Bản án số 65/2025/DS-PT ngày 14/04/2025 của TAND tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp về thừa kế tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 65/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 65/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 65/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 65/2025/DS-PT ngày 14/04/2025 của TAND tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp về thừa kế tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thừa kế tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Thái Nguyên |
Số hiệu: | 65/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 14/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 13/2024/DS-ST ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Toà án nhân dân huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH THÁI NGUYÊN Độc lập - Tự do – Hạnh phúc
Bản án số 65/2025/DS-PT
Ngày 14/4/2025
V/v tranh chấp thừa kế.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Văn Quế.
Các Thẩm phán: Ông Hoàng Văn Giang và bà Lê Thị Hồng Phương.
- Thư ký phiên toà: Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - Thư ký Toà án nhân dân
tỉnh Thái Nguyên.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên tham gia phiên
tòa: Bà Lê Ngọc Kim Loan - Kiểm sát viên.
Ngày 10 và ngày 14 tháng 4 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thái
Nguyên mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:
138/2024/TLPT-DS ngày 07 tháng 10 năm 2024 về tranh chấp thừa kế.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 13/2024/DS-ST ngày 28 tháng 6 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 210/QĐPT-DS ngày 22
tháng 11 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Trần Quốc H, sinh năm 1958;
Địa chỉ: Tổ dân phố T, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (có mặt).
2. Bị đơn: Bà Ma Thị X, sinh năm 1956;
Địa chỉ: Xóm L, xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bà X: Anh Trần Văn L, sinh năm 1984
(con trai bà X);
Địa chỉ: Xóm L, xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên (anh L có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. UBND huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Minh T, Chủ tịch UBND
huyện Đ.
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Trần Trường T1. Chức vụ: Phó Trưởng
phòng, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên (có đơn xin
xét xử vắng mặt).
3.2. Bà Trần Kim D1, sinh năm 1937;
Địa chỉ: Số nhà E, Tổ dân phố T, thị trấn C, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên (có
đơn xin xét xử vắng mặt).
3.3. Anh Trần Văn N, sinh năm 1978 (con trai bà X có mặt).
3.4. Anh Trần Văn L, sinh năm 1984 (con trai bà X có mặt).
3.5. Anh Trần Kim Q, sinh năm 1989 (con trai bà X có đơn xin xét xử vắng mặt).
3.6. Chị Phạm Thị H1, sinh năm 1982 (vợ anh N có đơn xin xét xử vắng mặt).
3.7. Chị Hứa Thị H2, sinh năm 1988 (vợ anh L có đơn xin xét xử vắng mặt).
Đều ở địa chỉ: Xóm L, xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.
3.8. Chị Trần Thị L1, sinh năm 1986 (con gái bà X);
Địa chỉ: Xóm B, xã L, huyện Ứ, thành phố Hà Nội, (có đơn xin vắng mặt
tại các phiên toà).
3.9. Chị Trần Thị H3, sinh năm 1982 (con gái bà X);
Địa chỉ: Xóm B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên (có đơn xin xét xử vắng mặt).
4. Người làm chứng:
Ông Ngô Quốc B, ông Ngô Đại D, ông Lý Xuân L2, bà Ngô Thị T2, bà
Phan Thị H4, ông Lưu Văn T3, bà Lưu Thị T4, bà Ma Thị T5, ông Ma Văn C, bà
Lý Thị L3, bà Nguyễn Thị L4, bà Lý Thị Minh H5.
Đều ở địa chỉ: Xóm L, xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên (đều vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm nguyên đơn ông Trần Quốc H trình bày: Bố mẹ ông
là cụ Trần Công P, sinh năm 1912 chết năm 1977 và mẹ là cụ Phạm Thị Đ sinh
năm 1915 chết năm 2008, khi chết 2 cụ đều không để lại di chúc, không có bố,
mẹ nuôi, con nuôi. Hai cụ sinh được 05 người con nhưng chết 2 khi còn nhỏ. Ông
ở cùng bố mẹ, lớn lên năm 1982 ông đi bộ đội đến khi về hưu và hiện đang ở nhà
của quân đội phân cho tại phường Đ, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. Chị cả là
Trần Thị Kim D1, anh Trần Công P1 (anh P1 sinh năm 1958 chết năm 2018). Đất
do bố mẹ ông khai phá từ những năm 1945 rồi ở nhiều nơi đến khoảng năm 1968
mới về khu đất tranh chấp bây giờ để ở. Khi ông P1 còn sống, ông cũng có đơn
gửi đến UBND xã P yêu cầu phân chia nhưng không thành, sau khi ông P1 chết
năm 2018, bà X và các con là anh L, anh N quản lý, sử dụng toàn
bộ tài sản nhà, đất, ruộng, vườn và cây trồng có trên đất. Năm 2021 ông yêu cầu
bà X và các con của bà X chia di sản của cụ P, cụ Đ để lại nhưng không được
chấp nhận. Nay ông yêu cầu bà X phải chia di sản thừa kế gồm:
- Đất trồng cây hằng năm khác gồm: Thửa đất 91 có diện tích 325,7m
2
đất;
thửa đất 94 có diện tích 21,1m
2
đất; thửa đất 95 có diện tích 227,3 m
2
đất; thửa
đất 100 có diện tích 312,2 m
2
đất đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
ông Trần Công P1 năm 2012 đến nay đã cấp thành 01 thửa có tổng diện tích là
832,3 m
2
đất tại thửa số 130 tờ Bản đồ số 47 xã P ngày 19/7/2018. Hiện nay bà X
và anh L, anh N đang trực tiếp quản lý sử dụng và trồng cây ăn quả trên đất. Ông
H yêu cầu chia đôi và lấy bằng đất.
- Đất trồng lúa tại thửa đất số 279, tờ bản đồ sối 37 có diện tích 1181,1m
2
đất đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trần Công P1 ngày
30/11/2012. Hiện nay bà X và anh L, anh N đang trực tiếp canh tác. Ông H yêu
cầu chia đôi và lấy bằng đất.
- Đối với phần đất thổ cư và đất trồng cây hằng năm khác tại thửa 112 tờ bản
đồ số 48 có diện tích 1.606,5 m
2
đất hiện nay mới đo đạc bản đồ địa chính. Trên đất
có 03 ngôi nhà cụ thể gồm: 01 nhà mái lá, cột gỗ của bố, mẹ của ông làm, ở từ năm
1968-1969, hiện nay gia đình anh N đang ở (nhà cũ); 01 nhà mái lợp Prôxi măng,
tường ximăng cát hiện nay bà X và anh Q đang ở; 01 nhà mái lợp Prôxi măng, tường
xi măng cát hiện nay gia đình anh L đang ở. Khu đất này liền đất với thửa số 104 tờ
bản đồ số 48 có diện tích 728,5 m
2
đất ao nuôi trồng thủy sản cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất ngày 16/8/2013 cho ông P1, hiện nay anh L, anh N đã san đất làm
lán mở xưởng xẻ gỗ. Ông yêu cầu chia đôi như sơ đồ đã xem xét, thẩm định tại chỗ,
ông xin lấy một phần đất có nhà ở, tài sản cây trồng có trên đất là nhà cũ của bố, mẹ
ông tại thửa 112 và thửa 104 và có trách nhiệm thanh toán chệnh lệch bằng tiền cho
các hàng thừa kế khác theo quy định.
Ngày 07/5/2024 và tại phiên tòa sơ thẩm ông H rút toàn bộ yêu cầu hủy
quyết định cá biệt, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
Tại phiên tòa sơ thẩm đại diện theo ủy quyền của bà Ma Thị X là anh Trần
Văn L đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Theo bố mẹ anh nói lại, ông Trần Công P và bà Phạm Thị Đ, sinh được 05
người con nhưng 02 người đã chết khi còn nhỏ, chỉ còn 03 người con là bà D1,
ông P1 và ông H. Khi ông, bà chết không để lại di chúc. Năm 1972 ông P1 đi bộ
đội, năm 1977 ông P1 lấy bà X và ở chung với bố mẹ được thời gian ngắn thì ông
P chết. Năm 1978 vợ chồng ông P1 sinh anh N, năm 1979 ông P1 lại đi bộ đội
đến năm 1981 thì trở về làm nhà ra ở riêng tại vị trí đất nhà bà X và anh Q đang
ở như hiện nay. Anh N vẫn ở chung nhà với bà Đ, chung sổ hộ khẩu với ông P1
cho đến năm 2008 bà Đ mất. Sau khi anh N lấy vợ, sinh con thì vẫn ở ngôi nhà
của ông, bà các cụ để lại. Anh L sinh năm 1984, lớn lấy vợ, sinh con và làm nhà
ra ở riêng trên diện tích đất một phần là của bố mẹ để lại, một phần bố, mẹ và anh
em anh khai phá theo bản đồ địa chính có diện tích là 1.606,5 m
2
đất.
Về tài sản ông H yêu cầu phân chia, bà X và anh L xác định: Ban đầu các
cụ chỉ có phần đất, nhà các cụ mà anh N đang ở. Sau đó vợ, chồng và các con
khai phá thêm ruộng, vườn, ao mới được như hiện nay. Phần đất của ông, bà và
phần đất khai phá, năm 1994 bà Đ đã cho ông P1 toàn bộ nhưng không có giấy tờ
gì, ông P1 đã đứng tên trong sổ địa chính, đã làm thủ tục kê khai và ngày
15/10/1994 được Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất với tổng diện tích 4.490 m
2
đất ở, đất vườn, đất rừng, đất trồng lúa, ao. Trên
đất có 03 ngôi nhà, cây trồng, đo đạc bản đồ địa chính hiện nay có diện tích
1.606,5 m
2
đất; phần đất ao nuôi trồng thủy sản có diện tích là 728,5 m
2
đất do bố
mẹ khai phá, ông P1 được cấp Giấy chứng nhận ngày 03/9/2013, hiện nay trên
đất có nhà xưởng gỗ của anh L và anh N đang sử dụng.
Bà X, anh L đều xác định tài sản ông H yêu cầu chia thừa kế là tài sản, di
sản của ông P1 để lại, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện và đề nghị Tòa án áp
dụng thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế đối với phần của ông P. Nếu phải
chia di sản thừa kế thì phần di sản ông H được hưởng đề nghị: Toàn bộ phần đất
thổ cư, đất trồng mầu, giao, chia chung cho 04 người là bà X, anh L, anh N, anh
Q; đất nuôi trồng thủy sản giao, chia chung cho anh L, anh N; đất trồng lúa giao,
chia chung cho 02 người là anh L, anh N; đất trồng màu giao, chia chung cho 03
người là anh L, anh N, anh Q quản lý, sử dụng và thanh toán cho ông H bằng tiền.
Đề nghị Tòa án xem xét. Anh Trần Văn N đồng ý với ý kiến và lời trình bày của
anh L. Anh Trần Kim Q, chị Trần Thị H3, chị Trần Thị L1 là con của ông P1, bà
X vắng mặt không đến Tòa làm việc, nhưng đã có đơn thống nhất, thỏa thuận với
bà X, anh L và các anh, em về việc nhận và phân chia di sản, Đề nghị Tòa án xem
xét. Chị Phạm Thị H1 (vợ anh N) và chị Hứa Thị H2 (vợ anh L), vắng mặt tại
phiên tòa nhưng quá trình giải quyết vụ án có quan điểm ông H khởi kiện chia
thừa kế thì hoàn toàn do mẹ chồng và anh, em nhà chồng xem xét, quyết định.
Bà Trần Thị D1 vắng mặt tại phiên toà, nhưng trong quá trình giải quyết
vụ án xác định: Bố mẹ là ông P, bà Đ sinh được 06 người con, chết 03 khi còn
nhỏ. Tài sản ông H yêu cầu phân chia là của bố mẹ là ông P, bà Đ để lại. Khi bà
đi xây dựng gia đình, ông H đi bộ đội và ỏ Thái Nguyên thì toàn bộ tài sản là đất,
ruộng, vườn vợ chồng ông P1 quản lý, sử dụng. Trong biên bản lấy lời khai, biên
bản hòa giải bà xác định phần của bà được hưởng sẽ chia đôi cho ông H và ông
P1. Đề nghị Tòa án xem xét.
Ủy ban nhân dân huyện Đ có ý kiến tại văn bản số 861/UBND-TNMT,
ngày 11/3/2022 xác định UBND huyện Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất ngày 15/10/1994 cho ông Trần Công P1 và cấp đổi Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất ngày 30/11/2012 cho ông P1 là đúng quy định của pháp luật. Đề nghị
Tòa án xem xét.
Những người làm chứng: Ông Ngô Quốc B, ông Ngô Đại D, ông Lý Xuân
L2, bà Ngô Thị T2, bà Phan Thị H4, ông Lưu Văn T3, bà Lưu Thị T4, bà Ma Thị
T5, ông Ma Văn C, bà Lý Thị L3, bà Nguyễn Thị L4, bà Lý Thị Minh H5 đều
vắng mặt tại phiên tòa, nhưng trong quá trình làm việc đều xác định. Khu đất
tranh chấp trước đây thấy bố, mẹ ông P1 là cụ P cụ Đ cùng các con, cháu ở, quản
lý, sử dụng. Sau này nghe nói năm 1994 bà Đ đã cho ông P1 làm hồ sơ kê khai
đứng tên và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đến nay vợ, con ông
P1 đang là người trực tiếp quản lý, sử dụng. Cụ thể cho đứng tên hay tặng cho thế
nào, ở đâu, bao nhiêu mét vuông, có viết giấy tờ gì không các ông bà đều không
biết cụ thể.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên phát
biểu ý kiến: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Xác định di
sản thừa kế và chia di sản thừa kế theo pháp luật có tính đến thời gian, công sức,
quản lý sử dụng tôn tạo và điều kiện hoàn cảnh của các bên đương sự để phân
chia. Nguyên đơn rút yêu cầu H6 quyết định cá biệt là Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của ông P1, đề nghị Hội đồng xem xét.
Với nội dung trên, tại bản án số 13/2024/DS-ST ngày 28 tháng 6 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên đã xét xử và quyết định:
1. Chấp nhận một phần yêu khởi kiện của ông Trần Quốc H.
2. Tổng giá trị tài sản là quyền sử dụng đất là di sản thừa kế bao gồm: Diện
tích 832,3m
2
đất tại thửa số 130 tờ bản đồ số 47; diện tích 1.606,5m
2
đất tại thửa
số 112 tờ bản đồ số 48; diện tích 728,5m
2
đất nuôi trồng thủy sản tại thửa số 104
tờ bản đồ 48; diện tích 1.181,1m
2
đất tại thửa số 279 tờ bản đồ số 37, Bản đồ địa
chính xã P có tổng giá trị là 315.403.850 đồng. Trong đó phần di sản ông H được
hưởng có giá trị là 78.850.962 đồng (bẩy mươi tám triệu, tám trăm năm mươi
nghìn, chín trăm sáu mươi hai đồng).
- Giao cho bà Ma Thị X, anh Trần Văn L, anh Trần Văn N, anh Trần Kim
Q tiếp tục quản lý và sử dụng diện tích 1.606,5m
2
đất tại thửa số 112 tờ bản đồ số
48, trong đó có 200m
2
đất thổ cư, còn lại là đất trồng cây hàng năm khác theo đo
đạc bản đồ địa chính có giá trị là 230.000.000 đồng (hai trăm ba mươi triệu đồng)
và có trách nhiệm liên đới thanh toán cho ông Trần Quốc H số tiền là 57.500.000đ
(năm mươi bẩy triệu, năm trăm nghìn đồng), cụ thể mỗi người phải thanh toán
cho ông Trần Quốc H với số tiền là 14.375.000đ (mười bốn triệu, ba trăm bẩy
mươi lăm nghìn đồng).
- Giao cho anh Trần Văn L, anh Trần Văn N, tiếp tục quản lý và sử dụng
diện tích 728,5m
2
đất nuôi trồng thủy sản tại thửa số 104 tờ bản đồ số 48 xã P,
huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên có giá trị là 32.782.500 đồng (ba mươi hai triệu, bẩy
trăm tám mươi hai nghìn, năm trăm đồng) và có trách nhiệm liên đới thanh toán
cho ông Trần Quốc H số tiền là 8.195.625 đồng (tám triệu, một trăm chín mươi
năm nghìn, sáu trăm hai mươi lăm đồng), trong đó mỗi người phải thanh toán cho
ông Trần Quốc H với số tiền là 4.097.812 đồng (bốn triệu, không trăm chín bẩy
nghìn, tám trăm mười hai đồng).
- Giao cho anh Trần Văn L, anh Trần Văn N, anh Trần Kim Q tiếp tục quản
lý và sử dụng diện tích 832,3m
2
đất trồng cây lâu năm khác tại thửa số 130 tại tờ
bản đồ số 47, xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên có giá trị là 44.944.200 đồng (bốn
mươi bốn triệu, chín trăm bốn mươi bốn nghìn, hai trăm đồng) và có trách nhiệm
liên đới thanh toán cho ông Trần Quốc H số tiền là 11.236.050 đồng (mười một
triệu, hai trăm ba mươi sáu nghìn, không trăm năm mươi đồng), trong đó mỗi
người phải thanh toán cho ông Trần Quốc H với số tiền là 3.745.350 đồng (ba
triệu, bẩy trăm bốn mươi năm nghìn, ba trăm năm mươi đồng).
- Giao cho anh Trần Văn L, anh Trần Văn N, tiếp tục quản lý và sử dụng
diện tích 1.181,1m
2
đất trồng lúa tại thửa đất số 279 tờ bản đồ số 37, xã P, huyện
Đ, tỉnh Thái Nguyên có giá trị là 7.677.150 đồng và có trách nhiệm liên đới thanh
toán cho ông Trần Quốc H số tiền là 1.919.287 đồng (một triệu, chín trăm mười
chín nghìn, hai trăm tám mươi bẩy đồng), trong đó mỗi người phải thanh toán cho
ông Trần Quốc H với số tiền là 959.643 đồng (chín trăm năm mươi chín, nghìn
sáu trăm bốn mươi ba đồng).
Bà Ma Thị X, anh Trần Văn N, anh Trần Văn L, anh Trần Kim Q có trách
nhiệm đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục kê khai, chia tách,
đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất được giao theo
quy định của pháp luật.
3. Về chi phí tố tụng:
Ông Trần Quốc H phải chịu 9.500.000đ (chín triệu, năm trăm nghìn đồng)
chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản. Ông Trần Quốc H đã nộp
đủ chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản.
Bà Ma Thị X phải chịu 9.500.000đ (chín triệu, năm trăm nghìn đồng) chi
phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản để hoàn trả ông Trần Quốc H.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468
của Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho ông Trần Quốc H và bà Ma Thị X
do là người cao tuổi.
Anh Trần Văn L, anh Trần Văn N, anh Trần Kim Q phải có trách nhiệm
liên đới chịu 10.310.407đ (mười triệu, ba trăm mười nghìn, bốn trăm linh bẩy
đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Mỗi người phải chịu 3.436.802đ (ba triệu, bốn trăm
ba mươi sáu nghìn, tám trăm linh hai đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Anh Trần Văn L, anh Trần Văn N, phải có trách nhiệm liên đới chịu
1.517.236đ (một triệu, năm trăm mười bẩy nghìn, hai trăm ba mươi sáu đồng) án
phí dân sự sơ thẩm. Mỗi người phải chịu 758.618đ (bẩy trăm năm mươi tám
nghìn, sáu trăm mười tám đồng).
Ngày 10/7/2024, ông H có đơn kháng cáo đề nghị được chia di sản thừa kế
bằng đất.
Tại phiên toà phúc thẩm ông H giữ nguyên nội dung kháng cáo và đề nghị
được chia một phần đất tại thửa số 112 nơi có nhà lá cũ của bố mẹ ông để lại, diện
tích còn lại của thửa 112 và các thửa đất khác ông đề nghị giao cho bà X và các
con của bà X quản lý, sử dụng.
Tại phiên toà phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh phát biểu về
sự tuân theo pháp luật của Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử từ khi
thụ lý vụ án cho đến trước khi nghị án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự. Quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội
đồng xét xử: Chấp nhận kháng cáo của ông Trần Quốc H, sửa bản án sơ thẩm xác
định di sản của cụ P chưa hết thời hiệu khởi kiện và đề nghị chia toàn bộ di sản mà
ông H khởi kiện theo quy định của pháp luật, tuy nhiên tại phiên toà phúc thẩm ông
H chỉ yêu cầu được lấy một phần đất có nhà cũ của cụ P và cụ Đ, phần diện tích còn
lại của thửa 112 và các thửa đất khác để cho bà X và các con của bà X quản lý, sử
dụng nên đề nghị Hội đồng xét xử cần ghi nhận sự tự nguyện này.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và nghe lời trình bày của các đương
sự; Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Cụ Trần Công P và cụ Phạm Thị Đ, sinh được 05 người con nhưng 02
người con đã chết từ khi còn nhỏ, chỉ còn lại bà D1, ông P1, ông H còn sống. Cụ P
chết năm 1977 và cụ Đ chết năm 2008, khi chết hai cụ không để lại di chúc. Toà án
cấp sơ thẩm xác định bà D1, ông P1, ông H là hàng thừa kế thứ nhất và chia thừa kế
theo pháp luật là đúng, tuy nhiên cấp sơ thẩm xác định thời hiệu mở thừa kế đối với
di sản của cụ P chết năm 1977 đã quá 30 năm và chấp nhận yêu cầu của bà X cũng
như các con của bà X đề nghị Toà án xác định lại thời hiệu đối với di sản của cụ P
đã hết thời hiệu là không đúng vì theo quy định của pháp luật từ ngày 01/7/1996 đến
ngày 01/01/1999 là thời gian không tính vào thời hiệu thừa kế. Như vậy thời điểm
mở thừa kế được cộng thêm 02 năm 06 tháng đối với di sản của cụ P tính từ ngày
10/9/1990 đến ngày ông H khởi kiện ngày 09/11/2020 là chưa hết thời hiệu khởi
kiện, kể cả đến ngày Toà án thụ lý vụ án ngày 03/6/2021 cũng chưa hết thời hiệu
khởi kiện đối với di sản của cụ P để lại. Cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm khi giải
quyết các vụ án thừa kế liên quan đến thời hiệu khởi kiện.
[2]. Về di sản thừa kế ông H cho rằng bố mẹ ông là cụ P và cụ Đ trước khi
chết không cho ai tài sản, cũng không có di chúc nên toàn bộ di sản mà hiện nay
bà X và các con của bà X đang quản lý, sử dụng gồm có các thửa đất:
- Thửa đất số 91, 94, 95, 100 đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho ông Trần Công P1 năm 2012 đến ngày 19/7/2018 đã cấp gộp các thửa này lại
có tổng diện tích 832,3m
2
đất. Tên thửa mới là thửa số 130, tờ bản đồ số 47, xã
P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.
- Thửa đất số 279 đất trồng lúa có diện tích 1.181,1m
2
, tờ bản đồ số 37 bản
đồ địa chính xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông Trần Công P1 ngày 30/11/2012.
- Thửa đất không số, không tờ bản đồ có diện tích 1.200m
2
là đất thổ cư đã
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trần Công P1 ngày
15/10/1994 (nay theo bản đồ địa chính là thửa số 112 có diện tích 1.606,5m
2
là
đất thổ cư và đất trồng cây hằng năm khác. Trên thửa đất 112 này có 03 ngôi nhà
ở 03 khu đất cụ thể gồm:
+ 01 nhà mái lá, cột gỗ của cụ P, cụ Đ làm ở từ năm 1968, hiện nay vợ
chồng anh N đang ở (nhà cũ).
+ 01 nhà cột gỗ, mái lợp Prôximăng, tường xi măng cát hiện nay bà X và
vợ chồng anh Q đang ở.
+ 01 nhà mái lợp lá và lợp P2, vách toóc xi, sân xi măng, tường rào, cổng
sắt, cây trồng hiện nay vợ, chồng anh L đang ở.
- Thửa số 104 diện tích 728,5m
2
đất nuôi trồng thủy sản, tờ bản đồ số 48
bản đồ địa chính xã P đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày
16/8/2013 mang tên ông Trần Công P1.
- Thửa số 93, 99, 136 là đất LUC (lúa) có tổng diện tích 891,8m
2
thuộc tờ
bản đồ số 47, 48, bản đồ địa chính xã P đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ngày 30/11/2012 mang tên ông Trần Công P1.
[3]. Như vậy diện tích đất của cụ P và cụ Đ theo Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất mà ông P1 được cấp năm 1994, 2012, 2013, 2018 có
tổng diện tích 4.833,7m
2
, ông P1 khởi kiện yêu cầu chia làm 2 phần vì phần của
bà D1 là chị gái của ông đã từ chối nhận di sản, do vậy ông được
một nửa và ông P1 được một nửa, nay ông P1 đã chết thì nửa của ông P1 giao cho
bà X và các con của bà X quản lý, sử dụng. Bà X và các con của bà X không đồng
ý chia thừa kế vì cho rằng toàn bộ số diện tích đất trên là của vợ chồng bà đã được
cấp quyền sử dụng đất qua các thời kỳ đều đúng quy định của pháp luật. Chị H5,
chị L1 có quan điểm nếu phải chia đất thì các chị đề nghị chia cho 4 người là bà
X, anh N, anh L, anh Q.
[4]. Qua các tài liệu cấp sơ thẩm thu thập có trong hồ sơ vụ án và các lời
khai của các đương sự thì thấy rằng: Tại đơn xin kê khai cấp quyền sử dụng đất
năm 1994, ông P1 có kê khai nguồn gốc là đất ông cha. Biên bản hoà giải ngày
04/12/2014 tại UBND xã P, ông P1 thừa nhận đất ở và ruộng, vườn hiện tại gia
đình ông đang sử dụng là được bố mẹ giao cho và một phần do ông tự khai hoang,
nhà do bố mẹ ông làm năm 1968. Qua hoà giải của xã ông P1 và ông H đã thống
nhất chia toàn bộ đất đai làm 5 phần, ông P1 lấy 3 phần, ông H lấy 2 phần (BL
406) nhưng sau đó ông P1 đã không thực hiện và tiếp tục xảy ra tranh chấp. Tại
biên bản hoà giải ngày 18/11/2016, vắng mặt ông P1 nhưng có mặt bà D1 là chị
gái cả cũng thể hiện quan điểm là toàn bộ đất đai là của bố mẹ bà để lại và bà có
ý kiến đề nghị cấp có thẩm quyền chia đôi cho ông P1 và ông H (BL 412). Tại
biên bản hoà giải ngày 30/3/2017, một lần nữa ông P1 vẫn thừa nhận là đất ông
cha để lại gồm có thổ cư, ruộng, rừng, ao và một phần do ông tự khai phá.
[5]. Như vậy có đủ căn cứ khẳng định toàn bộ diện tích đất nêu trên có
nguồn gốc của cụ P và cụ Đ trước khi hai cụ chết chưa cho ai và cũng không có
di chúc như các đương sự thừa nhận là đúng. Bà D1 là hàng thừa kế thứ nhất
nhưng tự nguyện không nhận di sản mà đề nghị được chia đôi cho hai em là ông
P1 và ông H, thấy rằng việc tự nguyện của bà D1 là phù hợp không trái đạo đức
xã hội, không vi phạm điều cấm của pháp luật nên cần được ghi nhận.
[6]. Toà án cấp sơ thẩm cho rằng ông H hiện nay đã nghỉ hưu và có nhà ở
ổn định cùng vợ, con tại phường Đ, thành phố T để tuyên giao toàn bộ di sản thừa
kế cho bà X và anh N, anh L, anh Q con của bà X quản lý, sử dụng và trích chia
di sản bằng giá trị tiền cho ông H là không đúng quy định của pháp luật, chỉ trừ
trường hợp không thể chia bằng đất mới xem xét chia đất bằng giá trị tiền. Do
vậy kháng cáo của ông P1 đề nghị chia đất là có căn cứ.
[7]. Tại phiên toà phúc thẩm, ông P1 chỉ yêu cầu được chia một phần đất có
ngôi nhà cũ của bố mẹ ông để lại tại thửa đất không số, không tờ bản đồ đã được cấp
quyền sử dụng đất cho ông P1 năm 1994 (nay theo bản đồ địa chính là thửa số 112
có diện tích 1.606,5m
2
trong đó có 200m
2
là đất thổ cư và 1.406,5m
2
là đất trồng cây
hằng năm khác). Phần diện tích còn lại của thửa số 112 và các thửa đất khác để cho
bà X và các con của bà X quản lý, sử dụng ông không đề nghị chia. Qua đo đạc thấy
rằng diện tích đất có nhà cũ của bố mẹ ông H để lại mà phần ông H đề nghị chia có
diện tích 737,8m
2
, phần diện tích còn lại của thửa 112 là 797,1m
2
giao cho bà X và
các con của bà X quản lý, sử dụng là có lý, có tình ông H đã chịu thiệt rất nhiều, do
vậy cần ghi nhận sự tự nguyện này của ông H.
[8]. Về tài sản là ngôi nhà cũ trên phần đất mà ông H được giao giá trị còn
lại 42.048.000đ; sân láng xi măng giá trị còn lại 2.077.992đ; Giá đất thổ cư
800.000đ/m
2
; giá đất cây hằng năm 50.000đ/m
2
, như vậy 100m
2
thổ cư có giá
80.000.000đ; 637,8m
2
đất trồng cây hằng năm khác có giá 31.890.000đ. Tổng cộng
di sản mà ông H được hưởng tại thửa đất 112 có giá trị 124.157.882đ (một trăm hai
mươi tư triệu, một trăm năm mươi bẩy nghìn, tám trăm tám mươi hai đồng).
[9]. Về tài sản là ngôi nhà trên phần đất mà anh L, anh N, anh Q, bà X được
giao giá trị còn lại 43.570.800đ; Sân láng xi măng, nhà bếp, mái tôn, còn giá trị
17.989.810đ; 100m
2
đất thổ cư có giá 80.000.000đ; 697,1m
2
đất trồng cây hằng
năm khác có giá 34.855.000đ. Tài sản là cây trồng có tổng 27.560.000đ. Tổng
cộng di sản mà bà X, anh N, anh L, anh Q được hưởng tại thửa đất 112 có giá trị
203.975.610đ (hai trăm không ba triệu, chín trăm bẩy mươi lăm nghìn, sáu trăm
mười đồng).
[10]. Về chi phí tố tụng: Số tiền thẩm định, định giá tài sản 19.000.000 đ.
Ông H đã tạm ứng và chi phí hết, ông H phải chịu một nửa là 9.500.000đ, bà X,
anh N, anh L, anh Q liên đới chịu 9.500.000đ để trả lại cho ông H.
[11]. Về án phí: Ông H, bà X đều là người cao tuổi vì vậy miễn án phí cho
ông H và bà X. Anh L, anh N, anh Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo giá trị
mà mình được hưởng.
[12]. Tại phiên toà phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét
xử chấp nhận kháng cáo của ông Trần Quốc H, sửa bản án sơ thẩm xác định di
sản của cụ P chưa hết thời hiệu khởi kiện, do vậy toàn bộ di sản mà ông H khởi
kiện yêu cầu chia thừa kế là di sản của cụ P và cụ Đ để lại và chia theo quy định
của pháp luật, tuy nhiên tại phiên toà phúc thẩm ông H chỉ yêu cầu được lấy một
phần đất có nhà cũ của cụ P và cụ Đ. Diện tích còn lại của thửa đất số 112 và toàn
bộ các diện tích còn lại của các thửa đất khác để cho bà X và các con của bà X
quản lý, sử dụng. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, Điều 148 của Bộ Luật Tố tụng dân sự; Nghị
quyết số 326/2016/ UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án. Chấp nhận kháng cáo của ông Trần Quốc H, sửa bản án dân
sự sơ thẩm số 13/2024/DS-ST ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Toà án nhân dân
huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Trần Quốc H như sau:
- Ông H được quyền sở hữu căn nhà cũ và được quản lý, sử dụng diện tích
737,8m
2
đất tại thửa đất không số, không tờ bản đồ, đất đã được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho ông Trần Công P1 năm 1994 (nay theo bản đồ địa chính là
thửa số 112, tờ bản đồ số 48 có diện tích 737,8m
2
đất, trong đó có 100m
2
là đất thổ cư
và 637,8m
2
là đất trồng cây hằng năm khác tại khu A từ các điểm 1, 8, 9, 10, 11, 12,
13, 14, 15, 16, 17, 1. Có sơ đồ đo đạc kèm theo bản án). Tổng cộng di sản của ông H
được hưởng tại thửa đất 112 có giá trị 124.157.882đ (một trăm hai mươi tư triệu, một
trăm năm mươi bẩy nghìn, tám trăm tám mươi hai đồng).
- Giao cho bà X, anh N, anh L, anh Q được quyền sở hữu toàn bộ tài sản là
nhà, cây cối và được quản lý, sử dụng diện tích 797,1m
2
đất tại thửa đất không
số, không tờ bản đồ, đất đã được cấp quyền sử dụng đất cho ông P1 năm 1994
(nay theo bản đồ địa chính là thửa số 112, tờ bản đồ số 48 có diện tích 797,1m
2
đất trong đó có 100m
2
là đất thổ cư và 697,1m
2
là đất trồng cây hằng năm khác
tại khu 2 từ các điểm 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 1 Có sơ đồ đo đạc kèm theo bản án). Di
sản mà bà X, anh N, anh L, anh Q được hưởng tại thửa đất 112 có giá trị
203.975.610đ (hai trăm không ba triệu, chín trăm bẩy mươi lăm nghìn, sáu trăm
mười đồng).
- Giao cho bà X, anh N, anh L, anh Q được quyền sử dụng thửa đất số 130
diện tích 832,3 m
2
tờ bản đồ số 47 có giá trị là 44.944.200đ (bốn mươi bốn triệu,
chín trăm bốn mươi bốn nghìn, hai trăm đồng); Thửa số 104, diện tích 728,5 m
2
đất tờ bản đồ 48 có giá trị là 32.782.500đ (ba mươi hai triệu, bẩy trăm tám mươi
hai nghìn, năm trăm đồng). Thửa 279 diện tích 1.181,1 m
2
đất tờ bản đồ số 37 có
giá trị là 7.677.150đ (bẩy triệu, sáu trăm bẩy mươi bẩy nghìn, một trăm năm mươi
đông). Di di sản mà bà X, anh N, anh L, anh Q được hưởng tại thửa đất số 130,
thửa 104, thửa 279 là 85.403.000đ (tám mươi lăm triệu, bốn trăm không ba nghìn
đồng). Tổng cộng toàn bộ di sản thừa kế mà bà X, anh N, anh L, anh Q được là
289.378.610đ (hai trăm tám mươi chín triệu, ba trăm bẩy mươi tám nghìn, sáu
trăm mười đồng).
Ông Trần Quốc H, bà Ma Thị X, anh Trần Văn N, anh Trần Văn L, anh
Trần Kim Q có quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất được giao theo bản án
có hiệu lực pháp luật.
3. Về chi phí tố tụng:
Số tiền thẩm định, định giá tài sản 19.000.000 đ. Ông Trần Quốc H đã tạm ứng
và chi phí hết, ông H phải chịu ½ là 9.500.000đ, bà X, anh N, anh L, anh Q mỗi
người phải có trách nhiệm trả 2.375.000đ (hai triệu, ba trăm bẩy mươi lăm nghìn
đồng) cho ông Trần Quốc H.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ
luật dân sự năm 2015.
4. Về án phí:
4.1. Về án phí sơ thẩm:
Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho ông Trần Quốc H và bà Ma Thị X
do là người cao tuổi.
Bà Ma Thị X, anh Trần Văn L, anh Trần Văn N, anh Trần Kim Q phải chịu
14.468.930đ, do bà X được miễn án phí, nên anh Trần Văn L, anh Trần Văn N,
anh Trần Kim Q mỗi người phải chịu 3.617.000đ (ba triệu, sáu trăm mười bẩy
nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với phần của mình được hưởng.
4.2. Về án phí phúc thẩm: Miễn án phí phúc thẩm cho ông Trần Quốc H.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi
hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND huyện Định Hoá;
- VKSND tỉnh Thái Nguyên;
- Chi cục THADS huyện Định Hoá;
- UBND huyện Định Hoá;
- UBND xã Phú Tiến;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ; Tòa dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Văn Quế
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm