Bản án số 262/2025/DS-PT ngày 06/05/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về thừa kế tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 262/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 262/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 262/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 262/2025/DS-PT ngày 06/05/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về thừa kế tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thừa kế tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 262/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 06/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Hàng thừa kế thứ nhất của ông T2 hiện nay có 04 người là bà Nguyễn Thị H1 (vợ), bà Tô Nguyễn Phương L (con ruột), bà Tô Nguyễn Linh P (con ruột) và ông Tô Công C (con ruột). Do ông T2 chết không để lại di chúc nên di sản của ông được phân chia theo quy định của pháp luật. Ông T2 và bà H1 có tài sản là thuộc thửa đất 4479, tờ bản đồ số 38 tại khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương theo số vào sổ cấp GCN |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 262/2025/DS-PT
Ngày: 06-05-2025
V/v tranh chấp về thừa kế
tài sản và thực hiện
nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Dũng;
Các Thẩm phán: Ông Lê Sỹ Trứ;
Bà Huỳnh Thị Thanh Tuyền.
- Thư ký phiên tòa: Ông Trần Ngọc Hoàng Quân - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:
Bà Trần Thị Phước - Kiểm sát viên.
Trong ngày 06 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 663/2024/TLPT-DS
ngày 26/11/2024 về việc “Tranh chấp về thừa kế tài sản và thực hiện nghĩa vụ do
người chết để lại”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm 290/2024/DSST ngày 10 tháng 9 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 100/2025/QĐ-PT ngày 10 tháng 02
năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Tô Nguyễn Phương L, sinh năm 1976; địa chỉ thường trú:
Số D, Khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Nguyễn Tố L1, sinh năm
1996; địa chỉ: số A T, Phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh, là người
đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 29/3/2025); có mặt.
- Bị đơn: Bà Tô Nguyễn Linh P, sinh năm 1975; địa chỉ: Số D, Khu phố T,
phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương; có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập: Bà Trà Thị
Thanh H, sinh năm 1983; địa chỉ: số B, đường X, khu phố T, phường D, thành
phố D, tỉnh Bình Dương.
2
Người đại diện hợp pháp của bà Trà Thị Thanh H: Bà Nguyễn Thị X, sinh
năm 1978; địa chỉ: số C, khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương,
hoặc ông Võ Tấn T, sinh năm 1994; địa chỉ: tổ C, thôn B, xã T, huyện T, tỉnh
Quảng Nam; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1956; địa chỉ: Số D, Khu phố T, phường
D, thành phố D, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
2. Bà Tô Thúy A, sinh năm 1975; địa chỉ: số nhà H, đường N, khu phố N,
phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương; có đơn xin xét xử vắng mặt.
3. Ông Đinh Văn A1, sinh năm 1971; địa chỉ: số nhà H, đường N, khu phố
N, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương; có đơn xin xét xử vắng mặt.
4. Bà Trần Thị M, sinh năm 1961; địa chỉ: Ấp T, xã X, huyện X, tỉnh Đồng
Nai; có đơn xin xét xử vắng mặt.
5. Chi cục Thi hành án dân sự thành phố D, tỉnh Bình Dương; có đơn xin
xét xử vắng mặt.
6. Ông Tô Công C, sinh năm 1977; địa chỉ: số D, đường Đ, khu phố T,
phường Đ, thành phố D, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
7. Chị Tô Nguyễn Minh T1; sinh năm 2001; địa chỉ: Số E, Khu phố T,
phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
- Người kháng cáo: Bị đơn Tô Nguyễn Linh P.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Đơn yêu cầu khởi kiện ngày 25/10/2023, lời khai trong quá trình tố
tụng và tại phiên tòa nguyên đơn bà Tô Nguyễn Phương L trình bày:
Bà Tô Nguyễn Phương L là con đẻ của ông Tô Tấn T2 và bà Nguyễn Thị
H1. Ông Tô Tấn T2 chết ngày 28/5/2022. Người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ
nhất của ông Tô Tấn T2 hiện nay bao gồm: Vợ của ông T2 là bà Nguyễn Thị H1,
các con chung của ông T2 và H1 bao gồm: Bà Tô Nguyễn Phương L, Tô Nguyễn
Linh P, sinh năm 1975 và Tô Công C, sinh năm 1977. Lúc còn sống ông T2 không
có con riêng cũng như không có con nuôi.
Cha của ông T2 là ông Tô Văn P1 (chết năm 2000), mẹ là bà Nguyễn Thị
L2 (chết năm 2017). Cha, mẹ của ông T2 đều chết trước ông T2. Ngoài bà Nguyễn
Thị H1, ông Tô Công C, bà Tô Nguyễn Linh P và bà Tô Nguyễn Phương L là
người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông T2 thì không còn ai thuộc hàng
thừa kế thứ nhất.
Quá trình chung sống ông Tô Tấn T2 và bà Nguyễn Thị H1 có tài sản chung
là quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 4479, tờ bản đồ số 38, diện tích 129,6m
2
tại khu phố T, phường D, thị xã D (nay là thành phố D), tỉnh Bình Dương theo số
vào sổ cấp GCN: CH17819 do Ủy ban nhân dân thị xã D cấp ngày 17/5/2019 cho
ông Tô Tấn T2. Sau đó, ông T2 cấp đổi lại quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số
3
4479, tờ bản đồ số 38, diện tích 129,6m
2
tại khu phố T, phường D, thị xã D (nay
là thành phố D), tỉnh Bình Dương theo số vào sổ cấp GCN: CS18120 do Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 22/7/2019 cho ông Tô Tấn T2.
Trước khi chết ông T2 không để lại di chúc. Nay bà Tô Nguyễn Phương L
khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế do ông T2 để lại là ½ quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền trên đất là căn nhà cấp 4 thuộc thửa đất số 4479, tờ bản đồ số 38,
diện tích 129,6m
2
tại khu phố T, phường D, thị xã D (nay là thành phố D), tỉnh
Bình Dương thành 4 phần, bà L nhận một phần và nhận bằng hiện vật và sẽ thanh
toán lại cho các đồng thừa kế kỷ phần thừa kế bằng giá trị.
Đối với yêu cầu độc lập của bà Trà Thị Thanh H thì bà không đồng ý, vì bà
chỉ biết ông T2 có tài sản để lại nên bà yêu cầu được chia thừa kế, bà không biết
trước khi chết ông Tô Tấn T2 có nghĩa vụ thi hành án cho những ai nên bà không
có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ do ông T2 để lại.
Tại đơn yêu cầu độc lập ngày 20/12/2023 lời khai trong quá trình tố tụng
và tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của bà Trà Thị Thanh H là ông Võ Tấn
T và bà Nguyễn Thị X thống nhất trình bày:
Ông Tô Tấn T2 và bà Nguyễn Thị H1 có nghĩa vụ thanh toán cho bà số tiền
3.504.273.000 đồng (Ba tỷ năm trăm lẻ bốn triệu hai trăm bảy mươi ba nghìn
đồng) theo Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2020/DS-ST ngày 24/4/2020 của Tòa án
nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương và Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm
số 18/2020/QĐ-PT ngày 17/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. Do
ông Tô Tấn T2 và bà Nguyễn Thị H1 không tự nguyện thi hành án nên bà H làm
đơn yêu cầu thi hành án nhưng cho đến nay ông Tô Tấn T2 và bà Nguyễn Thị H1
vẫn chưa thi hành. Hiện nay, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố D, tỉnh Bình
Dương đã tiến hành kê biên đối với quyền sử dụng đất thuộc thửa đất 4479, tờ bản
đồ số 38 tại Khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương theo số vào sổ
cấp GCN: CS18120 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 22/7/2019
cho ông Tô Tấn T2 để thi hành án cho các khoản phải thi hành.
Đối với nhà ở riêng lẻ được xây dựng gắn liền với quyền sử dụng đất thuộc
thửa đất 4479, tờ bản đồ số 38 tại khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình
Dương cũng đã được Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương xác định là
tài sản chung của ông Tô Tấn T2 và bà Nguyễn Thị H1 tại Bản án dân sự số
86/2022/DS-ST ngày 30/8/2022 của Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình
Dương. Bản án trên đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, Chi cục Thi hành án Dân
sự thành phố D vẫn không thi hành được các bản án, quyết định của Tòa án do
những người con của ông T2 lợi dụng quyền khởi kiện để liên tục nộp đơn tranh
chấp tại Tòa án nhân dân thành phố D nhằm kéo dài quá trình thi hành án. Mỗi
lần Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố D tiến hành các thủ tục để thi hành án
thì ông C nộp đơn tranh chấp. Sau đó, ngày 27 tháng 3 năm 2023 bà Tô Nguyễn
Phương L lại tiếp tục nộp đơn tranh chấp về thừa kế tại Tòa án nhân dân thành
phố D, tại phiên tòa ngày 14/9/2023 bà L tự nguyện rút đơn. Sau khi Tòa án đình
chỉ giải quyết vụ án, Chi cục thi hành án tiếp tục thủ tục thi hành án thì bà L lại
4
tiếp tục nộp đơn khởi kiện nội dung tranh chấp lần này cũng không có gì khác so
với vụ án mà Tòa án nhân dân thành phố D đã thụ lý số 148/2023/TLST-DS ngày
19/4/2023.
Những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông T2 hoàn toàn
biết được việc hiện nay di sản do ông T2 để lại không đủ để thi hành án cho rất
nhiều bản án quyết định mà ông Tô Tấn T2 có nghĩa vụ phải thi hành nhưng cố
tình không thực hiện nghĩa vụ phải thi hành án do ông T2 để lại mà liên tục sử
dụng quyền khởi kiện để tạo ra tranh chấp tại Tòa án khiến cho Chi cục Thi hành
án D nhiều lần phải làm thủ tục tạm hoãn thi hành án để chờ Tòa án giải quyết
tranh chấp liên quan đến tài sản thi hành án. Việc lợi dụng quyền khởi kiện của
bà L đã làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Trà Thị Thanh H,
khiến cho bà H phải liên tục tham gia tố tụng tại Tòa án ở nhiều cấp, nhiều lần
dẫn đến thiệt hại về thời gian, công sức cũng như tinh thần của bà H.
Vì vậy, bà Trà Thị Thanh H đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn, đồng thời có yêu cầu độc lập trong vụ án về việc:
Yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố D buộc những người thừa kế thuộc
hàng thừa kế thứ nhất của ông Tô Tấn T2 gồm: Bà Nguyễn Thị H1, ông Tô Công
C, bà Tô Nguyễn Phương L và bà Tô Nguyễn Linh P phải thực hiện nghĩa vụ tài
sản trong phạm vi di sản do ông Tô Tấn T2 để lại là nhà và đất tại thửa đất 4479,
tờ bản đồ số 38 tại khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương tương
ứng với kỷ phần thừa kế mà bà H1, ông C, bà L và bà P được nhận tại thời điểm
cơ quan thi hành án có thẩm quyền bán tài sản thi hành án.
Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Chi
cục Thi hành án Dân sự thành phố D có yêu cầu giải quyết vắng mặt, tại công
văn số 1771/CCTHADS ngày 30/7/2024 Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố
D trình bày: Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố D (sau đây gọi tắt là Chi cục
THADS) đang tổ chức thi hành các Quyết định số 65/2019/QĐST-DS ngày
30/9/2019 của Tòa án nhân dân thị xã D (nay là thành phố D), tỉnh Bình Dương;
Bản án số 12/2020/DS-ST ngày 22/4/2020 của Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh
Bình Dương; Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự số 18/2020/QĐ-
PT ngày 17/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương; Quyết định công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự số 72/2020/QĐST -DS ngày 14/12/2020 của Tòa
án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương.
Đồng thời đã ban hành các Quyết định thi hành án số 697/QĐ-CCTHADS
ngày 25/12/2019; số 08/QĐ-CCTHADS ngày 02/10/2020; số 36/QĐ-CCTHADS
ngày 02/10/2020; số 948/QĐ- CCTHADS ngày 04/01/2021 của Chi cục trưởng
Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố D, tỉnh Bình Dương đối với ông Tô Tấn
T2, bà Nguyễn Thị H1, bà Tô Nguyễn Linh P, bà Tô Nguyễn Phương L, ông Tô
Công C, với các nội dung:
+ Ông Tô Tấn T2, bà Nguyễn Thị H1, bà Tô Nguyễn Linh P, bà Tô Nguyễn
Phương L, ông Tô Công C cùng có trách nhiệm liên đới thanh toán cho ông Đinh
Văn A1 và bà Tô Thúy A số tiền 720.000.000 đồng (Bảy trăm hai mươi triệu
5
đồng), trong đó: số tiền nhận chuyển nhượng 600.000.000 đồng và tiền bồi thường
120.000.000 đồng. Thời hạn thanh toán vào ngày 19/12/2019;
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy
định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian và
số tiền chậm thi hành án.
+ Buộc ông Tô Tấn T2 và bà Nguyễn Thị H1 có trách nhiệm liên đới trả
cho bà Trà Thị Thanh H số tiền 3.504.273.000 đồng (ba tỷ năm trăm lẻ bốn triệu
hai trăm bảy mươi ba ngàn đồng); trong đó: tiền nợ gốc là 3.100.000.000 đồng,
tiền nợ lãi là 404.273.000 đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm nếu người phải thi hành án
không thi hành thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi theo
mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015
tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
+ Ông Tô Tấn T2 và bà Nguyễn Thị H1 có nghĩa vụ trả cho bà Trần Thị M
số tiền còn nợ theo Giấy mượn nợ ngày 24/4/2016 với số tiền 1.461.643.000 đồng
(một tỷ bốn trăm sáu mươi mốt triệu sáu trăm bốn mươi ba ngàn đồng), trong đó:
Nợ gốc 1.000.000.000 đồng, nợ lãi tính từ ngày 24/4/2016 đến ngày 04/12/2020
với mức lãi suất 10%/năm là 461.643.000 đồng.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi
thi hành xong, người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
+ Ông Tô Tấn T2 và bà Nguyễn Thị H1 phải nộp tổng cộng 130.010.105
đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Qua xác minh điều kiện thi hành án thì ông Tô Tấn T2, bà Nguyễn Thị H1,
bà Tô Nguyễn Linh P, bà Tô Nguyễn Phương L, ông Tô Công C có tài sản tại là
quyền sử dụng đất thuộc thửa số 4479, tờ bản đồ số 38, diện tích 129,6m
2
, tọa lạc
khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương, theo số vào sổ cấp GCN:
CS18120 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 22/7/2019 cho ông Tô
Tấn T2.
Nhận thấy ông Tô Tấn T2, bà Nguyễn Thị H1, bà Tô Nguyễn Linh P, bà
Tô Nguyễn Phương L, ông Tô Công C có điều kiện thi hành án nhưng không tự
nguyện thi hành, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố D đã tiến hành kê biên tài
sản nói trên để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án theo Quyết định số 07/QĐ-
CCTHADS ngày 22 tháng 12 năm 2020 về việc cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản
và Biên bản về việc kê biên, xử lý tài sản ngày 07 tháng 01 năm 2021.
Hiện nay, qua xem xét tài liệu trong quá trình giải quyết việc thi hành án,
được biết tài sản tọa lạc khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương
đang có tranh chấp tại Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương theo Thông
báo về việc thụ lý vụ án số 148/2023/TB-TLVA ngày 19 tháng 4 năm 2023 đối
6
với yêu cầu của bà Tô Nguyễn Phương L, sinh năm 1976, đối với bà Tô Nguyễn
Linh P, sinh năm 1975; cùng thường trú: 4 khu phố T, phường D, thành phố D,
tỉnh Bình Dương. Bằng văn bản này, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố D
thông báo nội dung thi hành án về nghĩa vụ mà ông Tô Tấn T2, bà Nguyễn Thị
H1, bà Tô Nguyễn Linh P, bà Tô Nguyễn Phương L, ông Tô Công C phải thi hành
tại Chi cục và việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản đối với
khối tài sản.
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố D đã tiến hành kê biên tài sản là
quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 4479, tờ bản đồ số 38, diện tích 129,6m
2
, tọa
lạc khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương, theo số vào sổ cấp GCN:
CS18120 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 22/7/2019 cho ông Tô
Tấn T2 để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án theo Quyết định số 07/QĐ-CCTHADS
ngày 22/12/2020 về việc cưỡng chế, kê biên, xử lý tài sản và biên bản về việc kê
biên, xử lý tài sản ngày 07/01/2021.
Bằng văn bản này, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố D thông báo nội
dụng thi hành án về nghĩa vụ mà ông Tô Tấn T2, bà Nguyễn Thị H1, bà Tô
Nguyễn Linh P, bà Tô Nguyễn Phương L, ông Tô Công C phải thi hành tại Chi
cục và việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản đối với khối tài
sản trên. Nay nguyên đơn khởi kiện tranh chấp chia di sản thừa kế, đề nghị Tòa
án giải quyết theo quy định của pháp luật để đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp,
tránh thiệt hại phát sinh của các bên đương sự cùng người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan trong quá trình giải quyết việc thi hành án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đinh Văn A1 và bà Tô Thúy A
có yêu cầu giải quyết vắng mặt; tại bản tự khai ngày 13/6/2024 ông A và bà A
thống nhất trình bày: ông Đinh Văn A1 và bà Tô Thúy A là vợ chồng, theo Quyết
định công nhận sự thỏa thuận số 65/2019/QĐST-DS ngày 30/9/2019 của Tòa án
nhân dân thị xã D (nay là thành phố D), tỉnh Bình Dương thì ông Tô Tấn T2, bà
Nguyễn Thị H1, bà Tô Nguyễn Linh P, bà Tô Nguyễn Phương L và ông Tô Công
C cùng có trách nhiệm liên đới thanh toán cho ông A và bà A số tiền 720.000.000
đồng (Bảy trăm hai mươi triệu đồng); thời hạn thanh toán vào ngày 19/12/2019.
Sau khi Quyết định có hiệu lực vợ chồng ông A và bà A làm đơn yêu cầu thi hành
án nhưng cho đến nay ông Tô Tấn T2, bà Nguyễn Thị H1, bà Tô Nguyễn Linh P,
bà Tô Nguyễn Phương L và ông Tô Công C vẫn chưa thi hành theo Quyết định.
Hiện nay, Chi cục thi hành án dân sự thành phố D, tỉnh Bình Dương đã tiến
hành kê biên đối với quyền sử dụng đất thuộc thửa đất 4479, tờ bản đồ số 38 tại
khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương theo số vào sổ cấp GCN:
CS18120 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 22/7/2019 cho ông Tô
Tấn T2 để thi hành án cho các khoản phải thi hành. Đối với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn và yêu cầu độc lập của bà Trà Thị Thanh H ông bà không có ý kiến
gì. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị M có yêu cầu giải quyết
vắng mặt; tại bản tự khai ngày 29/5/2024 bà M trình bày: Theo Quyết định công
7
nhận sự thỏa thuận số: 72/2020/QĐST-DS ngày 14/12/2020 của Tòa án nhân dân
thành phố D, tỉnh Bình Dương thì ông Tô Tấn T2 và bà Nguyễn Thị H1 cùng có
trách nhiệm liên đới thanh toán cho bà số tiền 1.461.643.000 đồng (một tỷ bốn
trăm sáu mươi mốt triệu sáu trăm bốn mươi ba nghìn đồng). Ông T2 và bà H1
chưa thi hành án trả số tiền trên. Hiện nay, Chi cục thi hành án dân sự thành phố
D, tỉnh Bình Dương đã tiến hành kê biên đối với quyền sử dụng đất thuộc thửa
đất 4479, tờ bản đồ số 38 tại khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương
theo số vào sổ cấp GCN: CS18120 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp
ngày 22/7/2019 cho ông Tô Tấn T2 để thi hành án cho các khoản phải thi hành.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu độc lập của bà Trà
Thị Thanh H ông bà không có ý kiến gì; đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định
của pháp luật.
Bị đơn bà T3 Nguyễn Linh P và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là bà Nguyễn Thị H1 và ông Tô Công C, Tô Nguyễn Minh T1: Đã được Tòa
án tống đạt thông báo thụ lý, thông báo thụ lý yêu cầu độc lập và các tài liệu chứng
cứ kèm theo đơn khởi kiện do nguyên đơn cung cấp và yêu cầu bị đơn bà T3
Nguyễn Linh P và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn
Thị H1 và ông Tô Công C, Tô Nguyễn Minh T1 có ý kiến đối với yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
nhưng không ai có ý kiến gì và không cung cấp bất cứ tài liệu, chứng cứ gì đối
với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cũng như yêu cầu độc lập của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Tại mảnh trích lục địa chính không có đo đạc chỉnh lý ngày 22/6/2023 của
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố D, biên bản xem xét thẩm định
tại chỗ ngày 13/7/2023 và biên bản định giá ngày 13/7/2023 thể hiện: Diện tích
đất tranh chấp yêu cầu chia di sản thừa kế là 64,8m
2
tương đương với ½ tổng diện
tích 129,6m
2
thuộc thửa đất 4479, tờ bản đồ số 38 thể hiện trong bản vẽ.
Đối với phần ký hiệu A trên sơ đồ bản vẽ, nguyên đơn không tranh chấp,
vì phần diện tích này không thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho
ông T2.
Về giá đất: giá đất ở 25.000.000 đồng/m
2
x 106,5m
2
= 2.662.500.000 đồng;
giá đất trồng cây lâu năm: 23.000.000 đồng/m
2
x 23,1m
2
= 531.300.000 đồng; giá
nhà: 5.265.000 đồng x 106,5m
2
x 20% (giá trị thực tế sử dụng còn lại) =
112.144.500 đồng; sân bê tông: 252.000 đồng/m
2
x 15,1m
2
x 20% (giá trị thực tế
sử dụng còn lại) = 761.040 đồng. Tổng giá trị tài sản: 3.306.705.540 đồng.
Ngoài ra, trên đất tranh chấp còn có một phần nền gạch tàu có diện tích
1,1m
2
, một phần hồ cá 9,51m
2
.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 290/2024/DSST ngày 10/9/2024, Tòa án nhân
dân thành phố D, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
8
1.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Tô Nguyễn Phương
L với bị đơn bà Tô Nguyễn Linh P về việc yêu cầu chia di sản thừa kế của ông Tô
Tấn T2.
1.2. Xác định di sản do ông Tô Tấn T2 để lại là: ½ giá trị quyền sử dụng
đất và căn nhà ở riêng lẻ gắn liền với quyền sử dụng đất thuộc thửa đất 4479, tờ
bản đồ số 38 tại khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương theo số vào
sổ cấp GCN: CS18120 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày
22/7/2019 cho ông Tô Tấn T2.
1.3 Xác định bà Nguyễn Thị H1, bà Tô Nguyễn Linh P, bà Tô Nguyễn
Phương L và ông Tô Công C là người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thừa kế
thứ nhất của Tô Tấn T2.
- Bà Nguyễn Thị H1, bà Tô Nguyễn Linh P, bà Tô Nguyễn Phương L và
ông Tô Công C là người được hưởng di sản do ông Tô Tấn T2 để lại và thực hiện
nghĩa vụ thanh toán trong phạm vi di sản của ông T2 để lại đối với các khoản nợ
tại: Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 65/2019/QĐST-DS ngày 30/9/2019
của Tòa án nhân dân thị xã D (nay là thành phố D), tỉnh Bình Dương, Bản án dân
sự số 12/2020/DS-ST ngày 24/4/2020 của Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình
Dương và Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 18/2020/QĐ-PT ngày
17/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương và Quyết định công nhận sự thỏa
thuận số: 72/2020/QĐST-DS ngày 14/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố D,
tỉnh Bình Dương.
- Bà Nguyễn Thị H1, bà Tô Nguyễn Linh P, bà Tô Nguyễn Phương L và
ông Tô Công C mỗi người sẽ được hưởng một phần kỷ phần thừa kế bằng nhau
sau khi thực hiện xong nghĩa vụ thi hành án của ông Tô Tấn T2.
2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Trà Thị Thanh H về việc buộc bà
Nguyễn Thị H1, bà Tô Nguyễn Phương L, Tô Nguyễn Linh P, ông Tô Công C và
bà Nguyễn Thị H1 phải có nghĩa vụ thi hành các khoản nợ do ông Tô Tấn T2 để
lại trong phạm vi di sản là: ½ giá trị quyền sử dụng đất và căn nhà ở riêng lẻ gắn
liền với quyền sử dụng đất thuộc thửa đất 4479, tờ bản đồ số 38 tại khu phố T,
phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương theo số vào sổ cấp GCN: CS18120 do
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 22/7/2019 cho ông Tô Tấn T2.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, trách nhiệm thi hành
án và quyền kháng cáo cho các đương sự.
Sau khi có bản án sơ thẩm, ngày 16/10/2024 Tòa án nhân dân thành phố D,
tỉnh Bình Dương nhận được đơn kháng cáo của nguyên đơn bà Tô Nguyễn
Phương L và bị đơn Tô Nguyễn Linh P, bà L và bà P kháng cáo toàn bộ Bản án
sơ thẩm số 290/2024/DSST ngày 10/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố D, đề
nghị Tòa cấp phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ về cho Tòa án
nhân dân thành phố D giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
9
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và
yêu cầu kháng cáo; bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; các đương sự không
thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực hiện
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Về nội dung: Ông T2 và bà H1 phải thi hành các quyết định trước khi ông
T2 chết. Cơ quan thi hành án đã cưỡng chế, kê biên xử lý tài sản tranh chấp từ
năm 2020 – 2021. Do đó, tài sản tranh chấp không còn. Trường hợp sau khi thi
hành án, tài sản còn dư thì những người ở hàng thừa kế thứ nhất mới có quyền
khởi kiện. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị đơn. Đề nghị Hội
đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, sửa bản án sơ
thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không chấp
nhận yêu cầu độc lập của người liên quan.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa, kết quả tranh tụng của các đương sự tại phiên tòa, ý kiến đại diện
Viện kiểm sát,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Kháng cáo của bị đơn bà T3 Nguyễn Linh P là trong thời hạn luật
định. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật.
[1.2] Tại cấp phúc thẩm, bị đơn bà Tô Nguyễn Linh P, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan bà Tô Thúy A, ông Đinh Văn A1, bà Trần Thị M và Chi cục
Thi hành án dân sự thành phố D, tỉnh Bình Dương có đơn xin xét xử vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H1, ông Tô Công C, chị
Tô Nguyễn Minh T1 đã được Tòa án triệu tập nhưng vắng mặt. Căn cứ theo Điều
296 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự
này.
[1.3] Xét thấy, quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét
xử vắng mặt bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phù hợp theo
Điều 227 và 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Việc nguyên đơn bà Tô
Nguyễn Phương L rời khỏi phòng xử án tại phần tranh tụng là vi phạm quy định
tố tụng nhưng bà L đã tham gia đến phần tranh luận nên Tòa án cấp sơ thẩm không
xem là nguyên đơn từ bỏ quyền khởi kiện và tiếp tục xem xét yêu cầu của nguyên
đơn là có căn cứ. Vào ngày 16/10/2024, bà L kháng cáo đối với bản án sơ thẩm.
Tuy nhiên, trường hợp của bà L là kháng cáo quá hạn do đó Hội đồng xét xử phúc
thẩm đã tạm ngừng phiên tòa để làm thủ tục xét kháng cáo quá hạn. Vào ngày
05/5/2025, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã xét kháng cáo quá hạn đối với
trường hợp của bà L và ban hành Quyết định không chấp nhận việc kháng cáo quá
hạn số 05/2025/QĐ-PT. Do đó, việc bà L kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm số
10
290/2024/DSST ngày 10/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình
Dương là quá hạn nên không được chấp nhận.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về hàng thừa kế: Căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 651 của Bộ luật
Dân sự năm 2015, hàng thừa kế thứ nhất của ông T2 hiện nay có 04 người là bà
Nguyễn Thị H1 (vợ), bà Tô Nguyễn Phương L (con ruột), bà Tô Nguyễn Linh P
(con ruột) và ông Tô Công C (con ruột). Do ông T2 chết không để lại di chúc nên
việc bà L khởi kiện yêu cầu được hưởng ¼ kỷ phần di sản do ông T2 để lại là có
căn cứ.
[2.2] Về di sản thừa kế:
Căn cứ theo Bản án dân sự sơ thẩm số 86/2022/DS-ST ngày 30/8/2022 về
việc “Tranh chấp về thừa kế tài sản thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để
lại”, Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương đã xác định quyền sử dụng
đất thuộc thửa đất 4479, tờ bản đồ số 38 tại khu phố T, phường D, thành phố D,
tỉnh Bình Dương theo số vào sổ cấp GCN: CS18120 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B cấp ngày 22/7/2019 và căn nhà ở riêng lẻ gắn liền với đất là tài sản
thuộc quyền quản lý, sử dụng của ông Tô Tấn T2 và bà Nguyễn Thị H1.
Căn cứ theo Biên bản định giá tài sản ngày 27/6/2024 (BL117-118), tổng
giá trị của quyền sử dụng đất và căn nhà ở riêng lẻ gắn liền với đất (không bao
gồm 01 nền gạch tàu, 01 phần hồ cá, 01 điện kế chính và 01 đồng hồ nước máy)
là 3.306.705.540 đồng. Căn cứ theo Điều 213 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và
Điều 66 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, tài sản chung của vợ chồng
được chia đôi. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định di sản của ông T2 là ½
giá trị đất và căn nhà ở riêng lẻ gắn liền với đất là 3.306.705.540 đồng : 2 =
1.653.352.770 đồng là có căn cứ.
[2.3] Về quyền, nghĩa vụ tài sản:
Căn cứ theo Điều 614 của Bộ luật Dân sự năm 2015, “Kể từ thời điểm mở
thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để
lại”. Do đó, khi ông T2 chết mà không để lại di chúc, thì những người thừa kế có
quyền, nghĩa vụ tài sản do ông T2 để lại.
Trước thời điểm ông T2 chết (ngày 28/5/2022), đã có các bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật, cụ thể như sau:
+ Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 65/2019/QĐST-DS ngày
30/9/2019 của Tòa án nhân dân thị xã D (nay là thành phố D), tỉnh Bình Dương:
Buộc ông Tô Tấn T2, bà Nguyễn Thị H1, bà Tô Nguyễn Phương L, bà Tô Nguyễn
Linh P, ông Tô Công C có trách nhiệm liên đới thanh toán cho ông Đinh Văn A1
và bà Tô Thúy A số tiền 720.000.000 đồng; thời hạn thanh toán là ngày
19/12/2019 (đã có Quyết định thi hành án theo yêu cầu số 697/QĐ-CCTHADS
ngày 25/12/2019);
+ Bản án dân sự số 12/2020/DS-ST ngày 24/4/2020 của Tòa án nhân dân
thành phố D, tỉnh Bình Dương và Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số
11
18/2020/QĐ-PT ngày 17/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương: Buộc ông
Tô Tấn T2 và bà Nguyễn Thị H1 có trách nhiệm liên đới thanh toán cho bà Trà
Thị Thanh H số tiền 3.504.273.000 đồng (đã có Quyết định thi hành án theo yêu
cầu số 08/QĐ-CCTHADS ngày 02/10/2020 và Quyết định thi hành án chủ động
số 36/QĐ-CCTHADS ngày 02/10/2020);
+ Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 72/2020/QĐST-DS ngày
14/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương: Buộc ông Tô
Tấn T2 và bà Nguyễn Thị H1 có trách nhiệm liên đới thanh toán cho bà Trần Thị
M số tiền 1.461.643.000 đồng (đã có Quyết định thi hành án chủ động số 871/QĐ-
CCTHADS ngày 29/12/2020 và Quyết định thi hành án theo yêu cầu số 948/QĐ-
CCTHADS ngày 04/01/2021);
Căn cứ theo khoản 1 Điều 615 của Bộ luật Dân sự năm 2015, “Những người
hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do
người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Do giữa các đương sự
không có bất kỳ thoả thuận nào, nên những người hưởng thừa kế bao gồm bà H1,
bà L, bà P và ông C phải thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do ông
T2 để lại theo các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nêu trên.
[2.3] Về thứ tự ưu tiên thanh toán:
Căn cứ theo Điều 658 của Bộ luật Dân sự năm 2015, các nghĩa vụ tài sản
và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế phải được thanh toán theo thứ tự luật
định, bao gồm: Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng; Tiền cấp dưỡng
còn thiếu; Chi phí cho việc bảo quản di sản; Tiền trợ cấp cho người sống nương
nhờ; Tiền công lao động; Tiền bồi thường thiệt hại; Thuế và các khoản phải nộp
khác vào ngân sách nhà nước; Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân;
Tiền phạt; Các chi phí khác. Do đó, bà H1, bà L, bà P và ông C phải thực hiện
nghĩa vụ tài sản theo các bản án, quyết định đã có hiệu lực nêu trên, trước khi
nhận được một suất kỷ phần thừa kế bằng nhau trong khối di sản do ông T2 để lại
trừ các nghĩa vụ tài sản của ông T2.
[3] Từ những phân tích trên, bị đơn bà Tô Nguyễn Linh P kháng cáo đối
với toàn bộ bản án sơ thẩm nhưng tại cấp phúc thẩm cũng không cung cấp được
chứng cứ mới nên không có căn cứ chấp nhận. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét
đánh giá toàn diện các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đảm bảo quyền và lợi ích
các bên, xét xử phù hợp với quy định pháp luật.
[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là chưa phù hợp.
[5] Về án phí phúc thẩm: Bà Tô Nguyễn Phương L và bà Tô Nguyễn Linh
P phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 148, khoản 1 Điều 308 và Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 614, Điều 615, Điều 651 và Điều 658 của Bộ luật Dân sự 2015;
12
Căn cứ Điều 66 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án;
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Tô Nguyễn Linh P.
2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 290/2024/DSST ngày 10 tháng 9
năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm:
3.1. Bà Tô Nguyễn Phương L được hoàn trả số tiền 300.000 đồng (Ba trăm
nghìn đồng) đã đóng theo Biên lai tạm ứng án phí số 0001784 ngày 22/10/2024
của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố D, tỉnh Bình Dương.
3.2. Bà Tô Nguyễn Linh P phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng)
và được khấu trừ vào số tiền đã đóng theo các Biên lai tạm ứng án phí số 0001855
ngày 05/11/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố D, tỉnh Bình Dương.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành phố D;
- TAND thành phố D;
- Các đương sự;
- Tổ Hành chính tư pháp;
- Lưu: Hồ sơ, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Trung Dũng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm