Bản án số 84/2024/DS-ST ngày 29/08/2024 của TAND Q. Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 84/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 84/2024/DS-ST ngày 29/08/2024 của TAND Q. Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Q. Liên Chiểu (TAND TP. Đà Nẵng)
Số hiệu: 84/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 29/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Công ty X khởi kiện Lương Thiện Anh T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
QUẬN LIÊN CHIỂU Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TP. ĐÀ NẴNG
Bản án số: 84/2024/DS-ST
Ngày: 29-8-2024
V/v: “Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU - TP ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Dương Thị Thái
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Văn Cơ
Ông Ngô Văn Sỹ
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Kim Tuyến - Thư Tòa án nhân dân
quận Liên Chiểu.
- Đi din Vin kim st nhân dân qun Liên Chiu tham gia phiên tòa:
Ông Võ Quang Tiến - Kim sát viên.
Trong ngày 29 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu,
thành phố Đà Nẵng xét xử thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 06/2023/TLST-
DS ngày 11/01/2023 vviệc "Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản” theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số 103/2024/QĐXXST-DS ngày 09/8/2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty cổ phần X, trụ sở: Lô A X, phường H, quận H, thành
phố Đà Nẵng. Đại diện theo pháp luật: ông Ngô Tấn L Chức vụ: Tổng giám đốc.
Đại diện theo y quyền: ông Mai Xuân H, sinh năm 1981 (Giấy ủy quyền ngày
21/11/2022 và Giấy ủy quyền ngày 16/01/2023 của ông Ngô Tấn L). Ông H có mặt.
- Bị đơn: Ông Lương Thiện Anh T, sinh năm 1976; địa chỉ: Tổ C, phường
H, quận L, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Ti đơn khởi kin, trong qu trình giải quyết vụ n nguyên đơn và người
đi din theo ủy quyền trình bày:
Ngày 02/10/2019 Công ty cổ phần X (viết tắt Công ty X) ông Lương
Thiện Anh T đã kết Hợp đồng thuê đất số 06/HĐTĐ. Theo đó ng ty X cho ông
T thuê đất số A4, tờ bản đồ số 01, địa chỉ: khu dân Đ, Đ, thị Đ, tỉnh
2
Quảng Nam với gthuê 5 năm đầu tiên 12.000.000đ/tháng, trong 5 năm sau
22.000.000đ/tháng, tiền thuê được thanh toán theo quý trả vào đầu quý. Quá trình
thực hiện hợp đồng, từ ngày 02/5/2021 ông T không thanh toán tiền thuê đất cho đến
nay.
Do vậy, Công ty X yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên chấm dứt Hợp đồng thuê
đất số 06/HĐTĐ; buộc ông Lương Thiện Anh T tháo dỡ toàn bộ tài sản xây dựng
trên đất, bàn giao lại cho nguyên đơn mặt bằng đất số A4, tờ bản đồ số 01, địa
chỉ: khu dân Đ, Đ, thị Đ, tỉnh Quảng Nam thanh toán số tiền thuê tính
từ ngày 02/5/2021 đến 02/8/2024 468.000.000đồng cho nguyên đơn. Tại phiên
tòa, đại diện nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền
468.000.000đồng này.
* Bị đơn ông Lương Thin Anh T vắng mặt ti phiên tòa, nhưng qu trình
giải quyết vụ n đã có ý kiến:
Ông Lương Thiện Anh T thừa nhận việc ký kết hợp đồng thuê đất như trình
bày của đại diện nguyên đơn là đúng và cho rằng sau khi thuê đất bị đơn đã đầu tư
khoảng 2.000.000.000đồng đxây dựng sở hạ tầng trên đất (ông T xác nhận việc
xây dựng không giấy phép). Sau khi thuê đất, do dịch bệnh việc làm ăn của bị
đơn đình trệ, mặt khác từ tháng 5 đến tháng 11 năm 2021 ông T phải vào thành phố
Hồ Chí Minh chăm sóc ba ruột bị bệnh nên không thể về Đà Nẵng thanh toán tiền
thuê đất cho Công ty X được. Đến cuối tháng 11 năm 2021, bị đơn đã đến trụ sở
Công ty B - 9 thanh toán tiền thuê đất nhưng đại diện Công ty X không chịu nhận
tiền. Nay ông T yêu cầu được thanh toán cho Công ty X toàn bộ tiền thuê đất chưa
trả cho đến thời điểm hiện tại đề nghị tiếp tục thực hiện hợp đồng thuê đất để
khôi phục kinh doanh; trường hợp bị buộc chấm dứt hợp đồng thuê đất thì yêu cầu
Công ty B - 9 trả lại cho ông T số tiền đã đầu tư xây dựng hạ tầng trên đất theo kết
quả thẩm định giá là 694.877.724 đồng.
* Ý kiến pht biu của Đi din Vin kim st nhân dân qun Liên Chiu ti
phiên tòa:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm xét
xử đã chấp hành đúng quy định của Bluật tố tụng dân sự, thông báo, gửi các quyết
định cho Viện Kiểm sát các đương sự đúng thời hạn, đúng quy định. Việc tuân
theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa đã thực hiện đúng các quy
định pháp luật. Việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng nguyên đơn
bị đơn đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, Điều 71, 72 Bộ luật tố tụng
n sự. Về nội dung vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 422, 481, 482 của
Bộ luật dân sự để chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
3
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện
Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, Hội đồng xét xử nhận định:
* Về tố tụng:
[1] Nguyên đơn khởi kiện Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản” đối với bị đơn
ông Lương Thiện Anh T địa chỉ thường trú tại phường H, quận L, thành phố
Đà Nẵng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Liên
Chiểu theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1
Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Bị đơn ông Lương Thiện Anh T vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên xét ông
T đang bị tạm giam trong vụ án hình sự có đề nghị xét xvắng mặt nên Hội đồng
xét xtiến hành xét xử ván theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân
sự.
* Về nội dung vụ án:
[1] Đối với yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần X về việc tuyên bố chấm
dứt Hợp đồng thuê đất số HĐ 06/HĐTĐ ngày 02/10/2019, thấy rằng:
Hợp đồng thuê đất số 06/HĐTĐ kết giữa ng ty cổ phần X ông
Lương Thiện Anh T đã tuân thủ quy định của pháp luật về nội dung hình thức
nên các bên tham gia giao dịch có quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng ký kết.
Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn cho rằng bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ
thanh toán tiền thuê đất từ tháng 5 năm 2021 cho đến nay nên yêu cầu chấm dứt hợp
đồng thuê đất mà hai bên đã ký kết. Bị đơn tuy thừa nhận việc chưa thanh toán này
nhưng ý kiến từ tháng 5 năm 2021 đến tháng 11 năm 2021 do bị đơn phải vào
thành phố Hồ Chí Minh chăm sóc ba ruột bị bệnh, đây cũng khoảng thời gian dịch
Covid bùng phát nên không thể có mặt ở Đà Nẵng để thanh toán tiền thuê đất được
và đến cuối tháng 11 năm 2021 bị đơn đã đến trụ sở của nguyên đơn để thanh toán
tiền thuê thì nguyên đơn không chịu nhận nên không đồng ý chấm dứt hợp đồng
yêu cầu được tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Hội đồng xét xử xét thấy: các bên đều thừa nhận từ tháng 5 năm 2021 cho đến
nay ông Lương Thiện Anh T chưa thanh toán tiền thuê đất cho Công ty X. Tuy bị
đơn đưa ra lý do không thanh toán trong khoảng thời gian hơn 6 tháng (từ đầu tháng
5 đến cuối tháng 11) này dịch bệnh không di chuyển được nhưng quá trình giải
quyết vụ án, ông T không cung cấp cho Tòa án chứng cứ để chứng minh do bất
4
khả kháng, cũng như việc Công ty X từ chối nhận tiền thuê vào tháng 11 năm 2021
như đã trình bày. Việc ông Lương Thiện Anh T không thanh toán tiền thuê đất như
thỏa thuận là đã vi phạm nghĩa vụ của bên thuê theo quy định tại Điều 4 Điều 5
của Hợp đồng các bên đã ký kết, vì vậy không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu tiếp
tục thực hiện hợp đồng bị đơn đã đưa ra, cần căn cứ khoản 4 Điều 422, Điều 481
của Bộ luật dân sự để chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc tuyên chấm dứt
hợp đồng thuê đất.
[2] Đối với yêu cầu buộc bị đơn thanh toán số tiền nợ th đất là
468.000.000đồng của nguyên đơn thì thấy:
Quá trình giải quyết vụ án, Công ty X yêu cầu ông Lương Thiện Anh T thanh
toán cho nguyên đơn số tiền thuê đất tính từ ngày 02/5/2021 đến 02/8/2024
468.000.000đồng. Tuy nhiên, tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn cho rằng hiện nay
ông Lương Thiện Anh T đang gặp khó khăn nên tự nguyện hỗ trợ cho ông T phần
tiền thuê đất chưa trả rút yêu cầu khởi kiện stiền này. Xét việc rút mt phần yêu
cầu đối với số tiền 468.000.000đồng của nguyên đơn tự nguyện phù hợp quy
định tại Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự nên cần chấp nhận.
[3] Đối với yêu cầu buộc ông Lương Thiện Anh T tháo dỡ toàn bộ công trình
xây dựng trên đất, trả lại đất của Công ty X:
Các bên đều thừa nhận sau khi thuê đất của Công ty X, ông T đã tiến hành xây
dựng một số công trình trên đất bao gồm: nhà trệt diện tích xây dựng khoảng
238,9m
2
(kết cấu tường xây 110-220, mái tôn, trần đóng laphong, nền gạch men);
mái che di động có diện tích khoảng 220,8 m
2
(khung thép hộp, nền gạch men và xi
măng); tường rào xây (cao 1,7m; dài 13,5m). Theo kết quả thẩm định giá thì các tài
sản này có tổng giá trị là 694.877.724 đồng.
Nguyên đơn cho rằng không có nhu cầu sử dụng các công trình xây dựng trên
đất này nên yêu cầu buộc ông Lương Thiện Anh T tháo dỡ toàn bộ và trả lại đất cho
nguyên đơn. Còn ông T có ý kiến trường hợp buộc trả lại đất thì yêu cầu Công ty X
thối trả cho ông số tiền 694.877.724 đồng.
Xét ý kiến các bên thì thấy: Nguyên đơn yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê đất
vì bị đơn đã vi phạm hợp đồng, cụ thể là vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền thuê; mặt
khác các công trình xây dựng trên đất không được cơ quan có thẩm quyền cấp phép
quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã giải thích, hướng dẫn nhưng ông Lương
Thiện Anh T không làm đơn phản tố đối với nội dung yêu cầu trả tiền này. Do vậy
yêu cầu buộc tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng trên đất của nguyên đơn phù hợp
quy định tại khoản 1 Điều 482 của Bộ luật dân sự “bên thuê phải trả lại tài sản thuê
5
trong tình trạng như khi nhận...” mà không có căn cứ để chấp nhận ý kiến của bị đơn
về việc bồi thường số tiền 694.877.724 đồng.
[4] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn; tuyên bố chấm dứt Hợp đồng thuê
đất đã ký giữa Công ty X và ông Lương Thiện Anh T; buộc ông T phải tháo dỡ toàn
bộ công trình xây dựng trên đất để trả lại đất cho Công ty X.
[5] Xét đnghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu tại phiên
tòa là có căn cứ, cần chấp nhận.
[6] Án phí dân sự thẩm 300.000 đồng, nguyên đơn tự nguyện chịu. Chi
phí thẩm định gtài sản là 8.000.000đồng nguyên đơn tự nguyện chịu (đã chi xong).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147,
227, 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 422, 481, 482 của Bộ luật Dân sự;
Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/20016 quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.
Xử:
1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần X đối với số tiền nợ thuê
đất là 468.000.000đồng (Bốn trăm sáu mươi tám triệu đồng).
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Tuyên bố chấm dứt Hợp đồng thuê đất số HĐ 06/HĐTĐ ngày 02/10/2019 ký
kết giữa Công ty cổ phần X và ông Lương Thiện Anh T.
Buộc ông Lương Thiện Anh T phải tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng trên
đất bao gồm: nhà trệt diện tích xây dựng khoảng 238,9m
2
(kết cấu tường xây 110-
220, mái tôn, trần đóng laphong, nền gạch men); mái che di động diện tích khoảng
220,8m
2
(khung thép hộp, nền gạch men và xi măng); tường rào xây (cao 1,7m; dài
13,5m) và trả cho Công ty cổ phần X Công trình 2-9 tài sản là Lô đất số A4, tờ bản
đồ số 01, địa chỉ: khu dân Đ, Đ, thị Đ, tỉnh Quảng Nam (có Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CO
173134 do UBND tỉnh Q cấp ngày 17/01/2019).
3. Án phí dân sự sơ thẩm 300.000đồng Công ty cổ phần X chịu, nhưng được
trừ vào số tiền tạm ứng 5.400.000đồng đã nộp. Hoàn trả cho Công ty cổ phần X số
6
tiền tạm ứng 5.100.000đồng (Năm triệu, một trăm ngàn đồng) theo biên lai thu
số 0005705 ngày 11/01/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo
bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án thẩm. Bị đơn vắng mặt tại
phiên tòa quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được
bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền
yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui
định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực
hiện theo qui định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhn: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- Người tham gia tố tụng; Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
- VKSND quận Liên Chiểu;
- Chi cục THADS Liên Chiểu;
- Lưu Hồ sơ vụ án.
DƯƠNG THỊ THÁI
Tải về
Bản án số 84/2024/DS-ST Bản án số 84/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 84/2024/DS-ST Bản án số 84/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất