Bản án số 12/2024/DSST ngày 18/09/2024 của TAND huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 12/2024/DSST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 12/2024/DSST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 12/2024/DSST
Tên Bản án: | Bản án số 12/2024/DSST ngày 18/09/2024 của TAND huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Duy Tiên (TAND tỉnh Hà Nam) |
Số hiệu: | 12/2024/DSST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | NGUYỄN MẠNH K - BÙI VĂN T "TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT" |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THỊ XÃ DUY TIÊN
TỈNH HÀ NAM
Bản án số: 12//2024/DS-ST
Ngày 18/9/2024
V/v “Tranh chấp ranh giới quyền
sử dụng đất, yêu cầu tháo dỡ tài sản
trên diện tích đất lấn chiếm”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DUY TIÊN TỈNH HÀ NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Tươi.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Xuân Tung, ông Trần Đức Liên.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung - Thư ký Tòa án nhân dân
thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam tham
gia phiên toà: Bà Lê Thị Minh Hoa - Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 9 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Duy Tiên xét
xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 26/2024/TLST-DS ngày 17 tháng 7 năm 2024
về “Tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất, yêu cầu tháo dỡ tài sản trên diện tích
đất lấn chiếm” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2024/QĐXXST-DS ngày
21 tháng 8 năm 2024, Quyết định hoãn phiên toà số 14/2024/QĐST-DS ngày 11
tháng 9 năm 2024 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Anh Nguyễn Mạnh K, sinh năm 1975; nơi cư trú: Tổ dân phố
V, phường B, thị xã D, tỉnh Hà Nam; có mặt.
* Bị đơn: Anh Bùi Văn T, sinh năm 1982; nơi cư trú: Tổ dân phố V, phường
B, thị xã D, tỉnh Hà Nam; có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Bùi Đức T1, sinh năm 1954; có mặt.
+ Bà Vũ Thị M, sinh năm 1957; vắng mặt
+ Chị Đinh Thị N, sinh năm 1989; vắng mặt
+ Anh Bùi Công Đ, sinh năm 1980; có mặt.
+ Chị Trần Thị Thanh T2, sinh năm 1981; vắng mặt.
+ Anh Bùi Đức T3, sinh năm 2004; vắng mặt.
Cùng nơi cư trú: Tổ dân phố V, phường B, thị xã D, tỉnh Hà Nam.
Người đại diện theo uỷ quyền: Anh Bùi Văn T, sinh năm 1982; nơi cư trú: Tổ
dân phố V, phường B, thị xã D, tỉnh Hà Nam; có mặt.
+ Chị Lê Thị Phương T4, sinh năm 1979; vắng mặt
+ Anh Nguyễn Phương N1, sinh năm 2001; vắng mặt.
+ Chị Trịnh Thị P, sinh năm 2003; vắng mặt.
Cùng nơi cư trú: Tổ dân phố V, phường B, thị xã D, tỉnh Hà Nam.
2
+ Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1997; địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện K,
tỉnh Hưng Yên; vắng mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền: Anh Nguyễn Mạnh K, sinh năm 1975; nơi cư
trú: Tổ dân phố V, phường B, thị xã D, tỉnh Hà Nam; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà nguyên đơn
anh Nguyễn Mạnh K trình bày:
Thửa đất số 22, tờ Bản đồ PL 12 tại tổ dân phố V, phường B, thị xã D, tỉnh Hà
Nam của gia đình anh có nguồn gốc do nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất,
ngày 22/5/2006 hộ gia đình anh được UBND huyện D, tỉnh Hà Nam cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số AE 071718, số vào sổ: H00615, diện tích 160 m
2
mang
tên hộ Nguyễn Mạnh K và Lê Thị Phương T4. Đến năm 2021 anh có làm đơn cấp
đổi giấy chứng nhận nên hộ gia đình anh được Sở tài nguyên và môi trường tỉnh H
cấp mới theo số DB 625347, số vào sổ 04280 tại thửa số 22, phụ lục A tổ dân phố
V, phường B, thị xã D, tỉnh Hà Nam, diện tích 160m
2
.
Quá trình sử dụng gia đình anh Bùi Văn T đã xây công trình phụ (01 nhà xí tự
thoại, 01 nhà tắm, 02 bể nước đều do anh Bùi Văn T xây năm 2010) và xây 01 đoạn
tường ông Trịnh x năm 1998) đã lấn sang gia đình anh. Nay anh khởi kiện yêu cầu:
- Buộc gia đình anh Bùi Văn T trả lại phần đất đã lấn chiếm sang gia đình anh
là 3,5m
2
tại thửa số 22, phụ lục 12 tổ dân phố V, phường B, thị xã D, tỉnh Hà Nam.
- Buộc gia đình anh Bùi Văn T phải tháo dỡ toàn bộ tài sản xây dựng trên diện
tích đất lấn chiếm của gia đình anh: 01 nhà xí tự thoại; 01 nhà tắm; 02 bể nước và
01 đoạn tường dài 5,65m.
Nguyên đơn nhất trí với kết quả xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản,
đề nghị Toà án giải quyết chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc và chi phí định
giá tài sản theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của bị đơn anh Bùi Văn T: Thửa đất số 41 (1), tờ bản đồ phụ lục 12
tại tổ dân phố V, phường B, thị xã D, tỉnh Hà Nam của anh có nguồn gốc: Ngày
22/5/2006 hộ ông Bùi Văn T5 và bà Vũ Thị M (là bố mẹ đẻ anh) đã được Ủy ban
nhân dân huyện D cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AE 071711, số vào sổ
H00608, diện tích 327m
2
(thửa đất của hộ ông T5 chung thửa với thửa đất của vợ
chồng con trai là anh Bùi Công Đ và chị Trần Thị Thanh T2). Sau đó hộ ông Bùi
Văn T5 đã làm thủ tục tặng cho anh toàn bộ thửa đất sử dụng riêng của ông T5 là
thửa 41(1), phụ lục 12, diện tích 327 m
2
. Do anh không có nhu cầu cấp giấy chứng
nhận mới nên được cơ quan có thẩm quyền đính chính biến động chủ sử dụng đất ở
trang 4, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũ. Vì vậy từ ngày 21/10/2022, thửa đất
số 41(1), tờ bản đồ PL 12 thuộc quyền sử dụng của anh và chung thửa với thửa đất
của anh trai anh là Bùi Công Đ. Sau khi được tặng cho quyền sử dụng đất, anh đã
sử dụng đúng diện tích đất được cấp giấy chứng nhận và làm các công trình trên
diện tích thuộc quyền sử dụng của gia đình. Anh không đồng ý với yêu cầu khởi
kiện của anh Nguyễn Mạnh K. Theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ của cơ quan
chuyên môn, anh thừa nhận trên diện tích đất tranh chấp có: 01 nhà xí tự thoại; 01
nhà tắm; 02 bể nước (do anh xây năm 2010) và 01 đoạn tường dài 5,65m do ông
3
Trịnh x, anh không đồng ý với quan điểm cho rằng gia đình anh lấn sang thửa đất
của gia đình anh K là 3,5m
2
.
Hiện nay trên thửa đất 41(1), tờ bản đồ PL 12 anh được tặng cho thì có bố mẹ
anh là ông Bùi Đức T1 (tên gọi khác Bùi Văn T5), bà Vũ Thị M, sinh năm 1957 và
gia đình anh gồm: Anh, vợ anh là Đinh Thị N, sinh năm 1989; các con chung gồm:
Bùi Ngọc S, sinh năm 2011; Bùi Chấn K1, sinh năm 2012; Bùi Anh T6, sinh năm
2022 đang sinh sống, ngoài ra không còn ai khác. Diện tích đất anh được tặng cho
hiện nay không đảm bảo cho nghĩa vụ dân sự nào. Về công sức san lấp vượt lập mặt
bằng, xây dựng tài sản trên diện tích đất tranh chấp như hiện nay không yêu cầu Tòa
án giải quyết. Anh không có ý kiến gì về thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của cơ quan có thẩm quyền cho gia đình anh.
Ý kiến của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Bùi Đức T1 (tên gọi khác Bùi Văn T5): Hoàn toàn nhất trí với quan điểm
của bị đơn anh Bùi Văn T. Nguồn gốc thửa đất: Năm 1980 khi đó thửa đất còn là
ao, thì ông đã ra ở và xây dựng tường bao quanh, san lấp mặt bằng bằng phẳng như
bây giờ. Trên đất tranh chấp có tài sản gồm: 01 nhà xí tự thoại; 01 nhà tắm; 02 bể
nước (do anh T xây năm 2010) và 01 đoạn tường dài 5,65m do ông xây (không nhớ
chính xác thời gian khoảng năm 1996 là xây xong). Năm 2003, thực hiện kế hoạch
566, để hợp pháp hóa cho các hộ đang sử dụng đất thì hộ ông được lên phương án
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thời điểm này ông cũng tách độc lập cho
anh Đ sử dụng riêng 328m
2
tại thửa đất số 41, tờ bản đồ PL 12. Còn diện tích đất hộ
gia đình ông được sử dụng riêng là 327m
2
, sau này hộ gia đình ông làm thủ tục tặng
cho anh Bùi Văn T sử dụng. Về công sức san lấp mặt bằng, xây dựng tài sản trên
đất trnah chấp ông không yêu cầu Tòa án giải quyết. Không có ý kiến gì về thủ tục
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cơ quan có thẩm quyền cho gia đình
ông.
- Anh Bùi Công Đ trình bày: Mặc dù gia đình anh chung thửa với thửa đất
của anh Bùi Văn T đang sử dụng (anh T do được hộ bố anh- ông Bùi Văn T5 tặng
cho) nhưng vị trí tranh chấp nằm giữa ranh giới giữa nhà anh K và nhà anh T, không
liên quan đến thửa đất của anh được cấp nên anh đề nghị Toà án giải quyết theo
pháp luật.
Bà Vũ Thị M, chị Đinh Thị N, chị Trần Thị Thanh T2, anh Bùi Đức T3 đều
có văn bản uỷ quyền cho anh Bùi Văn T; chị Lê Thị Phương T4, chị Nguyễn Thị
Thu H, anh Nguyễn Phương N1, chị Trịnh Thị P đều có văn bản uỷ quyền cho anh
Nguyễn Mạnh K.
Kết quả xác minh tại Phòng tài nguyên môi trường thị xã D như sau: Theo
bản đồ địa chính năm 1986 lập tại xã B tranh chấp thuộc hai thửa đất là thửa đất số
272, tờ bản đồ số 07, diện tích 250m
2
(đất ao) ghi Hợp tác xã và thửa đất số 271, tờ
bản đồ số 7, diện tích 2500m
2
(đất ao) ghi Hợp tác xã. Theo bản đồ đo đạc hiện trạng
xã B năm 2003 vị trí tranh chấp thuộc 02 thửa là thửa đất số 22, tờ bản đồ PL 12,
diện tích 160 m
2
(trong đó đất ở 75m
2
, đất vườn 85m
2
) ghi tên K và thửa đất số 41,
tờ bản đồ PL 12, diện tích 655 m
2
(trong đó đất ở 291m
2
, đất vườn 364m
2
ghi tên
T5. Thực hiện Kế hoạch 566/KH-UB ngày 05/8/2003 của Ủy ban nhân dân tỉnh H,
hội đồng đăng ký đất đai xã B xây dựng phương án xử lý hợp pháp hoá được UBND
huyện D (nay là thị xã D) phê duyệt tại Quyết định số 239/2005/QĐ-UBND ngày
4
27/6/2005. Trong phương án hộ Nguyễn Văn K2 (Nguyễn Mạnh K) được xây dựng
phương án xử lý tại thửa đất số 22, tờ bản đồ PL 12, diện tích 160 m
2
và hộ ông Bùi
Văn T5 (Bùi Đức T1) được xây dựng phương án xử lý hợp pháp hoá diện tích cấp
giấy chứng nhận là 327m
2
tại thửa đất số 41, tờ bản đồ PL 12 (trong đó đất ở là
291m
2
, đất vườn 36m
2
) và con trai ông T1 là Bùi Công Đ được lên phương án xử lý
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích là 327m
2
(trong đó đất ở 180m
2
,
đất vườn 147m
2
), sử dụng chung thửa với thửa số 41, tờ bản đồ phụ lục 12 với nhà
ông T1. Năm 2006, hộ Nguyễn Mạnh K và Bùi Văn T5 được Ủy ban nhân dân
huyện D (Nay là thị xã D) cấp giấy chứng nhận quyền sử đụng đất, việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ Nguyễn Mạnh K và Bùi Văn T5 là đảm bảo
theo trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.
Kết quả xác minh tại Ủy ban nhân dân phường B, thị xã D:
Về nguồn gốc thửa đất số 22, phụ lục 12 tại tổ dân phố V, phường B: Theo
sổ mục kê năm 1985, sổ đăng ký ruộng đất năm 1986 và bản đồ địa chính năm 1986
thì hộ anh Nguyễn Mạnh K đang ở hiện tại là thửa đất số 272, tờ bản đồ số 7, đất
của Hợp tác xã, diện tích 250m
2
(không thể hiện loại đất gì) và từ đó đến năm 2003,
địa phương không có hồ sơ nào giao đất cho anh K. Đến năm 2003 thực hiện theo
Kế hoạch 566 để hợp pháp hoá cho các hộ dân đang sử dụng đất thì tại biên bản xác
định ranh giới và hồ sơ kỹ thuật thửa đất thì theo đo đạc hiện trạng, anh Nguyễn
Mạnh K ở thửa đất số 22, tờ bản đồ phụ lục 12, bản đồ địa chính phường B có diện
tích 160m
2
(trong đó đất ở 75m
2
, đất vườn 85m
2
) và theo phương án hợp pháp hoá
thì hộ anh K được cấp 160m
2
đất ở, tổng số tiền nộp theo phương án là 3.242.000
đồng (trong đó truy thu tiền sử dụng đất là 3.200.000 đồng, lệ phí trước bạ 32.000
đồng, lệ phí địa chính 10.000 đồng) và anh K sử dụng ổn định từ đó đến nay.
Về nguồn gốc thửa đất 41 (1), phụ lục 12 tại tổ dân phố V, phường B: Theo
sổ mục kê năm 1985, sổ đăng ký ruộng đất năm 1986 và bản đồ địa chính năm 1986
thì gia đình anh Bùi Văn T đang ở hiện tại là thửa đất số 271, tờ bản đồ số 7, đất của
Hợp tác xã, diện tích 2500m
2
(đất ao) và từ đó đến năm 2003, địa phương không có
hồ sơ nào giao đất cho anh T. Đến năm 2003 thực hiện theo Kế hoạch 566 để hợp
pháp hoá cho các hộ dân đang sử dụng đất thì tại biên bản xác định ranh giới và hồ
sơ kỹ thuật thửa đất thì theo đo đạc hiện trạng, hộ ông Bùi Văn T5 (tên gọi khác Bùi
Đức T1, bố đẻ anh T) ở thửa đất số 41, tờ bản đồ phụ lục 12, bản đồ địa chính
phường B có tổng diện tích 655m
2
(trong đó đất ở 291m
2
, đất vườn 364m
2
) và theo
phương án hợp pháp hoá thì hộ ông T1 được cấp 327m
2
(đất ở 291m
2
, đất vườn
36m
2
), tổng số tiền nộp theo phương án là 1.054.000 đồng (trong đó truy thu tiền sử
dụng đất là 820.000 đồng, lệ phí trước bạ 8.200 đồng, thu sản phẩm 216.000 đồng,
lệ phí địa chính 10.000 đồng) và con trai ông T1 là Bùi Công Đ được cấp chung
thửa có diện tích 327m
2
(trong đó đất ở 180m
2
, đất vườn 147m
2
), tổng số tiền phải
nộp theo phương án là 4.528.000 đồng (trong đó truy thu tiền sử dụng đất 3.600.000
đồng, lệ phí trước bạ 36.000 đồng, thu sản phẩm 882.000 đồng, lệ phí địa chính
10.000 đồng). Ngày 22/5/2006 hộ ông Bùi Văn T5 và bà Vũ Thị M được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng thửa đất trên. Đến ngày 11/5/2022 hộ ông Bùi Văn T5
đã làm thủ tục tặng cho anh Bùi Văn T toàn bộ diện tích sử dụng riêng của ông T5
[thửa 41 (1), phụ lục 12 theo hợp đồng tặng cho Số chứng thực 83/2022 quyển số
01/2022 SCT/HĐ,GD].
5
Kết qủa xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản xác định: Kết quả của
cơ quan chuyên môn (Chi nhánh văn phòng đất đai thị xã D) đã đo đạc, kết quả thể
hiện gia đình anh Bùi Văn T đã sử dụng sang diện tích của gia đình anh Nguyễn
Mạnh K theo như giấy chứng nhận quyền sử dụng đã cấp là 3,5 m
2
, có tứ cận như
đo đạc hiện trạng thửa đất của cơ quan chuyên môn, trên diện tích đất tranh chấp có
01 nhà xí tự thoại xây gạch mái bằng, 01 nhà tắm mái bằng bê tông cốt thép; 02 bể
nước xây gạch chỉ (bể 1 là 4,76m
2
đấy, bể 2 là 0,38m
2
đáy), các tài sản này do anh
Bùi Văn T xây năm 2010 và 01 tường xây gạch xỉ dài 5,65m do ông Bùi Đức T1
(Bùi Văn T5) xây khoảng năm 1998, ngoài ra trên diện tích đất tranh chấp không có
tài sản gì khác.
Tại Quyết định yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ số 11/2024/QĐ-CCTLCC
ngày 25/7/2024 của Toà án nhân dân thị xã Duy Tiên đối với Chi nhánh văn phòng
đất đai thị xã D yêu cầu cung cấp hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
lịch sử biến động của các thửa đất số 22, 41, PL 12 tại thôn V, xã B, huyện D (nay
là tổ dân phố V, phường B, thị xã D), tỉnh Hà Nam thì được cung cấp bản phô tô
đơn đề nghị cấp lại, đổi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ anh Bùi
Mạnh K3 đối với thửa đất số 22, tờ bản đồ phụ lục 12 và bản phô tô giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 09/4/2021; bản phô tô Hợp đồng tặng cho quyền
sử dụng đất ngày 11/5/2022 (có chứng thực của UBND xã B) giữa hộ ông Bùi Văn
T5 tặng cho anh Bùi Văn T thửa đất số 41 (1), tờ bản đồ số 12, diện tích 327m
2
(đất
ở 291m
2
, đất trồng cây lâu năm 36m
2
) và đơn đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn
liền với đất ngày 11/10/2022 của anh Bùi Văn T tại Chi nhánh văn phòng đất đai thị
xã D vào sổ tiếp nhận hồ sơ số 366.
Tại phiên toà hôm nay nguyên đơn giữ nguyên quan điểm đã trình bày.
Bị đơn Bùi Văn T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Bùi Đức T1,
anh Bùi Công Đ giữ nguyên quan điểm đã trình bày.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của những
người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ:
- Áp dụng các Điều 166, 170, 203 Luật Đất đai
- Áp dụng các Điều 175, 176 Bộ luật Dân sự;
- Áp dụng khoản 9 Điều 26; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39, Điều 147,
Điều 157, Điều 158, Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị Quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
+ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Mạnh K.
Buộc anh Bùi Văn T phải trả cho gia đình anh Nguyễn Mạnh K diện tích đất
đã lấn sang là 3,5m
2
tại thửa đất số số 22, tờ bản đồ PL 12, địa chỉ: T, phường B, thị
xã D, tỉnh Hà Nam, có kích thước như sau: Phía Tây: 0,77m; Phía Bắc: 9,01m; Phía
Nam: Theo giấy chứng nhận (từ điểm 7 đến điểm 8): 9,0m; Phía Đông: Trùng mốc
số 7.
Đồng thời buộc anh T phải tháo dỡ các tài sản, công trình trên đất tranh chấp
do gia đình anh T xây là 01 nhà xí tự hoại xây gạch mái bằng, 01 nhà tắm mái bằng
bê tông cốt thép, 02 bể nước xây gạch chỉ. Các tài sản này do anh Bùi Văn T xây
năm 2010 và 01 tường xây gạch xỉ dài 5,65m do ông Bùi Văn T5 (Bùi Đức T1) xây
năm 1998.
6
- Bác các yêu cầu khác của đương sự không có căn cứ.
- Về chi phí tố tụng: Anh Bùi Văn T phải chịu chi phí xem xét thẩm định tại
chỗ và định giá tài sản.
- Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Bùi Văn T phải chịu theo quy định của pháp
luật.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên
tòa. Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm, sau khi thảo luận và
nghị án Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Về thủ tục tố tụng:
[1] Về xác định quan hệ pháp luật: Nguyên đơn anh Nguyễn Mạnh K khởi
kiện yêu cầu gia đình anh Bùi Văn T trả lại phần diện tích đã lấn chiếm và buộc tháo
dỡ tài tản sản trên diện tích đất đã lấn chiếm tại thửa đất số 22, tờ bản đồ PL 12, tổ
dân phố V, phường B, thị xã D. Do đó, Hội đồng xét xử xác định đây là quan hệ
pháp luật về “Tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất, yêu cầu tháo dỡ tài sản trên
diện tích đất lấn chiếm” theo quy định tại khoản 9 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về thẩm quyền giải quyết: Diện tích đất có tranh chấp ở tại tổ dân phố V,
phường B, thị xã D, tỉnh Hà Nam nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân
dân thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ
luật tố tụng dân sự.
[3] Về sự tham gia tố tụng của đương sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Vũ Thị M, ông Bùi Đức T1, anh Bùi Công Đ, chị Trần Thị Thanh T2, anh
Bùi Đức T3 đều có văn bản uỷ quyền cho anh Bùi Văn T; chị Lê Thị Phương T4,
anh Nguyễn Phương N1, chị Trịnh Thị P, chị Nguyễn Thị Thu H đều có văn bản uỷ
quyền cho anh Nguyễn Mạnh K, tại phiên toà hôm nay anh Bùi Văn T xuất trình
văn bản uỷ quyền của chị Đinh Thị N cho anh Bùi Văn T.
Về nội dung
[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn Mạnh K khởi kiện yêu
cầu gia đình anh Bùi Văn T phải trả lại diện tích đất 3,5 m
2
đất lấn chiếm tại thửa
đất số 22, tờ bản đồ PL 12 tại tổ dân phố V, phường B và buộc tháo dỡ, các tài sản
trên đất lấn chiếm.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn xuất trình là Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mang tên hộ anh Nguyễn Mạnh K, số vào sổ cấp Giấy chứng
nhận: CS04280 ngày 09/4/2021 do Sở tài nguyên và môi trường tỉnh H cấp; Biên
bản giải quyết hoà giải hoà giải đơn của ông Nguyễn Mạnh K ngày 02/7/2024 tại
phường B; trích lục bản đồ thửa đất số 22, tờ bản đồ PL 12, bản đồ địa chính phường
B lập năm 2003 và các tài liệu chứng cứ do Toà án thu thập được trong đó có toàn
bộ hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các thửa đất có liên quan đến
phần diện tích đất tranh chấp, kết quả đo đạc bằng máy của Chi nhánh Văn phòng
đất đai thị xã D. Hội đồng xét xử thấy rằng:
Thứ nhất: Về nguồn gốc thửa đất số 22, 41, tờ bản đồ PL 12, tổ dân phố V,
phường B của hộ gia đình anh Nguyễn Mạnh K và ông Bùi Văn T5 (Bùi Đức T1,
bố đẻ anh Bùi Văn T) theo sổ mục kê năm 1985, sổ đăng ký ruộng đất năm 1986 và
bản đồ địa chính năm 1986 thì các thửa đất số 22, 41 đều là đất của Hợp tác xã và
7
từ đó đến năm 2003 địa phương không có hồ sơ nào giao đất cho hộ anh K, hộ ông
T1. Đến năm 2003 khi xây dựng phương án cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
năm 2006 cả hai thửa đất trên đều được lên phương án hợp pháp hoá quyền sử dụng
đất theo kế hoạch 566/KH-UB ngày 05/8/2003 của Ủy ban nhân dân tỉnh H, hội
đồng đăng ký đất đai xã B (nay là phường B) lập phương án xử lý hợp pháp hoá
được Ủy ban nhân dân huyện D (nay là UBND thị xã D) phê duyệt tại Quyết định
số 239/2005/QĐ-UBND ngày 27/6/2005, hộ anh Nguyễn Mạnh K và ông Bùi Văn
T5 (Bùi Đức T1) đều được cấp giấy chứng nhận vào ngày 22/5/2006 (thửa đất số
22, 41 có được đều do nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng). Việc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho hộ anh K, ông Bùi Văn T5 là đúng trình tự, quy định
của pháp luật. Từ đó đến nay các hộ vẫn sử dụng ổn định, không có tranh chấp gì
về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên. Trong hồ sơ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thể hiện đầy đủ các tài liệu giấy tờ theo quy định, có trích
lục thửa đất 22, 41 tại thời điểm cấp, có ký giáp ranh giữa các hồ liền kề và được
nhà nước bảo hộ công nhận mốc giới, ranh giới quyền sử dụng đất đã được nhà nước
công nhận của gia đình anh Nguyễn Mạnh K, ông Bùi Văn T5, đến ngày 11/5/2022
hộ ông Bùi Văn T5 đã làm thủ tục tặng cho anh Bùi Văn T toàn bộ thửa đất sử dụng
riêng của ông T5 (thửa 41 (1), phụ lục 12 theo quy định tại Điều 170 Luật đất đai
năm 2013 và Điều 265, Điều 266 Bộ luật dân sự năm 2005 (nay là Điều 175, Điều
176 Bộ luật dân sự năm 2015).
Thứ hai: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được đã thể hiện trong quá
trình sử dụng thửa đất số 41 (1), tờ bản đồ phụ lục 12 tại tổ dân phố V, phường B
gia đình anh Bùi Văn T, ông Bùi Văn T5 đã có hành vi vượt lập và xây dựng 01 nhà
xí tự hoại, 01 nhà tắm, 02 bể nước (anh T xây khoảng năm 2010) và 01 tường gạch
xỉ dài 5,65m (do ông Trịnh x khoảng năm 1998). Việc xây dựng tường gạch xỉ của
ông T5 cũng như xây nhà xí tự hoại, nhà tắm, bể nước của anh T, giáp ranh giữa
nhà bị đơn và đất nhà nguyên đơn lấn vào vị trí của thửa đất số 22, tờ bản đồ PL 12
là do tự phát xây để ngăn cách ranh giới hai bên không thông qua chính quyền địa
phương và không có cơ quan chuyên môn xác định mốc giới. Như vậy, trong quá
trình sử dụng đất của các hộ gia đình, chưa có bất kỳ văn bản thoả thuận nào về mốc
giới của người sử dụng đất liền kề gửi cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đăng ký
biến động về mốc giới nên nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
hộ gia đình anh Nguyễn Mạnh K, ông Bùi Văn T5, Bùi Văn T là đúng pháp luật.
Thứ ba: Căn cứ kết quả xem xét thẩm định tại chỗ, kết quả trích đo hiện trạng
các thửa đất tranh chấp số 22, 41, tờ bản đồ PL 12, tại tổ dân phố V, phường B, thị
xã D theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên hộ anh Nguyễn Mạnh K,
số vào sổ cấp Giấy chứng nhận: CS04280 ngày 09/4/2021 do Sở tài nguyên và môi
trường tỉnh H cấp đối với thửa số 22, tờ bản đồ PL 12; Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất mang tên Bùi Văn T5, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:
H00608 ngày 22/5/2005 do Ủy ban nhân dân huyện D cấp cho thửa số 41, tờ bản đồ
PL 12. Riêng thửa 41 (1), phụ lục 12 mà anh Bùi Văn T được hộ ông Trịnh t cho
vào năm 2022 thì chính quyền địa phương cùng các cơ quan có thẩm quyền không
phải xuống xem xét lại thực địa, không phải làm biên bản giao đất vì hộ ông Trịnh
t cho anh T toàn bộ phần đất sử dụng riêng của thửa 41(1), phụ lục số 12, không yêu
cầu cấp mới và tách riêng thửa nên không phải đo đạc lại. Tại đơn đăng ký biến
8
động đất đai, tài sản gắn liền với đất thì anh T không có nhu cầu cấp giấy chứng
nhận mới, vì vậy khi hoàn thiện nghĩa vụ tài chính thì anh T được Chi nhánh văn
phòng đất đai đính chính biến động chủ sử dụng đất ửo trang 4 giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cấp cho ông T5. Vì vậy từ ngày 21/10/2022 thửa đất số 41 (1), tờ
bản đồ phụ lục 12 thuộc quyền sử dụng của anh Bùi Văn T và hiện trạng sử dụng
của hai thửa đất này đã xác định được: Theo đo đạc hiện trạng cụ thể thửa đất nhà
anh T đang sử dụng lấn sang thửa đất nhà anh K đang sử dụng là 3,5m
2
có kích
thước: phía Tây 0,77m, phía Bắc 9,01m; phía Nam Theo giấy chứng nhận từ điểm
7 đến điểm 8 là 9,05m; phía Đông trùng mốc số 7. Trên diện tích đất tranh chấp tại
thửa số 22,41, tờ bản đồ PL 12 có 01 nhà xí tự hoại, 01 nhà tắm, 02 bể nước (do anh
Bùi Văn T7 xây dựng) và 01 tường xây gạch xỉ dài 5,65m (do ông T5 xây dựng) (có
sơ đồ kèm theo).
Vì vậy, việc anh Nguyễn Mạnh K khởi kiện yêu cầu gia đình anh Bùi Văn T
trả lại diện tích đã lấn chiếm và buộc tháo dỡ các tài sản trên diện tích đất lấn chiếm
là có cơ sở, cần được chấp nhận.
[5] Đối với công sức phần đất vượt lập, tài sản xây dựng trên diện tích đất
tranh chấp: Do nguyên đơn không có yêu cầu, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có quan điểm không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên
họ không yêu cầu Toà án xem xét thẩm định, định giá công sức phần đất vượt nền,
tài sản xây dựng trên diện tích đất tranh chấp nên Toà án không đặt ra giải quyết.
[6] Đối với yêu cầu của bị đơn tại buổi hoà giải công khai chứng cứ bị đơn anh
Bùi Văn T nộp 01 đơn đề nghị xem xét lại nguồn gốc đất nhà anh K để xác định
mốc giới giữa 2 bên. Toà án xác định về nguồn gốc đất tranh chấp đã được Toà án
xác minh cụ thể tại các biên bản xác minh tại Phòng tài nguyên môi trường thị xã
D, Ủy ban nhân dân phường B và đã được công khai tại phiên hợp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải, đồng thời đã được Hội đồng xét
xử đánh giá nhận định cụ thể tại phần trên nên không đặt ra xem xét lại.
[7] Về lệ phí, chi phí tố tụng: Lệ phí chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc
bằng máy, định giá tài sản hết 9.520.000 đồng. Do yêu cầu khởi kiện của anh
Nguyễn Mạnh K được Tòa án chấp nhận nên toàn bộ lệ phí, chi phí tố tụng anh Bùi
Văn T phải chịu theo quy định. Anh Nguyễn Mạnh K đã nộp tạm ứng lệ phí, chi phí
tố tụng số tiền trên. Vì vậy, cần buộc anh Bùi Văn T phải trả lại cho anh Nguyễn
Mạnh K số tiền là 9.520.000 đồng tiền lệ phí, chi phí tố tụng mà anh K đã nộp tạm
ứng và đã được chi phí tố tụng hết trong quá trình giải quyết vụ án.
[8] Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Mạnh K được chấp nhận
nên bị đơn anh Bùi Văn T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định. Hoàn trả
cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí, lệ phí đã nộp.
[9] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy
định của pháp luật.
[10] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà
Nam đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ cần chấp
nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
9
Căn cứ:
- Các Điều 3; 12; 100;166, 170, 179, 202; 203 Luật đất đai năm 2013
- Các Điều 158; 164, 166; 175, 176; 221 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Khoản 9 Điều 26; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39, các điều 147, 157,
158, 165, 166, 227, 228, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Mạnh K về việc tranh chấp
quyền sử dụng đất đối với anh Bùi Văn T.
1.1. Buộc gia đình anh Bùi Văn T phải trả lại ranh giới, mốc giới sử dụng đất
cho anh Nguyễn Mạnh K diện tích đất lấn chiếm là 3,5m
2
(đất ONT) đất tại thửa đất
số 22, tờ bản đồ phụ lục số 12 tại tổ dân phố V, phường B, thị xã D, tỉnh Hà Nam,
theo đo đạc hiện trạng cụ thể có kích thước: phía Tây 0,77m, phía Bắc 9,01m; phía
Nam Theo giấy chứng nhận từ điểm 7 đến điểm 8 là 9,05m; phía Đông trùng mốc
số 7.
Không ai được cản trở quyền sử dụng đất hợp pháp của anh Nguyễn Mạnh K
theo quy định của Luật đất đai.
1.2. Buộc gia đình anh Bùi Văn T phải tháo dỡ các tài sản trên diện tích đất
lấn chiếm (3,5m
2
) là 01 nhà xí tự hoại, 01 nhà tắm, 02 bể nước và 01 tường xây gạch
xỉ dài 5,65m.
(Có sơ đồ đo đạc hiện trạng thửa đất kèm theo Bản án).
2. Bác các yêu cầu khác của đương sự.
3. Về lệ phí, chi phí tố tụng: Anh Bùi Văn T phải trả cho anh Nguyễn Mạnh
K lệ phí, chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc bằng máy và định giá tài sản số
tiền 9.520.000 đồng.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: anh Bùi Văn T phải chịu 300.000 đồng.
Hoàn trả cho anh Nguyễn Mạnh K 300.000 đồng số tiền tạm ứng án phí, lệ
phí Toà án đã nộp theo biên lai số 0001153 ngày 16/7/2024 tại Chi cục Thi hành án
dân sự thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
Án xử công khai sơ thẩm, đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự,
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân
sự.
10
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Hà Nam.
- VKSND thị xã Duy Tiên.
- Chi cục THA thị xã Duy Tiên.;
- Các đương sự.
- Lưu Hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Nguyễn Thị Tươi
Tải về
Bản án số 12/2024/DSST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 12/2024/DSST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm