Bản án số 16/2025/DS-ST ngày 31/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về thừa kế tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 16/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 16/2025/DS-ST ngày 31/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về thừa kế tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thừa kế tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Dương
Số hiệu: 16/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 31/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: chấp nhận một phần khởi kiện
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Huỳnh Thị Thanh Tuyền.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Mai Văn Phước;
Bà Trương Thị Thu Hà.
- Thư phiên tòa: Thị Thanh Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên
tòa: Ông Lê Trung Kiên - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 21 31 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân
tỉnh Bình Dương xét xử thẩm công khai vụ án dân sự thụ số
76/2023/TLST-DS ngày 21 tháng 4 năm 2023 về việc “Tranh chấp về thừa kế
tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2025/QĐ-ST ngày 10 tháng
01 năm 2025; Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2025/QĐST-DS ngày 24 tháng
01 năm 2025 và Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2025/QĐST-DS ngày 21 tháng
02 năm 2025 Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 09/2025/QĐ-PT ngày 21
tháng 3 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Thị Hồng N, sinh năm 1985; địa chỉ: số C, Công
Trường H, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ngô Thị Thùy D, sinh năm
2000 và bà Trần Thị Thủy T, sinh năm 1996; cùng địa chỉ: phòng C, số I, đường
P, phường Đ, quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, người đại diện theo ủy quyền
(Văn bản ủy quyền ngày 09/01/2023); bà D vắng mặt, bà T có mặt.
- Bị đơn: Lê Thị Phượng L, sinh năm 1959; địa chỉ: số C, Công trường
H, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Lê Thị Đ, sinh năm 1953; địa chỉ: số C, Công Trường H, phường A,
quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; có đơn xin vắng mặt.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 16/2025/DS-ST
Ngày 31-3-2025
V/v Tranh chấp về thừa kế tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
2. Ông Văn P, sinh năm 1957; địa chỉ: số D B, phường B, Quận A,
Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
3. Ông Văn H, sinh năm 1958; địa chỉ: số D S, S, C, USA, 95111;
mặt.
4. Ông Văn H1, sinh năm 1960; địa chỉ: số A ấp M, xã M, huyện Đ,
tỉnh Long An; có mặt.
5. Ông Văn T1, sinh năm 1967; địa chỉ: sB khu phố T, phường V,
thành phố T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
Người đại diện hợp pháp của ông Văn T1: Trần Thị Mộng T2, sinh
năm 1966; địa chỉ: số E N, phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai, là người đại
diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 09/07/2024); vắng mặt.
6. Ông Minh S, sinh năm 1972; địa chỉ: số C Công trường H, phường
A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; có đơn xin vắng mặt.
7. Bùi Thị M, sinh năm 1962; địa chỉ: khu C, ấp H, N, thị trấn Đ,
tỉnh Đồng Nai; vắng mặt.
8. Thị Minh H2; địa chỉ: số E đường B, phường B, quận B, Thành
phố Hồ Chí Minh; có đơn xin vắng mặt.
9. Ông Nhật T3; địa chỉ: số E đường B, phường B, quận B, Thành phố
Hồ Chí Minh; vắng mặt.
10. Trần Thị Trúc Đ1; địa chỉ: số B, khu phố T, phường V, thành phố
T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
Người đại diện hợp pháp của Trần Thị Trúc Đ1: Trần Thị Mộng
T2, sinh năm 1966; địa chỉ: số E N, phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai,
người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 09/07/2024); vắng mặt.
11. Ông Công M1; sinh năm 1993; địa chỉ: số B, H khu phố P,
phường V, thành phố T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
12. Trần Thị Trúc N1, sinh năm 1966 ông Lương P1; cùng địa chỉ:
số A B, khu phố B, phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
13. Trung tâm Phát triển quđất tỉnh Bình Dương. Người đại diện hợp
pháp: Ông Nguyễn Văn Toàn N2 - chức vụ: Phó Giám Đốc; có đơn yêu cầu giải
quyết vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Theo đơn khởi kiện ngày 16/02/2023, quá trình giải quyết vụ án tại
phiên tòa, nguyên đơn Thị Hồng N người đại diện hợp pháp bà Trần
Thị Thủy T trình bày:
Ông nội N cụ Văn T4 sinh năm 1933 (mất ngày 06/11/2002)
nội N cụ Huỳnh Thị L1, sinh năm 1936 (mất ngày 30/5/2008). Lúc còn
sống, cụ T4 cụ L1 tạo lập tài sản chung nhà đất diện tích 187,2m
2
3
thuộc thửa đất số 212, tờ bản đồ số 92, tọa lạc tại khu phố T, phường V, thành
phố T, tỉnh Bình Dương. Cha của cụ Lê Văn T4, không tên, mất trước cụ T4
(không năm mất). Mẹ của cụ Văn T4, không tên, mất trước cụ T4
(không năm mất). Cha của cụ Huỳnh Thị L1, không họ tê, mất trước bà L1
(không năm mất). Mẹ của của cụ Huỳnh Thị L1, không họ tên, mất trước
L1 (không rõ năm mất). Cụ T4 và cụ L109 người con chung gồm: Ông
Văn T5, chết trước m 1975, không giấy chứng tử, không vợ, con;
Thị Đ, ông Văn P, ông Văn H, Thị Phượng L, ông Văn H1, ông
Văn H3 (đã chết, 03 người con: Ông Thanh P2, sinh năm 1980, chết
năm 1995, không vợ, con, không giấy chứng tử; ông Thanh S1, sinh
năm 1982, chết năm 2013, không có vợ con), không có giấy chứng tử; bà Thị
Hồng N; ông H3 đang độc thân tại thời điểm mất; người thừa kế thế vị duy nhất
của ông H3 là bà Lê Thị Hồng N), ông Văn T1, ông Lê Minh S.
Căn cứ theo quy định pháp luật, cụ T4 cụ L1 chết không để lại di chúc
nên phần di sản của cụ T4 cụ L1 được chia thành những phần bằng nhau cho
những người thừa kế thnhất và còn sống tại thời điểm mở thừa kế 01 phần
cho những người thừa kế vị (09 người con: Thị Đ, ông Văn P, ông
Văn H, bà Lê Thị Phượng L, ông Lê Văn H1, ông Lê Văn H3, (đã chết, có người
thừa kế thế vị Thị Hồng N), ông Văn T1, ông Lê Minh S con của
ông Văn T5 (không thông tin). Theo đó, ông Văn H3 được hưởng 1/9
giá trị di sản là nhà đất có diện tích 187,2m
2
tại thửa đất số 212, tờ bản đồ số 92,
tọa lạc tại khu phố T, phường V, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Sau khi cụ T4 cụ L1 chết, toàn bộ di sản căn nhà quyền sử dụng
đất tại thửa đất số 212, tờ bản đồ số 92, tọa lạc tại khu phố T, phường V, thành
phố T, tỉnh Bình Dương được các đồng thừa kế thống nhất tạm thời giao cho
Thị Phượng L quản lý, theo giấy đồng ý cụ T4 cụ L1 đối với di sản
trên. Tuy nhiên, bà Lê Thị Phượng L sau đó không phối hợp chia di sản u trên
không tiến hành thủ tục phân chia di sản thừa kế tại tổ chức hành nghề công
chứng thẩm quyền. vậy, N khởi kiện yêu cầu phân chia di sản thừa kế
của cụ T4 và cụ L1 nhà đất có diện tích 187,2m
2
tại thửa đất số 212, tờ bản đồ
số 92, tọa lạc tại khu phố T, phường V, thành phố T, tỉnh Bình Dương chia theo
pháp luật, cụ thể:
+ Chia di sản của cụ T4 và cụ L1 thành 09 phần bằng nhau cho những
người thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm: Thị Đ, ông Lê Văn H, ông
Văn P, Thị Phượng L, ông Văn H1, con của ông Văn H3, ông
Văn T1, ông Minh S và con của ông Văn T5, mỗi người hưởng 1/9 phần
giá trị tài sản.
+ Trong phần di sản ông H3 được hưởng do hiện nay ông H3 đã mất,
không để lại di chúc, nên chia tiếp cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất
còn sống tại thời điểm mở thừa kế của ông H3 02 người (gồm: ông Thanh
S1 Thị Hồng N) mỗi người 1/2 phần giá trị di sản của ông H3. Ông S1
hiện đã mất nên phần di sản của ông H3 được chia thành 02 phần: Cho người
thừa kế của ông S1 (là M) N. N yêu cầu được hưởng giá trị bằng
4
tiền phần quyền sử dụng, shữu định đoạt 1/18 giá trị nhà đất tại thửa đất số
212, tờ bản đồ số 92, tọa lạc tại khu phố T, phường V, thành phố T, tỉnh Bình
Dương, tương đương giá trị tạm tính 275.000.000 đồng (Hai trăm bảy mươi
lăm triệu đồng).
* Tại Văn bản ngày 14/9/2023, bà Ngô Thị Thùy D là người đại diện theo
ủy quyền của nguyên đơn bà Lê Thị Hồng N trình bày:
Nguồn gốc nhà, đất tranh chấp: Quyển sử dụng đất diện tích 187,2m
2
tại thửa đất số 212, tờ bản đồ số 92, tọa lạc tại khu phố T, phường V, thành phố
T, tỉnh Bình Dương được ông Nguyễn Văn S2 và Nguyễn Thị T6 chuyển
nhượng cho ông Lương P1 Trần Thị Trúc N1 theo Đơn xin sang nhượng
thành quả lao động trên đất nông nghiệp ngày 16/11/1992, được Ủy ban nhân
dân V xác nhận chấp thuận đơn vào ngày 25/11/1992. Cụ T4 cụ L1 cùng
quản lý, sử dụng thửa đất diện tích 187,2m
2
tại thửa đất số 212, tbản đồ số
92, tọa lạc tại khu phố T, phường V, thành phố T, tỉnh Bình Dương từ khi nhận
chuyển nhượng từ ông Lương P1 Trần Thị Trúc N1. Trong quá trình quản
lý, sử dụng, vào khoảng năm 1995, cụ Văn T4 cụ Huỳnh Thị L1 xây
dựng nhà trên đất. Đến năm 2000, ông Văn H3 cha của N (nguyên đơn)
sửa chữa lại nhà ở. Trước khi chết, cụ T4 cụ L1 đồng ý để lại tài sản
một phần diện tích nhà và đất nêu trên cho ông Văn H3, cụ thể số nhà C.
Diện tích đất này 03 căn nhà xây dựng bên cạnh căn nhà 30/8 phần đất
hiện do vợ chồng ông Văn T1 (con của cụ T4 cụ L1) trú nội dung này
được các con ruột của cụ T4 cụ L1 ông Văn P, ông Văn H, ông
Văn H1, ông Văn T1 chứng kiến (theo Biên bản đồng thuận và xác nhận
nguồn gốc nền nhà). Tuy nhiên, sau khi cụ T4 cụ L1 mất, tài sản nêu trên
chưa được thực hiện thủ tục khai nhận, phân chia di sản thừa kế. Ông Văn
H3 cùng con N và ông Thanh S1 vẫn tại nđất nêu trên từ năm
1995. Đến năm 2020, ông Văn H3 chết, bà N tiếp tục sinh sống tại nhà đất
nêu trên đến nay. Cùng sinh sống tại nđất nêu trên với bà N ông Thanh
S1 nhưng ông Thanh S1 cũng đã chết vào năm 2013, Sau khi ông Thanh
S1 chết, bà N tiếp tục sinh sống tại nhà, đất nêu trên, không có ai sinh sống cùng
bà N.
Hiện tại, nhà đất tranh chấp hiện đang thuộc phạm vi thực hiện dự án giải
phóng mặt bằng Quốc lộ A đoạn từ Cổng chào V đến nCầu Ô (đoạn quan
thành phố T). Ngày 19/10/2022, N được mời m việc theo Thư mời s
1067/GM-TTPTQĐ của Trung tâm P3 về việc phối hợp thực hiện kiểm đếm tài
sản bị ảnh hưởng trong phạm vi giải tỏa (đoạn quan thành phố T). Mặc dù N
người trực tiếp sinh sống nhà đất nêu trên, nhưng không giữ các hồ liên
quan đến nhà đất đó mà người giữ giấy tờ trước đây là ông Nguyễn Văn S2. Sau
đó, vào lần giải tỏa nhà đất năm 1999, ông S2 đã nộp lại giấy tờ nhà đất bản
chính cho cán bộ địa chính (không nhớ thông tin liên hệ). Do đó, hiện tại N
những người liên quan hiện không các giấy tờ nđất nêu trên. N
đã liên hệ Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh Bình Dương các cơ quan quản lý
đất đai tại thành phố T, tỉnh Bình Dương để yêu cầu cung cấp hnhà đất
5
liên quan, tuy nhiên không đầy đủ thông tin chủ sở hữu nên N không
yêu cầu cung cấp được. Nhận thấy giấy tờ pháp của nhà đất tranh chấp nêu
trên là căn cứ quan trọng để giải quyết vụ án nên N đề nghị Q Tòa án tiến
hành thu thập hồ sơ pháp lý của nhà đất tranh chấp tại các cơ quan liên quan.
* Tại Văn bản ngày 22/01/2024, bị đơn bà Lê Thị Phượng L trình bày:
Nguyên lúc trước, cha bà L cụ Văn T4 cho bà L 01 miếng đất dài
12m; rộng 4m, tổng cộng 48m
2
để cất trên thửa đất số địa bộ cũ là 106, số địa bộ
mới 481, số bản đồ 844, tọa lạc tại V, huyện T, tỉnh Sông . Nay L
gửi lời trình này gửi đến Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương bà không đồng ý
đơn khởi của cháu Thị Hồng N không sở để khởi kiện. Nếu
Thị Hồng N giấy tờ hợp pháp xác thực của cha L cho cháu thì cứ theo đó
mà xử lý.
* Tại Bản tự khai ngày 30/7/2024, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Văn T1 bà Trần Thị Trúc Đ1 do Trần Thị Mộng T2 đại diện tại
Bản tự khai ngày 13/01/2025, ông Văn T1 Trần Thị Trúc Đ1 ng
thống nhất trình bày:
Vào ngày 06/7/1993, vợ chồng ông T1 Đ1 với vợ chồng (ông
Lương P1 bà Trần Thị Trúc N1) lập một tờ giấy chấp thuận ủy quyền nền
đất để cất nhà với nội dung: “Vợ chồng tôi đồng ý cho anh rể và chị ruột của tôi
(ông Văn T1 Trần Thị Trúc Đ1) được quyền cất nhà trên nền đất dài
12m; rộng 4m, diện tích cất nhà 48m
2
, đất có số địa bộ 106, số địa bộ mới
481, số bản đồ 844 tọa lạc tại V, huyện T, tỉnh Sông (nay tỉnh Bình
Dương) có tổng diện tích 300m
2
(do Trần Thị Trúc N1 đứng tên). Kể từ ngày
07/7/1993, anh chị tôi (ông Văn T1, Trần Thị Trúc Đ1) trách nhiệm
đóng mọi sắc thuế theo quy định về việc xây cất nhà của Nhà nước trên phần đất
nói trên; Vợ chồng tôi không chịu trách nhiệm cũng như không tranh chấp
cả”. Giấy chấp thuận này đã được chứng thực tại Ủy ban nhân dân phường A
(quận B) ngày 07/7/1993; Ủy ban nhân dân B (huyện T) ngày 07/7/1993
Ủy ban nhân dân xã V (huyện T) ngày 26/7/1993.
Về nguồn gốc thửa đất nêu trên thì thể hiện: Vào ngày 16/11/1992,
Trần Thị Trúc N1 nhận chuyển nhượng thành quả lao động trên đất nông nghiệp
của Nguyễn Thị T6 sinh năm 1961 ông Nguyễn Văn S2, sinh năm 1958
toàn bộ diện tích của thửa đất (theo sổ bộ số 106/484, sbộ mới 481, bản đồ
số 484), tọa lạc tại ấp T, V diện tích ngang 12m, dài 25m, tổng diện ch
300m
2
, với số tiền là 8.000.000 đồng (tám triệu đồng); việc chuyển nhượng giữa
hai bên được sự chứng thực của Ủy ban nhân dân xã V ngày 25/11/1992. Nguồn
gốc diện tích đất này Nguyễn Thị T6 được mẹ (bà Ngô Thị S3) cho tại tờ
phân chia đất ngày 15/6/1992 sự chứng kiến của các anh chị em chứng
thực của Ban Tư pháp và Ủy ban nhân dân xã V ngày 18/8/1992.
Sau khi nhận chuyển nhượng của Nguyễn Thị T6 thì vào ngày
08/7/1993, vợ chồng Trần Thị Trúc N1 đã làm đơn xin xây cất nhà trên diện
tích đất này đơn đã được sự đồng ý chấp thuận của Ban ấp T7 Ủy ban
6
nhân dân xã V ngày 08/7/1993. Sau đó, ngày 06/7/1993 vợ chồng ông Lương P1
Trần Thị Trúc N1 đã chấp thuận ủy quyền nền đất để cất nhà cho vợ
chồng ông Văn T1 bà Trần Thị Trúc Đ1, xác định: Toàn bộ diện tích của
thửa đất (theo sổ bộ củ số 106/484, sổ bộ mới 481, bản đồ số 484) tọa lạc tại ấp
T, xã V, chiều ngang 12m, dài 25m, tổng diện tích 300m
2
thuộc quyền sở
hữu hợp pháp của ông T1 và bà Đ1.
Nay nguyên đơn Thị Hồng N (là con ông Văn H3, đã chết)
cháu nội của cụ Văn T4 cụ Huỳnh Thị L1 làm đơn khởi kiện cho rằng
diện tích của thửa đất nêu trên di sản thừa kế của cụ Văn T4 cụ Huỳnh
Thị L1 để lại yêu cầu được hưởng thừa kế thế vị phần di sản này theo quy
định của pháp luật không đúng. Ông T1 bà Đ1 không đồng ý với yêu cầu
nêu trên của nguyên đơn là bà Lê Thị Hồng N.
* Tại Văn bản trình bày ý kiến ngày 14/3/2025, người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan bà Lê Thị Minh H2 trình bày:
Ông nội bà H2 tên là cụ Lê Văn T4 chết ngày 06/11/2002, bà nội bà H2 là
cụ Huỳnh Thị L1 chết ngày 30/5/2008. Cha ruột H2 tên ông Văn T5
chết trước năm 1975. Cụ T4 cụ L1 09 người con chung, gồm: Thị
Đ, ông Văn P, ông Văn H, Thị Phượng L, ông Văn H1, ông
Văn H3, ông Lê Văn T1, ông Lê Minh S, ông Lê Văn T5. Nguồn gốc căn nhà tại
thửa đất số 212, tờ bản đồ số 92, tọa lạc tại khu phố T, phường V, thành phố T,
tỉnh Bình Dương do ông bà nội của H2 là cụ T4 cụ L1 mua đất xây nhà.
H2 xác nhận nhà, đất tại thửa số 212, tờ bản đồ số 92, tọa lạc tại khu phố T,
phường V, thành phố T, tỉnh Bình Dương thuộc quyền sở hữu của cụ T4 cụ
L1. Trường hợp Tòa án chia thừa kế đối với nhà đất tại thửa đất ssố 212, tờ
bản đồ số 92, tọa lạc tại khu phố T, phường V, thành phố T, tỉnh Bình Dương thì
H2 đồng ý với kết quả xét xử của Tòa án.
* Tại bản tự khai ngày 13/01/2025, người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Trần Thị Trúc N1 và ông Lương P1 cùng thống nhất trình bày:
Vào ngày 16/11/1992, bà Trần Thị Trúc N1 có nhận chuyển nhượng thành
quả lao động trên đất nông nghiệp của Nguyễn Thị T6 sinh năm 1961 ông
Nguyễn Văn S2, sinh năm 1958 toàn bộ diện tích của thửa đất (theo sổ bộ số
106/484, sổ bmới 481, tờ bản đồ số 484) tọa lạc tại ấp T, V chiều ngang
12m; chiều dài 25m, tổng diện tích 300m
2
, với số tiền 8.000.000 đồng (tám
triệu đồng). Việc chuyển nhượng giữa hai bên được sự chứng thực của Ủy ban
nhân dân xã V ngày 25/11/1992. Nguồn gốc diện tích đất này bà Nguyễn Thị T6
được mẹ là Ngô Thị S3 cho tại Tờ phân chia đất ngày 15/6/1992 có sự chứng
kiến của các anh chị em và chứng thực của Banpháp Ủy ban nhân dân
V ngày 18/8/1992.
Sau khi nhận chuyển nhượng của Nguyễn Thị T6, vào ngày 08/7/1993
Trần Thị Trúc N1 đã làm đơn xin xây cất nhà trên diện tích đất này và đơn đã
được sự chấp thuận của Ban ấp T7 Ủy ban nhân dân xã V ngày 08/7/1993.
Vào ngày 06/7/1993, vợ chồng ông Lương P1 Trần Thị Trúc N1 lập
7
một tờ giấy chấp thuận ủy quyền nền đất để cất nhà với nội dung: “Vợ chồng tôi
đồng ý cho anh rể chị ruột của tôi (ông Văn T1 Trần Thị Trúc Đ1)
được quyền cất nhà trên nền đất dài 12m, rộng 4m, diện tích cất nhà 48m
2
,
trên sổ đất địa bộ 106, số địa bộ mới 481, số bản đồ 844 tọa lạc tại V,
huyện T, tỉnh Sông (nay tỉnh Bình Dương) tổng diện tích 300m
2
(do
Trần Thị Trúc N1 đứng tên). Kể từ ngày 07/7/1993, anh chị tôi (ông Văn T1,
Trần Thị Trúc Đ1) trách nhiệm đóng mọi sắc thuế theo quy định về việc
xây cất nhà của Nhà nước trên phần đất nói trên; Vợ chồng tôi không chịu trách
nhiệm cũng như không tranh chấp cả”. Giấy chấp thuận này đã được chứng
thực tại Ủy ban nhân dân phường A (quận B) ngày 07/7/1993; y ban nhân dân
B (huyện T) ngày 07/7/1993 Ủy ban nhân dân V (huyện T) ngày
26/7/1993). Ngoài việc, vợ chồng ông P1 N1 lập tờ giấy chấp thuận ủy
quyền nền đất để cất ncho ông Văn T1 Trần Thị Trúc Đ1 ngày
06/7/1993 (như đã trình bày trên ra) thì ông P1 và N1 không giấy tờ
ủy quyền hay mua bán thửa đất này cho bất cứ ai khác cả.
* Tại đơn trình bày ngày 05/3/2025, người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Lê Thị Đông Lê Minh S cùng thống nhất trình bày:
Ông S Đ nhận được giấy triệu tập của Tòa án nhân dân Tỉnh
Bình Dương về việc triệu tập các ông mặt tại Tòa án vào ngày 21/3/2025
với cách người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong ván tranh chấp về
thừa kế tài sản giữa Thị Hồng N nguyên đơn Thị Phượng L
bị đơn. Tuy nhiên, ông S Đ bị bệnh tai biến, không đi lại được nên không
thể có mặt tham dự theo giấy triệu tập của Tòa án được và đề nghị Tòa án căn c
quy định pháp luật giải quyết tranh chấp không sự tham dcủa ông S
Đ. Ông bà xin vắng mặt tất cả các phiên tòa.
* Tại bản tkhai ngày 27/3/2025, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Lê Văn Hông Lê Văn P cùng thống nhất trình bày:
Ông P và ông H thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn về hàng thừa
kế. Về nguồn gốc nhà và đất tại thửa 212, tờ bản đồ số 92 tại khu phố T, phường
V, thành phố T, Tỉnh Bình Dương (thửa đất số địa bộ 106, số địa bộ
mới là 481, số bản đồ 484) do cha là cụ T4 và mẹ là cụ L1 mua lại từ bà Nguyễn
Thị T6 ông Nguyễn Văn S2 tnăm 1992. Tại thời điểm đó, cụ T4 cụ L1
không hộ khẩu tại tỉnh Bình Dương (tỉnh Sông cũ) nên nhờ Trần Thị
Trúc N1 đứng tên giùm trên giấy chuyển nhượng. Sau khi nhận chuyển nhượng
từ T6 ông S2, cụ T4 cụ L1 đã xây ba căn nhà trên thửa đất cho 03
người con ông H3, ông S và ông T1. Ông H3 được cho căn nhà 30/8 một
phần trong tổng 03 căn nhà trên, ông H3 đã tại đây cho đến lúc chết. Sau đó,
con ông H3 là bà Lê Thị Hồng N tiếp tục sinh sống tại đây. Căn nhà có địa chỉ 2
khu phố T, phường V, thành phố T, Tỉnh Bình Dương được ông T1 sử dụng
quản từ khi xây xong đến nay. Ông H ông P đnghị Tòa án chia thừa kế
căn n3 khu phố T, phường V, thành phố T, tỉnh Bình Dương (nhà 30/8) cho
ông H3 theo ý chí của cụ T4 cụ L1. Trường hợp Tòa án không đồng ý chia
nhà 30/8 cho ông H3, ông H ông P đề nghị chia thừa kế toàn bộ nhà đất của
8
cụ T4 cụ L1 với diện tích 187m², tại thừa 212, tờ bản đồ số 92 trên cho 09
người con. Khi cha mẹ chia nhà đất cho các em chỉ nói miệng không có văn bản.
Tại phiên tòa, nguyên đơn Thị Hồng N do Trần Thị Thủy T đại
diện đề nghị Hội đồng xét xcông nhận nhà số C do bà N đang quản nhà
số B do vợ chồng ông T1, Đ1 đang quản lýdi sản của cụ T4 cụ L1 chết
để lại; chia di sản thừa kế của cụ T4 cụ L1 thành 09 phần bằng nhau cho 09
chi thừa kế theo pháp luật, chia giá trị bằng tiền. Bị đơn bà L yêu cầu chia di sản
của cụ T4 cụ L1 đối với nhà số C do N đang quản nhà số B do vợ
chồng ông T1, Đ1 đang quản thành 09 phần bằng nhau cho 09 chi thừa kế
theo pháp luật, chia giá trị bằng tiền. Ông H1, ông P ông H thống nhất với
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn tnguyện tặng cho kphần được hưởng
cho bà N (con ông H3) và ông T1.
Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương: Về thủ
tục tố tụng: Thẩm phán, những người tiến hành Tố tụng những người tham
gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung:
Xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn căn cứ một phần, đề nghị Hội
đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về thẩm quyền giải quyết: Đất tranh chấp tọa lạc tại phường V,
thành phố T, tỉnh Bình Dương và người tham gia tố tụng có người nước ngoài là
ông Văn H hiện đang định tại Hoa Kỳ. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương theo quy định tại điểm c khoản
1 Điều 37 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan Thị Đ, ông Minh S, Thị Minh H2, đại diện hợp pháp của
Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố T tất cả đều đơn yêu cầu giải quyết
vắng mặt; Bùi Thị M, Trần Thị Mộng T2, Trần Thị Trúc N1, ông
Công M1, ông Lương P1, ông Nhật T3 đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ
hai nhưng vắng mặt. Do vậy, Hội đồng xét xtiến hành xét xử vắng mặt các
đương sự có tên nêu trên theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố
tụng dân sự.
[2] Về hàng thừa kế: Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đều trình
bày thống nhất: Cụ Văn T4 chết năm 2002 cụ Huỳnh Thị L1 chết năm
2008, sinh được 09 người con gồm: Ông Văn T5 (đã chết, người thừa kế
thế vị Thị Minh H2 ông Nhật T3); Thị Đ, ông Văn P,
ông Văn H, Thị Phượng L, ông Văn H1, ông Văn H3 (đã chết,
người thừa kế thế vị Thị Hồng N), ông Văn T1, ông Minh S.
Căn cứ theo quy định tại Điều 651 của Bộ luật Dân sự khoản 2 Điều 92 của
Bộ luật Tố tụng dân sự thì hàng tha kế th nht theo pháp lut của cụ C cụ
L2 gồm: Ông Lê Văn T5 (đã chết, có người thừa kế thế vị là bà Lê Thị Minh H2
9
ông Nhật T3); Thị Đ, ông Văn P, ông Văn H, bà Thị
Phượng L, ông Văn H1, ông Văn H3 (đã chết, người thừa kế thế vị
Lê Thị Hồng N), ông Lê Văn T1, ông Lê Minh S.
[3] Về di sản thừa kế: Nhà đất tranh chấp diện tích 187,2m
2
đo đạc
thực tế diện tích 199,8m
2
tại thửa đất số 212, tờ bản đồ số 92, tọa lạc tại khu
phố T, phường V, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Xét thấy, nhà đất tranh
chấp có nguồn gốc do ông Nguyễn Văn S2 và bà Nguyễn Thị T6 chuyển
nhượng cho ông Lương P1 Trần Thị Trúc N1 theo Đơn xin sang nhượng
thành quả lao động trên đất nông nghiệp ngày 16/11/1992, được Ủy ban nhân
dân V xác nhận chấp thuận đơn vào ngày 25/11/1992. Ngày 13/02/1993, ông
P1 N1 lập Giấy nhượng nền nhà cho cụ T4 (bút lục 09). Cụ T4 cụ L1
cùng quản lý, sử dụng thửa đất diện tích 187,2m
2
tại thửa đất số 212, tờ bản
đồ số 92, tọa lạc tại khu phố T, phường V, thành phố T, tỉnh Bình Dương từ khi
nhận chuyển nhượng của ông Lương P1 bà Trần Thị Trúc N1. Khoảng năm
1995, cụ T4 cụ L1 xây dựng nhà trên đất. Đến năm 2000, ông Văn
H3 cha của N (nguyên đơn) sửa chữa lại nhà ở. Trước khi chết, cụ T4 và
cụ L1 đồng ý để lại tài sản một phần diện tích nhà đất nêu trên cho ông
Văn H3, cụ thể số nhà C hiện nay do N đang quản lý; còn căn nhà liền k
nhà số B thì cho vợ chồng ông Văn T1 bà Trần Thị Trúc Đ1, hiện nay
ông T1 Đ1 đang quản lý, sử dụng. Nội dung này được các con ruột của cụ
T4 cụ L1 gồm: ông Văn P, ông Văn H, ông Văn H1, ông Văn
T1 xác nhận tại Biên bản đồng thuận ngày 05/3/2015 (bút lục 10-11) tại
Giấy đồng ý ngày 16/01/2012 (bút lục 12) có Thị Phượng L, Thị Đ,
ông Văn T1, ông Văn S4 thị Hồng N tên, được Ủy ban nhân
dân phường A, quận B xác nhận ngày 16/01/2012. Do đó, căn cứ xác định
nhà đất số 2/8 và nhà đất số C tổng diện tích 187m
2
di sản do cụ T4
cụ L1 chết để lại. vậy, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế theo pháp
luật cho 09 đồng thừa kế căn cứ chấp nhận. Tại phiên tòa, ông H1, ông P
ông H tự nguyện tặng cho kỷ phần được hưởng cho N (con ông H3)
ông T1. Xét thấy đây ý chí tự nguyện của đương sphù hợp với quy định
của pháp luật nên Hội đồng xét xghi nhận. Tại phiên tòa, các đương sự đều
thừa nhận căn nhà số B do ông T1, Đ1 xây dựng mới trên nền ncủa
cụ T4 và cụ L1 để lại nên chỉ có căn cứ chia giá trị đất, không có căn cứ chia giá
trị nhà. Hiện tại, nhà đất số B nhà đất số C đang thuộc phạm vi thực hiện dự
án Giải phóng mặt bằng Quốc lộ A đoạn từ Cổng chào V đến ngã Cầu Ô
(đoạn qua thành phố T). Tại Công văn số 310/TTPTQĐ-BT&GPMB ngày
26/3/2024, Trung tâm P3 cung cấp thông tin như sau:
- Nhà và đất số 2/8 do ông T8, Đ1 đang quản được bồi thường: đất
diện tích 103,9m
2
với tổng số tiền bồi thường 2.599.993.600 đồng; nhà
tổng số tiền bồi thường 423.308.728 đồng; công trình phụ, vật kiến trúc
tổng số tiền bồi thường là 15.930.400 đồng.
- Nhà đất số 30/8 do N đang quản được bồi thường: đất diện tích
55,1m
2
tổng số tiền bồi thường 1.378.822.400; n tổng số tiền bồi
10
thường 178.948.000 đồng; công trình phụ, vật kiến trúc tổng số tiền bồi
thường là 5.886.000 đồng.
Như vậy, tổng giá trị di sản của cụ T4 cụ L1 để lại (sau khi trừ giá trị
nhà công trình phụ do ông T1, Đ1 xây dựng) là: 2.599.993.600 đồng +
1.378.822.400 đồng + 178.948.000 đồng + 5.886.000 đồng = 4.163.655.000
đồng : 9 kỷ phần thừa kế = 462.627.777 đồng.
Ông H, ông H1 ông P được nhận 03 kỷ phần với tổng số tiền
1.387.883.333 đồng : 2 (chia cho chi ông H3 chi ông T1) = 693.941.666
đồng. Như vậy, chi ông H3 (do N thừa kế thế vị) được chia tổng số tiền
1.156.569.443 đồng; chi ông T1 được chia 1.156.569.443 đồng cộng với nhà
công trình phụ do ông T1, Đ1 xây dựng tông T1 được nhận tổng số tiền
1.595.808.571 đồng.
Chi ông Văn T5 (đã chết, người thừa kế thế vị bà Thị Minh
H2 ông Nhật T3); Thị Đ, Thị Phượng L, ông Minh S mỗi
chi được nhận số tiền là 462.627.777 đồng.
[4] Bị đơn Thị Phượng L cho rằng căn nhà đang tranh chấp diện
tích 55,1m
2
căn n30/8 hiện bà N đang quản lý sdụng do L được cụ T4
tặng cho nhưng không xuất trình được chứng cứ chứng minh nên không căn
cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận lời trình bày này của bị đơn.
[5] Ông Lê Văn T1 và bà Trần Thị Trúc Đ1 cho rằng căn nhà 2/8 hiện ông
đang quản lý, sử dụng do ông nhận chuyển nhượng của ông P1 N1
nhưng ông T1 lại ký tên tại Biên bản đồng thuận ngày 05/3/2015 (bút lục 10-11)
tại Giấy đồng ý ngày 16/01/2012 (bút lục 12) xác nhận hai căn nhà đang
tranh chấp do cụ T4 cụ L1 để lại nên không căn cứ để Hội đồng xét x
chấp nhận lời trình bày này của ông T1 và bà Đ1.
Từ những phân tích trên, có căn cứ chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn.
[6] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương là có
căn cứ chấp nhận.
[7] Về chi phí tố tụng: Các đương sự phải chịu theo quy định của pháp
luật.
[8] Về án phí dân sự thẩm: Các đương sự phải chịu tính trên kỷ phần
được phân chia theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 5 Điều 26, các Điều 35, 37, 38, 39, 147, 157, 165, 227,
228, 244, 264, 266, 271, 273 và Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ các Điều 610, 612, 613, 649, 650, 651, 652 Điều 660 của Bộ
luật Dân sự;
11
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Thị
Hồng N đối với bị đơn bà Thị Phương L3 về việc “Tranh chấp về thừa kế tài
sản”.
Chia di sản thừa kế của cụ Văn T4 cụ Huỳnh Thị L1 số tiền đến
4.163.655.000 đồng thể hiện Tại Công văn số 310/TTPTQĐ-BT&GPMB
ngày 26/3/2024 của Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh Bình Dương như sau:
- Ghi nhận sự tự nguyện của các ông Văn P, Văn H1, Văn H tự
nguyện tặng cho kỷ phần được chia cho chi ông Lê Văn H3 (do bà N thừa kế thế
vị) và ông Lê Văn T1 được hưởng.
- Chi ông Lê Văn H3 (do N thừa kế thế vị) được nhận s tiền
1.156.569.443 đồng (một tmột trăm năm mươi sáu triệu năm trăm sáu mươi
chín nghìn bốn trăm bốn mươi ba đồng);
- Ông Văn T1 Trần Thị Trúc Đ1 được được nhận tổng số tiền
1.595.808.571 đồng (một tỷ năm trăm chín mươi lăm triệu tám trăm lẻ tám
nghìn năm trăm bảy mươi mốt đồng).
- Chi ông Văn T5 (đã chết, người thừa kế thế vị Thị Minh
H2 ông Nhật T3); Thị Đ, Thị Phượng L, ông Minh S mỗi
chi được nhận số tiền là 462.627.777 đồng (bốn trăm sáu mươi hai triệu sáu trăm
hai mươi bảy nghìn bảy trăm bảy mươi bảy đồng).
Các đương sự có trách nhiệm tự liên hệ Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh
Bình Dương đnhận số tiền được chia tiền lãi phát sinh theo quy định của
pháp luật (nếu có) theo nội dung của phần quyết định này.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Thị Hồng N về việc yêu cầu chia giá trị căn nhà công trình xây dựng trên
diện ch nhà đất số B do ông Văn T1 Trần Thị Trúc Đ1 xây dựng với
tổng số tiền là 439.239.128 đồng (bốn trăm ba mươi chín triệu hai trăm ba mươi
chín nghìn một trăm hai mươi tám đồng).
3. Về chi phí xem t thẩm định tại chỗ, đo đạc định giá tài sản: Tổng
cộng số tiền là 21.533.966 đồng (hai mươi mốt triệu năm trăm ba mươi ba nghìn
chín trăm sáu mươi sáu đồng), bà Thị Hồng N Thị Phương L3 mỗi
người phải chịu số tiền 10.766.983 đồng (mười triệu bảy trăm sáu mươi sáu
nghìn chín trăm m mươi ba đồng), N được trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp,
Lê Thị Phương L3 phải nộp số tiền 10.766.983 đồng (mười triệu bảy trăm sáu
mươi sáu nghìn chín trăm tám mươi ba đồng) để hoàn trả cho Thị Hồng N
đã nộp tạm ứng tại Tòa án.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Thị Hồng N phải chịu số tiền 46.697.083 đồng (bốn mươi sáu
12
triệu sáu trăm chín mươi bảy nghìn không trăm tám mươi ba đồng), được trừ
vào số tiền 6.875.000 đồng (sáu triệu tám trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) tạm
ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0000426 ngày 13/4/2023 của Cục Thi
hành án dân stỉnh Bình Dương. Thị Hồng N n phải nộp thêm số tiền
39.822.083 đồng (ba ơi chín triệu tám trăm hai mươi hai nghìn không trăm
tám mươi ba đồng).
- Bà Lê Thị Phượng L và bà Lê Thị Đ được miễn án phí.
- Ông Văn T1 phải chịu số tiền 46.697.083 đồng (bốn mươi sáu triệu
sáu trăm chín mươi bảy nghìn không trăm tám mươi ba đồng).
- Chi ông Văn T5 (đã chết, người thừa kế thế vị Thị Minh
H2 ông Nhật T3); Thị Đ, Thị Phượng L, ông Minh S mỗi
chi phải chịu số tiền 22.505.111 đồng (hai mươi hai triệu năm trăm lẻ năm nghìn
một trăm mười một đồng).
5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền u cầu thi hành án, tnguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 của Luật Thi hành án dân sự.
6. Các đương smặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15
ngày, kể tngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án
này trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết
công khai.
Đối với đương sự trú nước ngoài không mặt tại phiên tòa thì thời
hạn kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án 01 tháng, kể từ ngày bản án,
quyết định được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án, quyết định được niêm
yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Cục THADS tỉnh Bình Dương;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ, HCTP, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Thị Thanh Tuyền
Tải về
Bản án số 16/2025/DS-ST Bản án số 16/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 16/2025/DS-ST Bản án số 16/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất