Bản án số 84/2025/DS-PT ngày 24/02/2025 của TAND tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 84/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 84/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 84/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 84/2025/DS-PT ngày 24/02/2025 của TAND tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Tây Ninh |
Số hiệu: | 84/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Dang Hai T voi Dang Van B tranh chap hop dong chuyen nhuong quyen su dung dat |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TÂY NINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản số: 84/2025/DS-PT
Ngày: 24 – 02 - 2025
V/v đòi tài sản là quyền sử
dụng đất, tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng
đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
- Thành phn Hng xét x phúc thm gm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: ông Nguyễn Văn Nam.
Các Thẩm phán: ông Nguyễn Quốc Tuấn; bà Võ Thị Hồng Mai.
- ý phiên tòa: bà Lê Thị Bảo Thoa - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Tây
Ninh.
-òa: bà
Đoàn Thị Thuỷ Tiên – Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh, xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 458/2024/TLPT-DS, ngày 16-10-2024 về
việc “Đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 128/2024/DS-ST ngày 27 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 505/2024/QĐ-PT ngày
22 tháng 10 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Đặng Hải T, sinh năm 1991; địa chỉ: Đường số C- N, Tổ
A, ấp L, xã L, thị xã H, tỉnh Tây Ninh; có mặt.
- Bị đơn: Ông Đặng Văn B, sinh năm 1964; địa chỉ: ấp K, xã C, Huyện D,
tỉnh Tây Ninh, có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1967;
cùng địa chỉ với ông B, vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của ông B, bà X: Ông Võ Văn S, sinh năm 1971;
địa chỉ: Số nhà C, Đường Cách mạng tháng T1, Khu phố G, Phường C, thành phố
T, tỉnh Tây Ninh – Là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 14-
10-2023), có mặt.
- Người kháng cáo: bị đơn ông Đặng Văn B.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Đặng Hải
T trình bày:
Anh là con của ông Đặng Văn X1 (chết năm 2013) và bà Trương Ngọc T2
(chết năm 2023). Ngoài anh thì ông X1, bà T2 không còn người con nào khác kể
cả con riêng, con nuôi. Năm 2006, cha của anh tên Đặng Văn X1 được UBND
Huyện D cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt GCNQSDĐ) đối với
thửa 3548, tờ bản đồ số 2, diện tích1040m
2
; tọa lạc tại xã C, Huyện D, tỉnh Tây
Ninh. Sau khi cha mẹ của anh chết, ông B liên hệ gặp anh yêu cầu ký hồ sơ để chị
Đặng Thị Thanh C (con gái của ông B) được cấp GCNQSDĐ. Từ đó, anh cùng
ông B, chị C đến UBND xã C để ký hồ sơ. Tuy nhiên, khi ông B đưa bộ hồ sơ cho
anh ký thì mới phát hiện GCNQSDĐ do cha anh đứng tên; ông B yêu cầu anh ký
hồ sơ nhận thừa kế từ cha và 01 hồ sơ chuyển nhượng phần đất này cho chị C. Khi
biết sự việc anh không đồng ý, anh và ông B cùng yêu cầu UBND xã C giải quyết
nhưng không thành.
Căn cứ hồ sơ trích lục thể hiện phần đất đang tranh chấp là cha của anh nhận
chuyển nhượng từ ông B. Khi cha mẹ còn sống, anh có nghe nói mua lại từ ông B
01 phần đất ở Cầu K. Tuy nhiên, thời điểm đó anh bận đi học nên cũng không quan
tâm đến giá mua bán cụ thể là bao nhiêu. Sự việc ông B cho rằng cha của anh chưa
thanh toán số tiền chuyển nhượng nên yêu cầu chuyển nhượng lại là vô lý. Từ thời
điểm cha được đứng tên năm 2006 đến khi chết (năm 2013) là 07 năm, đến năm
2023 mẹ anh mất là 10 năm nữa. Trường hợp cha anh chưa thanh toán tiền chuyển
nhượng, vì sao trong khoảng thời gian 17 năm ông B không khởi kiện cũng như
không có động thái gì đến việc yêu cầu cha mẹ anh phải chuyển nhượng lại phần
đất tranh chấp. Trong khi đó, mẹ anh vừa chết, ông B lại yêu cầu anh ký hồ sơ cho
con gái của ông B được cấp GCNQSDĐ nhưng không nói rõ sự việc. Thời điểm
đó, anh chỉ nghĩ ký hồ sơ đất do ông nội tên Đặng Văn T3 còn đứng tên. Đến khi
phát hiện phần đất do cha anh đứng tên thì ông B mới nại ra nhiều lý do.
Nay anh khởi kiện yêu cầu ông B trả lại quyền sử dụng đất diện tích
1040m
2
, thuộc thửa 3548, tờ bản đồ số 02 (tương ứng với bản đồ năm 2010 là thửa
1029, tờ bản đồ 13, diện tích đo đạc thực tế là 1010.5m
2
); tọa lạc xã C, Huyện D,
tỉnh Tây Ninh và bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H01059 do
UBND Huyện D cấp ngày 30-5-2006 cho ông Đặng Văn X1 đứng tên.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Đặng Văn B, bà Nguyễn Thị X là ông
Võ Văn S trình bày: Cha mẹ của ông B là cụ Đặng Văn T3 (sinh năm 1923, chết
năm 1994) và cụ Trần Thị N (sinh năm 1929, chết năm 2008). Cụ T3 và cụ N có
06 người con gồm: Đặng Văn X1, Đặng Thị H, Đặng Văn L, Đặng Thị X2, Đặng
Văn B và Trần Thị L1. Hiện ông X1 và ông L đã chết. Khi cha mẹ còn sống có
phân chia cho 06 người con mỗi người một phần đất ruộng. Riêng ông B sinh sống
cùng cha mẹ nên được cho thêm phần đất gò. Sau khi ông B được đứng tên giấy
đất, nhận thấy bà X2, ông X1, bà H và ông X3 (là con của người dì ruột) có cuộc
sống khó khăn, không có nơi ở ổn định. Từ đó, ông B mới tập hợp những người
này lại và bán cho mỗi người một phần đất gò để cất nhà ở, giá bán mỗi phần là
20.000.000 đồng. Trong đó, bà X2, bà H và ông X3 đã trả tiền cho ông B, riêng
ông X1 chưa thanh toán và hứa hẹn khi nào ra giấy đất sẽ trả tiền.
Sau khi có GCNQSDĐ, ông B đã giao giấy đất cho bà X2, bà H và ông X3;
phía ông X1 chưa trả tiền nên ông B vẫn giữ giấy đất; hứa hẹn khi nào có tiền trả
và lấy giấy đất về. Đồng thời, ông B sử dụng phần đất tranh chấp từ trước cho đến
nay. Trong thời gian đó, ông B thường xuyên yêu cầu trả tiền nhưng ông X1 không
có tiền và đồng ý làm thủ tục chuyển nhượng lại cho ông B, khi chưa thực hiện thì
ông X1 chết. Sau đó, ông B cũng nhiều lần liên hệ bà T2 để làm thủ tục khai nhận
thừa kế và chuyển nhượng lại phần đất trên, bà T2 cũng đồng ý nhưng khi đang
làm thủ tục thì bà T2 chết.
Ông B tiếp tục liên hệ anh T để làm thủ tục khai nhận thừa kế và chuyển
nhượng lại phần đất trên như đã thỏa thuận giữa ông B và ông X1. Khi đó, anh T
cũng đồng ý nhưng khi chuẩn bị ký hợp đồng thì lại đổi ý.
Về quá trình sử dụng đất, năm 2002 ông B trồng cây cao su trên toàn bộ diện
tích đất ở, đất gò. Năm 2006, ông B mới bán đất có cây cao su cho các ông bà như
nêu trên. Sau khi giao đất, bà X2, ông X3 đã chặt bỏ cây cao su để cất nhà ở; riêng
bà H khai thác mủ cao su đến năm 2018 thì thanh lý. Phần bán cho ông X1, ông B
bắt đầu khai thác mủ cao su từ năm 2009 cho đến nay.
Do đó, nay ông B không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh T.
Đồng thời, ông B có đơn phản tố yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 03-5-2006 với ông X1; công nhận cho ông B, bà X phần đất diện
tích 1040m
2
, thuộc thửa 3548, tờ bản đồ số 02 (tương ứng với bản đồ năm 2010 là
thửa 1029, tờ bản đồ 13, diện tích đo đạc thực tế là 1010.5m
2
).
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 128/2024/DS-ST ngày 27 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh, đã quyết định:
Căn cứ các Điều 147, 158, 165, 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các
Điều 121, 122, 689, 692 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 166 của Bộ luật Dân
sự năm 2015; các Điều 105, 106, 127 của Luật Đất đai năm 2003; các Điều 12,
Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Đặng Hải T đối với ông Đặng Văn
B về “Đòi tài sản là quyền sử dụng đất”.
Buộc ông Đặng Văn B có nghĩa vụ trả cho hàng thừa kế thứ nhất của ông
Đặng Văn X1 là anh Đặng Hải T quyền sử dụng đất và cây cao su trên phần diện
tích 1040m
2
, thuộc thửa 3548, tờ bản đồ số 02 (tương ứng với bản đồ năm 2010 là
thửa 1029, tờ bản đồ 13, diện tích đo đạc thực tế là 1010.5m
2
); tọa lạc xã C, Huyện
D, tỉnh Tây Ninh và bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H01059 do
UBND huyện D cấp ngày 30-5-2006 cho ông Đặng Văn X1 đứng tên (có sơ đồ
kèm theo).
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Đặng Văn B đối với anh Đặng
Hải T về “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chí phí tố tụng, nghĩa vụ chậm trả và
quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 10/9/2024, bị đơn ông Đặng Văn B kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự
sơ thẩm số 128/2024/DS-ST ngày 27/8/2024 của Toà án nhân dân huyện Dương
Minh Châu, tỉnh Tây Ninh đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xét xử lại theo
hướng sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn; xem xét huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
01/5/2006 giữa ông B, ông X1, công nhận cho ông B được quyền sử dụng phần đất
diện tích 1040m
2
, thuộc thửa 3548.
Tại phiên toà phúc thẩm: ông Đặng Văn B vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng
cáo.
Anh Đặng Hải T không đồng ý với yêu cầu kháng cáo của ông Đặng Văn B.
Tại phiên toà phúc thẩm, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh
phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư
ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự. Các đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông Đặng
Văn B sửa bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Đặng Hải
T, chấp nhận yêu cầu phản tố của của ông Đặng Văn B.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem
xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của đại diện
Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: ngày 10/9/2024 bị đơn ông Đặng Văn B có đơn
kháng cáo trong thời hạn luật định nên đủ điều kiện xét xử phúc thẩm.
[2] Nội dung vụ án: anh Đặng Hải T khởi kiện yêu cầu ông Đặng Văn B trả
lại cho anh quyền sử dụng đất diện tích 1040m
2
, thuộc thửa 3548, tờ bản đồ số 02
(tương ứng với bản đồ năm 2010 là thửa 1029, tờ bản đồ 13, diện tích đo đạc thực
tế là 1010.5m
2
); tọa lạc xã C, Huyện D, tỉnh Tây Ninh và bản chính giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số H01059 do UBND huyện D cấp ngày 30-5-2006 cho
ông Đặng Văn X1 (cha ruột anh T) đứng tên. Ông Đặng Văn B không đồng ý với
yêu cầu của anh T và yêu cầu phản tố hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ngày 03-5-2006 với ông X1; công nhận cho ông B, bà X phần đất diện tích
1040m
2
, thuộc thửa 3548, tờ bản đồ số 02 (tương ứng với bản đồ năm 2010 là thửa
1029, tờ bản đồ 13, diện tích đo đạc thực tế là 1010.5m
2
).
[3] Xét kháng cáo của ông Đặng Văn B thấy rằng: nguồn gốc phần diện tích
đất diện tích 1040m
2
, thuộc thửa 3548, tờ bản đồ số 02 (tương ứng với bản đồ năm
2010 là thửa 1029, tờ bản đồ 13, diện tích đo đạc thực tế là 1010.5m
2
) là của cụ
Đặng Văn T3 và cụ Trần Thị N là cha mẹ ruột của ông B và ông X1 cho lại ông B
và ông B chuyển nhượng lại cho ông X1 ngày 09/5/2006 với giá 20.000.000 đồng,
sau khi chuyển nhượng thì ông B là người đi làm thủ tục sang tên cho ông X1, đến
ngày 30/5/2006 thì ông X1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy
nhiên đất thì ông B vẫn là người quản lý, sử dụng và khai thác mủ cáo su do ông B
trồng năm 2002 cho đến nay, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng do ông B
giữ vì ông B cho rằng ông X1 chưa thanh toàn tiền cho ông B, ngoài việc chuyển
nhượng cho ông X1 thời diểm đó ông B còn chuyển nhượng cho ông H và ông X3,
bà X2.
[4] Việc ông B cho rằng ông X1 chưa trả tiền là không có cơ sở vì bởi nếu
chưa trả tiền từ năm 2006 cho đến nay ông B không có chứng cứ nào chứng minh
việc yêu cầu ông X1 trả tiền hay là huỷ hợp đồng chuyển nhượng, ngay cả sau khi
ông X1 chết năm 2013 ông B cũng không có động thái gì đối với thửa đất này, cho
đến năm 2023 vợ ông X1 chết thì ông B mới yêu cầu anh T con của ông X1
chuyển nhượng lại cho ông B. Nên cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của anh Đặng
Hải T đối với ông Đặng Văn B về “Đòi tài sản là quyền sử dụng đất”. Buộc ông
Đặng Văn B có nghĩa vụ trả cho hàng thừa kế thứ nhất của ông Đặng Văn X1 là
anh Đặng Hải T quyền sử dụng đất và cây cao su trên phần diện tích 1040m
2
, thuộc
thửa 3548, tờ bản đồ số 02 (tương ứng với bản đồ năm 2010 là thửa 1029, tờ bản
đồ 13, diện tích đo đạc thực tế là 1010.5m
2
); tọa lạc xã C, huyện D, tỉnh Tây Ninh
và bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H01059 do UBND huyện D
cấp ngày 30-5-2006 cho ông Đặng Văn X1 đứng tên là có cơ sở. Ông Đặng Văn B
kháng cáo nhưng cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì mới nên không
có căn cứ chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[5] Tuy nhiên cấp sơ thẩm tuyên ông Đặng Văn B có nghĩa vụ giao trả cho
anh T cây cao su trên đất tranh chấp nhưng không nói cụ thể là bao nhiêu cây nên
sẽ khó khăn cho công tác thi hành án nên Hội đồng xét xử căn cứ vào biên bản
xem xét thẩm định tại chỗ ngày 04/6/2024 thì số lượng cây cao su trên đất tranh
chấp là 80 cây cao su 22 năm tuổi (trồng năm 2001) để điều chỉnh lại cách tuyên,
cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.
[6] Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh
tại phiên tòa phúc thẩm không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên
không chấp nhận.
[7] Về án phí dân sự phúc thẩm: ông Đặng Văn B là người cao tuổi nên
được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Đặng Văn B có điều chỉnh cách
tuyên; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 128/2024/DS-ST, ngày 27 tháng 8
năm 2024, của Toà án nhân dân huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh.
Căn cứ các Điều 147, 158, 165, 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các
Điều 121, 122, 689, 692 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 166 của Bộ luật Dân
sự năm 2015; các Điều 105, 106, 127 của Luật Đất đai năm 2003; các Điều 12,
Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Đặng Hải T đối với ông Đặng Văn
B về “Đòi tài sản là quyền sử dụng đất”.
Buộc ông Đặng Văn B có nghĩa vụ trả cho hàng thừa kế thứ nhất của ông
Đặng Văn X1 là anh Đặng Hải T quyền sử dụng đất diện tích 1040m
2
, thuộc thửa
3548, tờ bản đồ số 02 (tương ứng với bản đồ năm 2010 là thửa 1029, tờ bản đồ 13,
diện tích đo đạc thực tế là 1010.5m
2
); tọa lạc xã C, Huyện D, tỉnh Tây Ninh và bản
chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H01059 do UBND Huyện D cấp ngày
30-5-2006 cho ông Đặng Văn X1 đứng tên và tài sản gắn liền với quyền sử dụng
đất nói trên là 80 (tám mươi) cây cao su trồng năm 2001 (có sơ đồ kèm theo).
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Đặng Văn B đối với anh Đặng
Hải T về “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
4. Về chi phí tố tụng: Ông Đặng Văn B phải chịu chi phí xem xét thẩm định
tại chỗ, định giá và đo đạc là 24.400.000 (hai mươi bốn triệu bốn trăm nghìn)
đồng; ông B có nghĩa vụ thanh toán lại số tiền này cho anh Đặng Hải T.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên
phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo
mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm:
- Ông Đặng Văn B thuộc trường hợp được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ
thẩm và dân sự phúc thẩm theo quy định.
- Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh hoàn
trả cho anh Đặng Hải T tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng
theo biên lai thu số 0013886 ngày 03-10-2023.
6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
n:
- VKSND.TTN;
- TAND huyện Dương Minh Châu;
- Chi cục THADS huyện Dương Minh Châu;
- Phòng KTNV. TATTN;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu VP TAND tỉnh;
- Lưu tập án DSPT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Văn Nam
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 16/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 02/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm