Bản án số 37/2025 ngày 03/04/2025 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp về thừa kế tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 37/2025
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 37/2025
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 37/2025
Tên Bản án: | Bản án số 37/2025 ngày 03/04/2025 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp về thừa kế tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thừa kế tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Quảng Nam |
Số hiệu: | 37/2025 |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 03/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Lê Thị Thu A - Lên Trung N |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NAM
Bản án số: 37/2025/DS-PT.
Ngày: 03-4-2025.
V/v tranh chấp về thừa kế tài sản.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
ông Phạm Quốc Bảo.
ông Nguyễn Văn Dũng;
ông Nguyễn Hữu Thịnh.
- Thư ký phiên tòa: bà Trần Thị Mẫn - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam: ông Nguyễn
Quang Minh - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 03 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 154/2024/TLPT-DS ngày 17 tháng
12 năm 2024 về “Tranh chấp về thừa kế tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 263/2024/DS-ST ngày 17 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 29/2024/QĐXXPT-
DS ngày 07 tháng 3 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: bà Lê Thị Thu A, sinh năm 1957.
Địa chỉ: thôn P, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: ông Lê Minh T, sinh năm
1989; địa chỉ: thôn P, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam và ông Đào Duy K, sinh
năm 1971; địa chỉ: thôn N, xã T, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
2. Bị đơn: ông Lê Trung N, sinh năm 1972.
Địa chỉ: Số C đường P, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: ông Bùi Anh N1 là
Luật sư của Văn phòng L thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Q. Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Lê Thị Kim C, sinh năm 1959.
2
Địa chỉ: khối phố H, phường H, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Lê Thị Kim C: ông Đào Duy K, sinh
năm 1971; địa chỉ: thôn N, xã T, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
3.2. Bà Lê Thị Tuyết M, sinh năm 1963.
Địa chỉ: Số A đường V, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Lê Thị Tuyết M: ông Đào Duy K,
sinh năm 1971; địa chỉ: thôn N, xã T, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
3.3. Bà Lê Thị Cẩm H, sinh năm 1964.
Địa chỉ: Số C đường P, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
3.4. Ông Lê Trung H1, sinh năm 1974.
Địa chỉ: Số B đường N, phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Lê Trung H1: ông Đào Duy K,
sinh năm 1971; địa chỉ: thôn N, xã T, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
3.5. Ông Lê Trung H2, sinh năm 1975.
Địa chỉ: thôn T, xã C, thành phố H, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
3.6. Ông Lê Trung T1, sinh năm 1973.
Địa chỉ: Số G đường số B, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí
Minh (nơi đăng ký thường trú: Khối phố B, phường A, thành phố T, tỉnh Quảng
Nam).
Người đại diện theo ủy quyền của ông Lê Trung T1: ông Đào Duy K, sinh
năm 1971; địa chỉ: thôn N, xã T, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
3.7. Bà Nguyễn Thị Hoa S, sinh năm 1985.
Địa chỉ: Số C đường P, thành phố T, tỉnh Quảng Nam (nơi đăng ký
thường trú: thôn Đ, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam). Có mặt.
4. Người kháng cáo: bị đơn ông Lê Trung N.
5. Viện kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Nam.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, các lời khai có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn là bà
Lê Thị Thu A và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn
trình bày:
Cha, mẹ bà A là ông Lê Trung S1 (chết năm 2019) và bà Lê Thị Minh N2
(chết năm 2014), sinh được 07 người con và có 01 người con nuôi, gồm: Lê Thị
Kim C, Lê Thị Thu A, Lê Thị Tuyết M, Lê Thị Cẩm H, Lê Trung H1, Lê Trung
H2, Lê Trung N và Lê Trung T1 (ông T1 được cha, mẹ nhận làm con nuôi).
Đồng thời, khi còn sống cha, mẹ bà A có tạo lập được di sản là nhà và đất tại Số
3
C đường P, thuộc thửa đất số 212, tờ bản đồ số 17, diện tích đất ở 142,7m
2
tại
phường P (nay là phường A), thành phố T, tỉnh Quảng Nam theo Giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 428, do UBND tỉnh Q cấp
ngày 27/7/2001 cho ông Lê Trung S1 và bà Lê Thị Minh N2.
Cha, mẹ bà A trước khi chết không để lại di chúc và hiện tại giữa chị em
bà Á không thống nhất được việc phân chia di sản. Hiện di sản thừa kế do em
trai bà Á là ông Lê Trung N đang quản lý, sử dụng và giữ các giấy tờ liên quan.
Nay, bà A khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết chia di sản thừa kế theo
quy định của pháp luật, bà Á yêu cầu được nhận 1/8 giá trị được thừa kế. Bà A
thống nhất với kết quả Chứng thư thẩm định giá số 298/CTTĐG-VFC ngày
03/7/2023 của Công ty Cổ phần T3 và tự nguyện chịu phần chi phí xem xét,
thẩm định tại chỗ và định giá tài sản.
Tại các lời khai có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn là
ông Lê Trung N trình bày:
Cha ông là ông Lê Trung S1 và mẹ ông là bà Lê Thị Minh N2 đều đã chết
và không để lại di chúc. Trước khi chết, cha mẹ ông có để lại tài sản là ngôi nhà
Số C đường P, thành phố T. Cha mẹ ông có 07 người con chung và 01 người
con nuôi như bà A trình bày.
Khi cha mẹ ông già yếu, bệnh tật thì vợ chồng ông là người trông nom,
nuôi dưỡng và phụng sự đến khi qua đời. Năm 2004, mẹ ông không may bị tai
nạn gãy cổ xương đùi. Khi đó mẹ ông không có bảo hiểm nên vợ chồng ông
phải vay mượn lo liệu thuốc thang và viện phí, trong khi không có sự hỗ trợ của
anh chị em. Trước khi qua đời, nguyện vọng của cha mẹ là anh em cố gắng giữ
lại ngôi nhà kỷ niệm và thờ cúng ông bà. Ông là con trai đầu có nhiệm vụ tu bổ,
giữ gìn và thờ cúng ông bà, ông không có ý định chiếm đoạt hay làm gì trái với
pháp luật. Ông mong anh chị em cho ông ở thêm vài năm nữa để nuôi con ăn
học, vì kinh tế gia đình trông vào cái cửa hàng nhỏ lẻ.
Lúc trước họp gia đình, mọi người đồng ý bán ½ ngôi nhà phía sau để
chia cho anh em, còn ½ ngôi nhà phía trước để lại buôn bán và thờ cúng ông bà.
Nếu sau này không giữ được ngôi nhà thì ông mong anh chị em trích 50% giá trị
ngôi nhà để làm một ngôi nhà thờ đàng hoàng và ấm cúng để sau này giỗ kỵ con
cháu về sum họp đông đủ. Trước đây, khi bà C khởi kiện thì ông có giao cho bà
C 50.000.000 đồng và bà C rút đơn khởi kiện.
Trong quá trình vợ chồng ông chung sống với cha mẹ, lúc cha mẹ già yếu,
bệnh tật vợ chồng ông có đóng viện phí và nuôi dưỡng; vợ chồng ông có sửa
chữa, tôn tạo và bảo dưỡng ngôi nhà bao năm nay như: làm lại nền gạch men,
thay cửa sắt, thay chái tôn, sửa chữa bàn ngồi vệ sinh. Nếu phân chia di sản thì
ông không yêu cầu những người đồng thừa kế phải thanh toán lại cho vợ chồng
ông những chi phí này.
Ông thống nhất với Chứng thư thẩm định giá số 298/CTTĐG-VFC ngày
03/7/2023 của Công ty Cổ phần T3.
4
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
- Bà Lê Thị Cẩm H, ông Lê Trung H2 và bà Nguyễn Thị Hoa S thống
nhất với phần trình bày của ông Lê Trung N.
- Người đại diện theo uỷ quyền của bà Lê Thị Tuyết M, bà Lê Thị Kim C,
ông Lê Trung T1, ông Lê Trung H1 là ông Đào Duy K đề nghị Tòa án xem xét
chia di sản thừa kế của ông Lê Trung S1 và bà Lê Thị Minh N2 theo quy định
của pháp luật.
Với nội dung vụ án như trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 263/2024/DS-
ST ngày 17 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ, tỉnh
Quảng Nam đã căn cứ các Điều 26, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015các Điều 611, 612, 613, 623, 649, 650, 651 và 660 của Bộ luật Dân sự năm
2015các Điều 33, 66 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH1430/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ
phí Tòa án. Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị Thu A đối với bị
đơn ông Lê Trung N về việc “Tranh chấp chia di sản thừa kế”.
- Giao cho ông Lê Trung N được quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài
sản gắn liền với đất tại thửa đất số 212, tờ bản đồ số 17, diện tích đất ở 142,7m
2
tại phường P (nay là phường A), thành phố T, tỉnh Quảng Nam theo Giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 428, do UBND tỉnh Q cấp
ngày 27-7-2001 cho ông Lê Trung S1 và bà Lê Thị Minh N2, trị giá
6.923.893.000 đồng.
- Buộc ông Lê Trung N có nghĩa vụ phải thanh toán giá trị kỷ phần thừa
kế cho các đồn
g thừa kế, cụ thể: cho bà Lê Thị Thu A, bà Lê Thị Tuyết M, bà Lê Thị
Cẩm H, ông Lê Trung H1, ông Lê Trung H2, ông Lê Trung T1 mỗi người với số
tiền là 865.486.625 đồng và cho bà Lê Thị Kim C số tiền là 815.486.625 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng, nghĩa
vụ thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 26/9/2024, bị đơn là ông Lê Trung N có đơn
kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm; ngày 16/10/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Quảng Nam có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số: 26/QĐ-
VKS-DS, đề nghị sửa bản án sơ thẩm, tính lại công sức tôn tạo, bảo quản di sản
thừa kế cho bị đơn theo đúng quy định pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng
Nam phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai
đoạn phúc thẩm: Thẩm phán được phân công trực tiếp giải quyết vụ án đã thực
hiện đúng các quy định của pháp luật về việc thụ lý vụ án, về thời hạn giải quyết
vụ án, về việc chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu để tham gia xét
xử. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự,
5
thủ tục theo quy định của pháp luật. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền,
nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
- Về việc giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều
308 và Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận một phần kháng cáo của bị
đơn và chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Nam, sửa bản án sơ thẩm theo hướng công nhận công sức tôn tạo, bảo
quản di sản thừa kế và công chăm sóc cha, mẹ cho bị đơn ông Lê Trung N,
tương ứng với 20% giá trị di sản thừa kế là 1.384.778.600 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng
xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện,
người kháng cáo giữ nguyên kháng cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Nam giữ nguyên kháng nghị; các đương sự không thỏa thuận được với
nhau về việc giải quyết vụ án.
[2] Xét kháng cáo của bị đơn ông Lê Trung N và kháng nghị của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam, thì thấy:
[2.1] Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và sự thừa nhận của
các đương sự, thể hiện: cha, mẹ của nguyên đơn và bị đơn là ông Lê Trung S1
(chết năm 2019) và bà Lê Thị Minh N2 (chết năm 2014); những người thuộc
hàng thừa kế thứ nhất của ông S1 và bà N2 gồm các ông, bà: Lê Thị Kim C, Lê
Thị Thu A, Lê Thị Tuyết M, Lê Thị Cẩm H, Lê Trung H1, Lê Trung H2, Lê
Trung N và Lê Trung T1; di sản thừa kế do ông S1 và bà N2 để lại là quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 212, tờ bản đồ số 17, diện tích
đất ở 142,7m
2
tại phường P (nay là phường A), thành phố T, tỉnh Quảng Nam
theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, do UBND
tỉnh Q cấp ngày 27/7/2001 cho ông Lê Trung S1 và bà Lê Thị Minh N2.
[2.2] Trước khi chết, ông S1, bà N2 không để lại di chúc nên Tòa án cấp
sơ thẩm chia di sản thừa kế do ông S1, bà N2 để lại theo pháp luật cho những
người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông S1, bà N2 gồm các ông, bà: Lê Thị
Kim C, Lê Thị Thu A, Lê Thị Tuyết M, Lê Thị Cẩm H, Lê Trung H1, Lê Trung
H2, Lê Trung N và Lê Trung T1 (08 người) là có căn cứ, đúng pháp luật.
Về giá trị di sản thừa kế: các đương sự đều thống nhất với kết quả định
giá theo Chứng thư thẩm định giá số: 298/CTTĐG-VFC ngày 03/7/2023 của
Công ty Cổ phần T3; theo đó, tổng giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất là 6.923.893.000 đồng.
Về phân chia di sản thừa kế: tổng giá trị di sản thừa kế của ông S1, bà N2
là 6.923.893.000 đồng, được chia cho 08 người, gồm các ông, bà: Lê Thị Kim
C, Lê Thị Thu A, Lê Thị Tuyết M, Lê Thị Cẩm H, Lê Trung H1, Lê Trung H2,
Lê Trung N, Lê Trung T1. Cụ thể, mỗi người được hưởng một kỷ phần thừa kế
6
trị giá là: 6.923.893.000 đồng : 8 = 865.486.625 đồng (riêng bà Lê Thị Kim C đã
nhận của ông N 50.000.000 đồng). Tòa án cấp sơ thẩm xác định hiện nay ông Lê
Trung N là người đang quản lý, sử dụng di sản thừa kế nên giao cho ông N được
nhận hiện vật và có nghĩa vụ thanh toán giá trị kỷ phần thừa kế cho các đồng
thừa kế khác là phù hợp.
[2.3] Tại Tòa án cấp phúc thẩm, bị đơn yêu cầu tính công sức chăm sóc,
nuôi dưỡng người để lại di sản thừa kế và công sức quản lý, tôn tạo di sản thừa
kế; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn và đại diện Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Quảng Nam đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng nội dung
Án lệ số: 05/2016/AL (được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
thông qua ngày 06/4/2016 và công bố theo Quyết định số: 220/QĐ-
CA06/4/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao) để tính công sức chăm
sóc, nuôi dưỡng người để lại di sản thừa kế và công sức quản lý, tôn tạo di sản
thừa kế cho vợ chồng bị đơn ông Lê Trung N. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét
thấy: tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn ông Lê Trung N và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan bà Nguyễn Thị Hoa S thừa nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất tại thửa đất số 212, tờ bản đồ số 17, diện tích đất ở 142,7m
2
; địa chỉ:
Số C đường P, phường P (nay là phường A), thành phố T, tỉnh Quảng Nam theo
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, do UBND tỉnh Q
cấp ngày 27/7/2001 cho ông Lê Trung S1 và bà Lê Thị Minh N2 là di sản thừa
kế do ông S1, bà N2 để lại và khi được Hội đồng xét xử sơ thẩm hỏi thì ông N,
bà S đều cho rằng nếu Tòa án phân chia di sản thừa kế thì ông N, bà S không
yêu cầu trả tiền công sức chăm sóc, nuôi dưỡng người để lại di sản thừa kế và
công sức quản lý, tôn tạo di sản thừa kế nên Hội đồng xét xử sơ thẩm không
xem xét là có cơ sở, phù hợp với quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự
được quy định tại Điều 5 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bị đơn và đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam đề
nghị áp dụng Án lệ số: 05/2016/AL (được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao thông qua ngày 06/4/2016 và công bố theo Quyết định số: 220/QĐ-
CA06/4/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao) là không có căn cứ chấp
nhận. Bởi lẽ, như đã nhận định ở trên, tại phiên tòa sơ thẩm ông N, bà S cho
rằng nếu Tòa án phân chia di sản thừa kế thì ông, bà không yêu cầu trả tiền công
sức chăm sóc, nuôi dưỡng người để lại di sản thừa kế và công sức quản lý, tôn
tạo di sản thừa kế nên không phù hợp với tình huống pháp lý tại Án lệ số:
05/2016/AL.
[2.4] Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy
không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Lê Trung N và kháng
nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam. Tuy nhiên, tại
phiên tòa phúc thẩm, ông Lê Trung H2 chỉ yêu cầu ông Lê Trung N thanh toán
cho ông H2 số tiền là 700.000.000 đồng và bà Lê Thị Cẩm H chỉ yêu cầu ông Lê
Trung N thanh toán cho bà H số tiền là 200.000.000 đồng. Xét thấy, đây là sự tự
nguyện của đương sự, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã
hội nên Hội đồng xét xử phúc thẩm công nhận nội dung tự nguyện thỏa thuận
này của ông H2, bà H, sửa bản án sơ thẩm.
7
[3] Án phí dân sự sơ thẩm: Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ
thẩm nên xác định lại nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của
pháp luật.
[4] Án phí dân sự phúc thẩm: do kháng cáo không được chấp nhận nên bị
đơn ông Lê Trung N phải chịu số tiền 300.000 đồng, được trừ vào số tiền tạm
ứng án phí phúc thẩm đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1, khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Lê Trung N và Quyết định
kháng nghị phúc thẩm số: 26/QĐ-VKS-DS ngày 16/10/2024 của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam, sửa Bản án dân sự sơ thẩm số:
263/2024/DS-ST ngày 17/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ, tỉnh
Quảng Nam, công nhận sự tự nguyện của ông Lê Trung H2 và bà Lê Thị Cẩm
H.
Căn cứ vào các Điều 26, 35, 38, 39, 147 và 148 của Bộ luật Tố tụng dân
sự; các Điều 611, 612, 613, 623, 649, 650, 651, 653, 660 và Điều 688 của Bộ
luật Dân sự năm 2015 các Điều 26, 27 và 29 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án. Xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà A Á đối với bị đơn ông
Lê Trung N về việc “Tranh chấp về thừa kế tài sản”.
Xác định quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất tại
thửa đất số 212, tờ bản đồ số 17, diện tích đất ở 142,7m
2
, địa chỉ: Số C đường P,
phường P (nay là phường A), thành phố T, tỉnh Quảng Nam theo Giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở do Ủy ban nhân dân tỉnh Q cấp
ngày 27/7/2001 cho ông Lê Trung S1 và bà Lê Thị Minh N2 là di sản thừa kế
của ông Lê Trung S1 và bà Lê Thị Minh N2 để lại.
Giao cho ông Lê Trung N được quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài
sản gắn liền với đất tại thửa đất số 212, tờ bản đồ số 17, diện tích đất ở 142,7m
2
,
địa chỉ: Số C đường P, phường P (nay là phường A), thành phố T, tỉnh Quảng
Nam theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở do Ủy
ban nhân dân tỉnh Q cấp ngày 27/7/2001 cho ông Lê Trung S1 và bà Lê Thị
Minh N2, trị giá 6.923.893.000 (Sáu tỷ chín trăm hai mươi ba triệu tám trăm
chín mươi ba nghìn) đồng.
Buộc ông Lê Trung N có nghĩa vụ thanh toán giá trị kỷ phần thừa kế cho:
bà Lê Thị Thu A, bà Lê Thị Tuyết M, ông Lê Trung H1, ông Lê Trung T1 mỗi
người số tiền 865.486.000 (T2 trăm sáu mươi lăm triệu bốn trăm tám mươi sáu
nghìn) đồng; bà Lê Thị Kim C số tiền 815.486.000 (Tám trăm mười lăm triệu
8
bốn trăm tám mươi sáu nghìn) đồng; ông Lê Trung H2 số tiền 700.000.000 (Bảy
trăm triệu) đồng; bà Lê Thị Cẩm H số tiền 200.000.000 (Hai trăm triệu) đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468
của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Chi phí tố tụng: bà Lê Thị Thu A tự nguyện nộp số tiền chi phí xem xét,
thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 1.500.000 (Một triệu năm trăm nghìn)
đồng (đã nộp xong).
Án phí dân sự sơ thẩm: bà Lê Thị Thu A, bà Lê Thị Kim C, bà Lê Thị
Tuyết M, bà Lê Thị Cẩm H được miễn; ông Lê Trung H1, ông Lê Trung T1 mỗi
người phải chịu số tiền 37.964.000 (Ba mươi bảy triệu chín trăm sáu mươi bốn
nghìn) đồng; ông Lê Trung H2 phải chịu số tiền 32.000.000 (Ba mươi hai triệu)
đồng; ông Lê Trung N phải chịu số tiền 62.893.000 (Sáu mươi hai triệu tám
trăm chín mươi ba nghìn) đồng.
Án phí dân sự phúc thẩm: ông Lê Trung N phải chịu số tiền 300.000 (Ba
trăm nghìn) đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp
300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
0001520 ngày 27/9/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tam Kỳ,
tỉnh Quảng Nam.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (03/4/2025).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Quảng Nam;
- TAND thành phố Tam Kỳ;
- Chi cục THADS thành phố Tam Kỳ;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Phạm Quốc Bảo
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm