2015.
- Tuyên tịch thu tiêu hủy:
+ 04 (bốn) b lắc bầu cua; 01 (mt) bình nước màu xanh hiệu ADC; 03 (ba)
giỏ xách đệm dùng để đựng gà;
+ 07 (bảy) b cựa sắt; 06 (sáu) đoạn băng keo trắng, đã qua sử dụng; 08 (tám)
cun băng keo đã qua sử dụng; 01 (mt) chai nước hiệu Pepsi.
- Tuyên tịch thu 01 (mt) cân đồng hồ nhãn hiệu N H loại 05kg của Nguyễn
N T sung vào ngân sách Nhà nước
- Tuyên tịch thu số tiền 2.500.000 đồng của bị cáo Nguyễn Văn Đ giao np
mà Cơ quan điều tra đã tạm gửi vào tài khoản mở tại Kho bạc Nhà nước huyện T,
tỉnh Trà Vinh sung vào ngân sách Nhà nước.
4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 B luật Tố tụng hình sự 2015 và Điều 23
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hi quy định về mức thu, miễn, giảm, thu np, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án. Buc bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí
hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản
án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đối với người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được
niêm yết công khai theo quy định của pháp luật để xin Tòa án nhân dân tỉnh Trà
Vinh xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự
thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành
án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án
theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Trà V;
- Sở Tư pháp tỉnh Trà V;
- VKSND huyện T;
- CC THADS huyện T;
- Công an huyện T;
- Bị cáo;
- Các đương sự;
- Lưu VP, HS (…)
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TOẠ PHIÊN TÒA
10
Đã ký
Tải về
Bản án số 01/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 01/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 14/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Bản án số 175/2024/HNGĐ-PT ngày 12/12/2024 của TAND TP. Hà Nội về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm