Bản án số 238/2025/DS-PT ngày 17/04/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về thừa kế tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 238/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 238/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 238/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 238/2025/DS-PT ngày 17/04/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về thừa kế tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thừa kế tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 238/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 17/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Thứ nhất, các bên cung cấp thông tin về việc thế chấp quyền sử dụng đất thửa 683 tại Ngân hàng N cho Tòa án. Việc không đưa Ngân hàng N vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Thứ hai, Toà án cấp sơ thẩm cần đánh giá lại về nguồn gốc của thửa đất tranh chấp. Thứ ba, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét, đánh giá các tình tiết cho thấy ông Bùi Như L có trồng các cây cao su trên đất tranh chấp để giải quyết triệt để vụ án. Thứ tư, Tòa án cấp sơ thẩm xác định căn nhà là tài sản do cụ D1, cụ E để lại nhưng không tiến hành đối chất làm rõ về giá trị căn nhà và cấp sơ thẩm không xem xét, giải quyết phần tài sản là căn nhà làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên đương sự. Do đó, theo khoản 3 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, do cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là không đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng, việc thu thập chứng cứ và chứng minh chưa được thực hiện đầy đủ mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 238/2025/DS-PT
Ngày: 17-04-2025
V/v tranh chấp di sản
thừa kế và tranh chấp
quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Dũng;
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Thanh;
Bà Đinh Thị Mộng Tuyết.
- Thư ký phiên tòa: Ông Trần Ngọc Hoàng Quân - Thư ký Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:
Bà Trần Thị Phước - Kiểm sát viên.
Trong ngày 10 và 17 tháng 04 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 16/2025/TLPT-
DS ngày 02/01/2025 về việc: “Tranh chấp di sản thừa kế và tranh chấp quyền sử
dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 65/2024/DS-ST ngày 24/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện P, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 168/2025/QĐ-PT ngày 11 tháng 3
năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Bùi Như L, sinh năm 1966; địa chỉ: Tổ A, ấp B, xã A,
huyện P, tỉnh Bình Dương; có mặt.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Bùi Như L:
1. Bà Bùi Thị Thu H, sinh năm 1983; địa chỉ: ấp B, xã A, huyện P, tỉnh
Bình Dương; địa chỉ liên hệ: số C, L, tổ I, khu phố H, phường P, thành phố T, tỉnh
Bình Dương, là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 05/5/2022);
có mặt.
2. Ông Thái Thanh H1, sinh năm 1979; địa chỉ: số A, tờ bản đồ số 47, tổ A,
khu phố C, phường U, thành phố T, tỉnh Bình Dương (Văn bản ủy quyền ngày
04/3/2025); có mặt.
2
3. Ông Bùi Tấn Đ, sinh năm 1997; địa chỉ: số A, tờ bản đồ số 47, tổ A, khu
phố C, phường U, thành phố T, tỉnh Bình Dương (Văn bản ủy quyền ngày
04/3/2025); vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn ông Bùi Như L:
Ông Lê Thành D, sinh năm 1995; địa chỉ: số A – 1054, tờ bản đồ số 47, đường số
E, tổ A, khu phố C, phường U, thành phố T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
- Bị đơn: Ông Bùi Như T, sinh năm 1969; địa chỉ: tổ D, Ấp B, xã A, huyện
P, tỉnh Bình Dương; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Bùi Thị A, sinh năm 1960; địa chỉ: Tổ A, ấp B, xã A, huyện P, tỉnh
Bình Dương; có mặt.
Người đại diện hợp pháp của Bà Bùi Thị A: Bà Bùi Thị Thu H, sinh năm
1983; địa chỉ: ấp B, xã A, huyện P, tỉnh Bình Dương; địa chỉ liên hệ: số C L, tổ I,
khu phố H, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương, là người đại diện theo ủy
quyền (Văn bản ủy quyền ngày 14/3/2023); có mặt.
2. Bà Bùi Thị T1, sinh năm 1973; địa chỉ: ấp B, xã P, huyện P, tỉnh Bình
Dương; có đơn xin xét xử vắng mặt.
3. Bà Đặng Thị C, sinh năm 1972; địa chỉ: Tổ A, ấp B, xã A, huyện P, tỉnh
Bình Dương; có mặt.
Người đại diện hợp pháp của bà Đặng Thị C: Bà Bùi Thị Thu H, sinh năm
1983; địa chỉ liên hệ: ấp B, xã A, huyện P, tỉnh Bình Dương, là người đại diện
theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 22/11/2022); có mặt.
4. Bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1972; địa chỉ: ấp B, xã A, huyện P, tỉnh
Bình Dương; có mặt.
5. Ủy ban nhân dân xã A, huyện P, tỉnh Bình Dương; đại diện theo pháp
luật: Ông Võ Văn L1 - Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A; có đơn xin xét xử vắng
mặt.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Bùi Như L, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan bà Đặng Thị C và Bà Bùi Thị A
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận
công khai chứng cứ và biên bản hòa giải đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn
bà Bùi Thị Thu H trình bày:
Cha mẹ đẻ ông L là cụ Bùi D1, sinh năm 1934 (đã chết năm 2010) và cụ Lê
Thị E, sinh năm 1938 (đã chết năm 2020).
Cha mẹ ông L mất không để lại di chúc, ông L và cụ E có tất cả 04 người
con gồm:
Bà Bùi Thị A; ông Bùi Như L; ông Bùi Như T và bà Bùi Thị T1.
3
Cha cụ Lê Thị E là cụ Lê M, sinh năm 1910, đã chết năm 1972; Mẹ cụ Lê
Thị E là cụ Đỗ Thị K, chết năm 1986. Cha của cụ Bùi D1 là cụ Bùi V, sinh năm
1913, chết năm 1996; mẹ của cụ Bùi D1 là cụ Lê Thị C1, sinh năm 1911, chết
năm 2004.
Ngoài ra, cụ D1 và cụ E không có con riêng, con nuôi.
Cha mẹ ông L có tạo lập được quyền sử dụng đất có diện tích 12.360m
2
(trong đó có 400m
2
đất thổ cư) thuộc thửa đất số 38 (nay đã tách thành 04 thửa
gồm: thửa đất số 680; 681; 682; 683), tờ bản đồ số 33 tọa lạc tại ấp B, xã A, huyện
P, tỉnh Bình Dương; 01 căn nhà gỗ có diện tích 140m
2
, kết cấu: tường xây tô, mái
ngói, nền gạch và trồng một số cây trên đất.
Năm 1996, ông Bùi Như L lập gia đình, đến năm 1997 thì cha mẹ ông L có
cho vợ chồng ông Bùi Như L hai phần diện tích đất khoảng 3000m
2
, thuộc một
phần thửa đất số 682 và thửa đất số 683, tờ bản đồ số 33 tọa lạc tại ấp B, xã A,
huyện P, tỉnh Bình Dương. Sau khi cho đất, vợ chồng ông Bùi Như L và bà Đặng
Thị C cất nhà, trồng cao su cho đến nay, không có anh chị em trong gia đình tranh
chấp. Tuy nhiên hiện nay, hai phần diện tích đất nói trên ông Bùi Như T đang
đứng tên quản lý.
Hiện nay, căn nhà thì đã bị ông T dỡ ra và bán được số tiền 320.000.000
đồng.
Cây cao su trên đất thì đã thu hoạch và ông L đã trồng cây cao su mới.
Nay, ông L khởi kiện yêu cầu ông T trả lại 02 phần đất diện tích 3.000m
2
,
thuộc một phần thửa 682, thửa 683 tờ bản đồ số 33 tọa lạc tại xã A, huyện P, tỉnh
Bình Dương;
Yêu cầu chia di sản thừa kế là phần đất diện tích khoảng 4.000m
2
thuộc một
phần thửa 680, phần còn lại của thửa 682, 683 tờ bản đồ số 33 tọa lạc tại xã A,
huyện P, tỉnh Bình Dương, ông L được hưởng ¼ kỷ phần thừa kế đối với phần
diện tích 4.000m
2
là 1.000m
2
. Phần diện tích còn lại khoảng 5.000m
2
cha, mẹ đã
cho bà T1, ông T nên ông L không yêu cầu chia.
Chia số tiền đã bán nhà là 320.000.000 đồng, số tiền ông L được hưởng là
80.000.000 đồng.
Tại phiên tòa, nguyên đơn ông L, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn
là bà H xin thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện vì sau khi đo đạc, xem xét mảnh
trích lục địa chính thì nguyên đơn xác định thửa đất yêu cầu trả lại diện tích đất là
3.000m
2
thuộc một phần thửa 682 và thửa 681 chứ không phải một phần thửa 682
và thửa 683 (phần thừa ra ngoài 3.000m
2
thì yêu cầu chia thừa kế); yêu cầu chia
di sản thừa kế đối với khoảng 4.000m
2
thuộc một phần thửa 682, thửa 680, 683.
Phần còn lại 5.000m
2
cha, mẹ đã tặng cho ông T, bà T1 thì không có yêu cầu.
Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải bị đơn ông Bùi
Như T trình bày: Bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì
đây là tài sản riêng của bị đơn, đã được cụ Lê Thị E cho bị đơn chứ không phải là
di sản thừa kế.
4
Tại đơn yêu cầu độc lập, bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hòa
giải người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là Bà Bùi Thị A,
người đại diện theo ủy quyền là bà Bùi Thị Thu H trình bày: Bà A đồng ý với yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà A đề nghị Tòa án hủy văn bản phân chia di sản
thừa kế và phân chia di sản thừa kế là phần đất thuộc thửa 680, 681, 682, 683 tờ
bản đồ số 33 tọa lạc tại xã A, huyện P, tỉnh Bình Dương, phần diện tích 3.000m
2
cha, mẹ cho ông L bà A thống nhất và không có ý kiến gì, bà A yêu cầu được
hưởng ¼ kỷ phần thừa kế đối với phần diện tích khoảng 2.000m
2
; Chia số tiền đã
bán nhà, số tiền bà A được hưởng là 80.000.000 đồng.
Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
bà Bùi Thị T1 trình bày: Bà T1 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn vì đây là tài sản riêng của bà T1, đã được cụ Lê Thị E cho bà T1 chứ không
phải là di sản thừa kế.
Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
bà Đặng Thị C, người đại diện theo ủy quyền là bà Bùi Thị Thu H trình bày: Bà
C đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
bà Nguyễn Thị H2 trình bày: Bà H2 đồng ý với ý kiến của bị đơn.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 65/2024/DS-ST ngày 24/9/2024, Tòa án nhân
dân huyện P, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Bùi Như L đối
với bị đơn ông Bùi Như T về tranh chấp quyền sử dụng đất và tranh chấp di sản
thừa kế.
2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan Bà Bùi Thị A về tranh chấp di sản thừa kế.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, trách nhiệm thi hành
án và quyền kháng cáo cho các đương sự.
Sau khi có bản án sơ thẩm, ngày 07/10/2024 của nguyên đơn ông Bùi Như
L, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đặng Thị C và Bà Bùi Thị A có đơn
kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm số 33/2024/DS-ST ngày 27/6/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, đề nghị Tòa cấp phúc thẩm xét
xử lại vụ án theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và
yêu cầu kháng cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có giữ nguyên yêu cầu
kháng cáo; các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ
án.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực hiện
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
5
Về nội dung: Theo Công văn ngày 20/8/2024 của Ủy ban nhân dân xã A,
văn bản phân chia thừa kế của các đương sự là tự nguyện, phù hợp theo quy định
của pháp luật. Theo Công văn của Văn phòng Đ1, quy trình cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là đúng quy định của pháp luật. Việc tặng cho của cụ E là phù
hợp. Tài sản trên đất là tài sản của riêng cụ E, không phải di sản thừa kế. Bà A
cho rằng chữ ký của bà A trong văn bản phân chia di sản là giả mạo nhưng đã có
kết luận giám định đúng chữ ký của bà A. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận
yêu cầu của ông L là có căn cứ. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét,
giải quyết tài sản gắn liền trên đất là giải quyết vụ án chưa triệt để. Bị đơn cho
rằng nhà đã bán là của cha mẹ cho, nhưng không có căn cứ chứng minh. Kháng
cáo của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận một phần. Do đó, đề nghị Hội đồng
xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự để sửa một phần bản án
dân sự sơ thẩm, để buộc bị đơn phải hoàn trả số tiền tương đương 185 cây cao su
trên đất và thanh toán giá trị nhà cho 04 người đồng thừa kế.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên toà, kết quả tranh tụng của các đương sự tại phiên tòa, ý kiến đại diện
Viện kiểm sát,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Kháng cáo của nguyên đơn ông Bùi Như L, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan bà Đặng Thị C và Bà Bùi Thị A là trong thời hạn luật định. Do đó,
Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật.
[1.2] Quá trình tố tụng tại cấp phúc thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Bùi Thị T1 và Ủy ban nhân dân xã A, huyện P có đơn giải quyết vắng
mặt. Căn cứ vào Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án cấp phúc
thẩm tiến hành xét xử vắng mặt những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
này.
[1.3] Tại cấp phúc thẩm, nguyên đơn ông Bùi Như L giao nộp Đơn xác định
yêu cầu kháng cáo ngày 09/4/2025, theo đó xác định yêu cầu kháng cáo là huỷ
toàn bộ Bản án sơ thẩm số 65/2024/DS-ST ngày 24/9/2024 của Tòa án nhân dân
huyện P, tỉnh Bình Dương, chuyển hồ sơ về Tòa án nhân dân huyện P thụ lý, giải
quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. Xét thấy, việc xác định yêu cầu kháng cáo
của nguyên đơn ông L là phù hợp với khoản 2 Điều 284 của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015 nên được chấp nhận.
[1.3] Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn
trình bày rằng Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Bình Dương đã không đưa Ngân
hàng TMCP N – Chi nhánh P (sau đây gọi tắt là Ngân hàng N) vào tham gia với
tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Về phía bị đơn, ông Bùi Như T
cũng thừa nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa đất 683, tờ bản đồ số 33 tại ấp B,
xã A, huyện P, tỉnh Bình Dương đang được thế chấp tại Ngân hàng N từ tháng 7
năm 2024. Vào ngày 11/4/2025, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn
Thị H2 (vợ ông T) đã giao nộp cho Tòa án các chứng từ giao dịch, ủy nhiệm chi
6
và hợp đồng tín dụng với Ngân hàng N. Tại khoản 1 Điều 3 Hợp đồng tín dụng
số 5505-LAV-2024.01477 ngày 03/7/2024 giữa Ngân hàng N – Chi nhánh P (bên
cho vay) với bà Nguyễn Thị H2 và ông Bùi Như T (bên vay) quy định rằng “Nghĩa
vụ của Khách hàng theo Hợp đồng này được đảm bảo bằng (các) biện pháp bảo
đảm tại (các) hợp đồng bảo đảm sau: Thế chấp tài sản là Quyền sử dụng đất theo
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 5505-LCL-202400952 ký ngày
01/07/2024 giữa Ngân hàng và Bên thế chấp là ông Bùi Như T. Giá trị thế chấp:
503.000.000 đồng; đảm bảo cho mức vay tối đa: 402.400.000 đồng”.
Xét thấy, quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm, các bên đương sự không cung
cấp tài liệu, chứng cứ nào thể hiện quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 683, tờ
bản đồ số 33 đang tranh chấp được Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết mà vợ
chồng bị đơn ông T, bà H2 đã thế chấp tại Ngân hàng N chi nhánh P để vay số
tiền 400.000.000 đồng. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bên mới cung cấp thông tin
về việc thế chấp quyền sử dụng đất thửa 683 tại Ngân hàng N cho Tòa án. Tại
phiên tòa phúc thẩm, ông T cho rằng ông đã cung cấp sổ đất có thế chấp cho Tòa
án. Tuy nhiên, hồ sơ vụ án tại cấp sơ thẩm không thể hiện chứng cứ này. Lời trình
bày của ông T là mâu thuẫn và không phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ
sơ vụ án. Như vậy, việc không đưa Ngân hàng N vào tham gia tố tụng với tư cách
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về quan hệ nhân thân:
Cụ Bùi D1 sinh năm 1934 (chết ngày 01/01/2010) và cụ Lê Thị E sinh năm
1938 (chết ngày 13/8/2020) có 04 người con bao gồm: Bà Bùi Thị A, ông Bùi
Như L, ông Bùi Như T và bà Bùi Thị T1.
Cha cụ Lê Thị E là ông Lê M, sinh năm 1910, đã chết năm 1972; mẹ cụ Lê
Thị E là bà Đỗ Thị K, chết năm 1986. Cha của cụ Bùi D1 là ông Bùi V, sinh năm
1913, chết năm 1996; mẹ của cụ Bùi D1 là bà Lê Thị C1, sinh năm 1911, chết
năm 2004.
Ngoài ra, hồ sơ vụ án thể hiện cụ D1 và cụ E không có con riêng, con nuôi.
[2.2] Về nguồn gốc thửa đất:
[2.2.1] Nguồn gốc tài sản tranh chấp là thửa 38, tờ bản đồ số 33 tọa lạc tại
ấp B, xã A, huyện P, tỉnh Bình Dương (nay là thửa 680, 681, 682, 683) diện tích
là 12.360m
2
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01369 là của cụ Lê Thị
E, cụ Bùi D1.
[2.2.2] Ngày 01/01/2010, Cụ Bùi D1. Sau khi Cụ Bùi D1, cụ Lê Thị E và
các con là Bùi Như L, Bùi Như T, Bùi Thị T1, Bùi Thị Ánh lập văn bản phân chia
di sản thừa kế, theo đó thống nhất để phần di sản thừa kế của cụ Bùi D1 để lại cho
cụ Lê Thị E và cụ Lê Thị E được toàn quyền quản lý, sử dụng và đứng tên trên
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất nêu trên, được Ủy ban nhân
dân xã A chứng thực ngày 02/11/2010. Ngày 31/12/2010, cụ Lê Thị E được cấp
7
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 38, tờ bản đồ số 33 tại xã A,
huyện P, tỉnh Bình Dương.
[2.2.3] Ngày 18/02/2016, cụ E tặng cho một phần thửa 38, tờ bản đồ số 33
diện tích 3.059,1m
2
(tách thành thửa 680); Ngày 31/5/2016, bà Bùi Thị T1 được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 680. Ngày 28/10/2017, cụ
E tặng cho một phần thửa 38, tờ bản đồ số 33 diện tích 1684m
2
(tách thành thửa
681); Ngày 22/11/2017, bà Bùi Thị T1 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đối với thửa 681.
[2.2.4] Ngày 18/02/2016, cụ E tặng cho một phần thửa 38, tờ bản đồ số 33
diện tích 4658,2m
2
; Ngày 05/5/2016, ông Bùi Như T được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với thửa 682. Ngày 28/10/2017, cụ E tặng cho thửa 683, tờ
bản đồ số 33 diện tích 2912,8m
2
; Ngày 22/11/2017, ông Bùi Như T được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 683.
[2.2.5] Căn cứ theo Văn bản phân chia di sản thừa kế ngày 02/11/2010 được
chứng thực bởi Ủy ban nhân dân xã A, các bên tham gia thỏa thuận phân chia di
sản thừa kế của Cụ Bùi D1 cụ E, bà A, ông L, ông T và bà T1. Cụ thể, nội dung
thỏa thuận thể hiện rằng bà A, ông L, ông T và bà T1 không nhận phần di sản mà
các ông bà được thừa kế và thống nhất giao toàn bộ phần di sản thừa kế cho cụ Lê
Thị E, sinh năm 1938 được toàn quyền sử dụng và đứng tên trong Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất; phần quyền sử dụng đất còn lại của các ông bà cũng cho
cụ Lê Thị E được sử dụng và đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
và cam kết không khiếu kiện gì về sau.
[2.2.6] Cụ Bùi D1 vào ngày 01/01/2010 theo Trích lục khai tử số
425/TLKT-BS ngày 14/4/2021 của Ủy ban nhân dân xã A. Theo Công văn số
419/UBND ngày 20/8/2024 của UBND xã A thì “Ngày 02/11/2010, Ủy ban nhân
dân xã A có chứng thực văn bản phân chia di sản thừa kế số 582, quyển số 01/2010
P/CC-SCT/HĐ đối với thửa đất số 38, tờ bản đồ số 33 diện tích 12.360m
2
tọa lạc
tại ấp B, xã A, huyện P, tỉnh Bình Dương giữa bà Lê Thị E, Bà Bùi Thị A, ông Bùi
Như T, ông Bùi Như L, bà Bùi Thị T1. Tại thời điểm chứng thực, người nhận di
sản thừa kế có năng lực hành vi dân sự phù hợp theo quy định của pháp luật; nội
dung văn bản phân chia di sản thừa kế không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức của xã hội; những người lập văn bản phân chia di sản thừa
kế đã đồng ý toàn bộ nội dung ghi trong văn bản, đã ký, điểm chỉ vào văn bản
trước sự có mặt của ông Nguyễn Kim K1 là Phó Chủ tịch UBND xã A”. Theo
Công văn số 1795/CNVPĐKĐĐ ngày 26/8/2024 của Chi nhánh Văn phòng Đăng
ký đất đai huyện P thì trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đối với thửa 680, 681, 682, 683 tờ bản đồ số 33 toạ lạc tại xã A, huyện P, tỉnh
Bình Dương là đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.
[2.3] Về hiện trạng thửa đất:
[2.3.1] Theo Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý hệ toạ độ VN-
2000, tờ bản đồ số 33 (257 614-9) ngày 20/6/2023, phần diện tích đất tranh chấp
4.302,5m
2
thuộc thửa 683 và một phần thửa 682 đã được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho ông Bùi Như T (hiện trạng trồng cao su) và phần diện tích
8
đất tranh chấp 1.684m
2
thuộc thửa 681 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho bà Bùi Thị T1 (hiện trạng trồng cao su). Tổng diện tích đất mà các
bên tranh chấp là 5.986,5m
2
.
[2.3.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự thừa nhận nguyên đơn ông
Bùi Như L được cha mẹ cho phần đất thuộc thửa đất số 682 và 683, tờ bản đồ số
33 với diện tích khoảng 3.000m
2
từ năm 1997. Ông L đã trực tiếp quản lý, sử dụng
nhà, đất, trồng cây cao su và khai thác mủ cao su. Đến năm 2020 khi cụ E chết thì
ông L thanh lý cây và trồng lại cây cao su lứa thứ 2 cho đến nay. Anh chị em trong
gia đình không có tranh chấp. Việc trồng cây cao su và khai thác mủ cao su đã
được thể hiện tại Biên bản về việc đo đạc, xem xét, thẩm định tại chỗ ngày
09/3/2023, cụ thể phần đất thuộc thửa đất số 682 và 683, tờ bản đồ số 33 có 185
cây cao su do ông Bùi Như L trồng năm 2020. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm chưa
xem xét, đánh giá các tình tiết này để giải quyết vụ án. Xét thấy, việc Tòa án cấp
sơ thẩm không xem xét, giải quyết đối với các cây cao su do ông Bùi Như L trồng
trên phần đất tranh chấp làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của vợ chồng
nguyên đơn và giải quyết không triệt để vụ án cũng như khó khăn trong quá trình
thi hành án.
[2.3.4] Đối với căn nhà gỗ có diện tích khoảng 140m
2
kết cấu tường xây tô,
mái ngói, nền gạch, quá trình tố tụng giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, ông L, bà
H trình bày rằng trên phần đất thuộc thửa đất số 38 (nay đã tách thành 04 thửa
gồm: thửa đất số 680; 681; 682; 683), tờ bản đồ số 33 tọa lạc tại ấp B, xã A, huyện
P, tỉnh Bình Dương có một căn nhà gỗ do cha mẹ để lại, nay đã được ông T dỡ ra
và bán với số tiền là 320.000.000 đồng. Điều này cũng phù hợp với Biên bản hòa
giải ngày 13/6/2022 (bút lục 10-14), trong đó ghi nhận năm 2021 ban ấp B có tiếp
nhận vụ tranh chấp gia đình ông L liên quan đến căn nhà gỗ, kết quả hòa giải
không thành và bị đơn ông T thừa nhận căn nhà gỗ là của cha mẹ để lại. Ngoài ra,
Biên bản hòa giải ngày 31/3/2021 của Ban ấp B của Ủy ban nhân dân xã A (bút
lục 15-16) cũng thể hiện các cô chú anh chị trong dòng họ yêu cầu ông T không
bán căn nhà gỗ để làm nhà thờ cho con cháu sau này nhưng ông T không đồng ý
và quyết định bán đi. Căn cứ theo Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,
sự thừa nhận của các đương sự về nguồn gốc căn nhà là tình tiết, sự kiện không
phải chứng minh.
Xét thấy, căn nhà là tài sản của cha mẹ của ông L và ông T để lại. Tại phiên
tòa phúc thẩm, ông T trình bày rằng cha mẹ cho ông căn nhà gỗ này nhưng không
cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào chứng minh cho lời trình bày. Mặt khác, ông
T cho rằng ông đã cung cấp hợp đồng tặng cho đã nộp cho Tòa án, tuy nhiên căn
cứ vào hồ sơ vụ án, không có bút lục nào thể hiện hợp đồng tặng cho căn nhà gỗ
trên phần đất tranh chấp giữa cụ D1, cụ E cho ông T. Do đó, lời trình bày của ông
T tại phiên tòa là mâu thuẫn và không phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ
sơ vụ án.
Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đối với yêu cầu phân chia di sản thừa kế là
căn nhà gỗ trị giá 320.000.000 đồng thì căn nhà nêu trên là của cụ Bùi D1, cụ Lê
Thị E để lại, các bên xác nhận nên đây là di sản thừa kế do cha, mẹ để lại chưa
9
được phân chia. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng bị đơn ông T đã bán nên không thể
tiến hành thẩm định và định giá tài sản, đồng thời do không rõ ai là người mua và
tính xác thực với số tiền 320.000.000 đồng nên chưa có căn cứ để xem xét yêu
cầu này của ông L, bà A. Xét thấy, việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định căn nhà là
tài sản do cụ D1, cụ E để lại nhưng không tiến hành đối chất làm rõ về giá trị căn
nhà và cấp sơ thẩm không xem xét, giải quyết phần tài sản là căn nhà làm ảnh
hưởng đến quyền lợi của các bên đương sự. Trường hợp tại cấp phúc thẩm xem
xét, giải quyết thì không đảm bảo chế độ xét xử hai cấp. Tại phiên tòa phúc thẩm,
bị đơn ông Bùi Như T xác định đã bán căn nhà gỗ của cha mẹ với số tiền
320.000.000 đồng.
[2.4] Từ những phân tích trên, xét thấy cần phải đưa Ngân hàng N vào tham
gia tố tụng trong vụ án với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và thu
thập thêm chứng cứ để làm rõ nguồn gốc thửa đất, hiện trạng thửa đất, quá trình
quản lý, sử dụng đất và các tài sản gắn liền với đất cũng như ý kiến của các bên
đương sự về việc xử lý các tài sản khi phát sinh tranh chấp. Kháng cáo của nguyên
đơn ông Bùi Như L, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đặng Thị C và Bà
Bùi Thị A là có cơ sở để chấp nhận. Căn cứ theo khoản 3 Điều 308 của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015, do cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
là không đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng, việc
thu thập chứng cứ và chứng minh chưa được thực hiện đầy đủ mà tại phiên tòa
phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm
quyết định hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải
quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là chưa phù hợp.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn ông Bùi Như L, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đặng Thị C không phải chịu. Bà Bùi Thị A được
miễn án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 148, khoản 3 Điều 308, Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Bùi Như L, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đặng Thị C và Bà Bùi Thị A.
2. Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 65/2024/DS-ST ngày 24/9/2024 của Tòa
án nhân dân huyện P, tỉnh Bình Dương. Chuyển hồ sơ về cho Tòa án nhân dân
huyện P giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm:
3.1. Nguyên đơn ông Bùi Như L, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Đặng Thị C không phải chịu, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm
10
nghìn đồng) tạm ứng án phí phúc thẩm tại Biên lai số 0006631 ngày 26/11/2024
và số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí phúc thẩm tại Biên
lai số 0006632 ngày 26/11/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh
Bình Dương.
3.2. Bà Bùi Thị A được miễn án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của
pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS huyện P;
- TAND huyện P;
- Các đương sự;
- Tổ hành chính tư pháp;
- Lưu: Hồ sơ, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Trung Dũng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 17/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 17/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm