Bản án số 13/2025/DS-ST ngày 28/03/2025 của TAND huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 13/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 13/2025/DS-ST ngày 28/03/2025 của TAND huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Lâm Hà (TAND tỉnh Lâm Đồng)
Số hiệu: 13/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Th và ông Tr
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trịnh Đoàn Hạnh Trang
Các Hội thẩm nhân dân: Ngô Thị Luân
Bà Thạch Thị Lan Nhung
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Phương Thư Tòa án nhân dân
huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.
- Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng tham
gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Vân Anh – Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà,
tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ số 301/2023/TLST-DS
ngày 15 tháng 12 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức” theo
quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2025/QĐXXST-DS ngày 20 tháng 01 năm
2025 và Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2025/QĐST-DS ngày 11 tháng 02 năm
2025 của Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Phạm Thị T, sinh năm 1977
Địa chỉ: Số G đường H, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hoàng Văn C, sinh năm: 1996
Địa chỉ: Số G đường H, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Trọng T1, sinh năm 1987.
Doãn Thị D, sinh năm 1991
Địa chỉ: Thôn S, xã N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN LÂM HÀ
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 13/2025/DS-ST
Ngày 28/02/2025
V/v Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng
đất yêu cầu hủy quyết định
cá biệt của cơ quan, tổ chức.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Trọng T1: Ông Nguyễn
Hoàng P, sinh năm: 1981; Địa chỉ: Số A Y, phường I, thành phố Đ, tỉnh Lâm
Đồng. Theo hợp đồng ủy quyền ngày 25/12/2024
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Vợ chồng ông Đặng Xuân T2 (T3), sinh năm: 1971
Trần Thị Nguyên Q, sinh năm: 1974
Địa chỉ: Thôn S, xã N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng
3.2. Ông Nguyễn Đức Đ, sinh năm: 1981
Địa chỉ: Thôn Q, xã G, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. ĐT: 0985 065 448
3.3. Vợ chồng ông Trần Xuân H, sinh năm: 1985
Nguyễn Thị T4, sinh năm: 1986
Địa chỉ: Thôn Q, xã G, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
3.4. Văn phòng C1
Địa chỉ: Số F, đường H, khu phố Đ, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Ngô Văn T5 Trưởng Văn phòng
C1.
3.5. Văn phòng C1 (nay là Văn phòng C1)
Địa chỉ: Số B, tbản đ36, tổ dân phố Đ, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lâm
Đồng.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Mậu T6 Trưởng Văn
phòng C1
(Tại phiên tòa Phạm Thị T, ông Hoàng Văn C mặt. Ông Nguyễn
Trọng T1, bà Doãn Thị D, ông Nguyễn Hoàng P, ông Đặng Xuân T2, Trần
Thị Nguyên Q, ông Nguyễn Đức Đ, ông Trần Xuân H, Nguyễn Thị T4, ông
Ngô Văn T5, ông Nguyễn Mậu Thanh vắng M).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Tại đơn khởi kiện ghi ngày 14/11/2023 trong quá trình tham gia t
tụng tại Tòa án, nguyên đơnPhạm Thị T và người đại diện theo ủy quyền của
Phạm Thị T trình y: Phạm Thị T quen thân với vợ chồng ông Đặng
Xuân T2, Trần Thị Nguyên Q nên năm 2021 ông T2 Q nhờ T vay
tiền ngân hàng giúp cho ông T2 Q. Bà T thế chấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số CQ456592 do UBND huyện L cấp ngày 17/01/2019 đối với diện
tích đất 240m
2
thửa 288, tờ bản đồ 09 P đvay vốn tại Ngân hàng L, chi
nhánh L1 số tiền 350.000.000đồng, bà T vay xong thì đưa tiền cho ông T2Q,
3
hàng tháng ông T2 Q trả lãi cho Ngân hàng. Đến thời hạn trả nợ thì ông T2,
bà Q không có tiền để trả nên ông T2, bà Q có vay của ông Nguyễn Trọng T1 số
tiền 350.000.000đồng, ông Trung chuyển K vào số tài khoản của ông T2, ông
T2 chuyển khoản trả cho Ngân hàng L để lấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số CQ456592 ra.
Sau đó, T vẫn đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CQ456592
cho ông T2, Q để ông T2, Q đi vay Ngân hàng. Đến tháng 01/2023 ông
T2, Q gọi T về để vay Ngân hàng thì T đến Văn phòng C1 để
hợp đồng, bà T tin tưởng nên không đọc nội dung mà ký. Đến vài tháng sau bà T
mới biết là T ký hợp đồng chuyển nhượng đất cho ông T1, bà D. Bà T có gặp
ông T1 D đtrao đổi nhưng ông T2, Q không hợp tác trả nnên T
không giải quyết được.
vậy, T khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất công chứng số 180, quyển số 01/2023 TP/CC-SCC/HĐGD
ngày 13/01/2023 giữa bà T với ông T1, bà D là vô hiệu; Hủy cập nhật biến động
tại trang IV đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CQ 456592 do
UBND huyện L cấp ngày 17/01/2019 đứng tên ông T1, D. Buộc ông T1, bà
D di dời toàn bộ tài sản của ông trên đất (nếu có) đi nơi khác trả lại
nguyên hiện trạng ban đầu của thửa đất và căn nhà trên đất nói trên cho bà T.
Khi Tòa án đang giải quyết vụ án thì ông T1, D lại chuyển nhượng tài
sản trên cho ông Nguyễn Đức Đ nên bà T khởi kiện bổ sung yêu cầu Tòa án giải
quyết Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 27/02/2024 giữa
ông T1, bà D và ông Đ đối với diện tích đất trên. Hủy cập nhật biến động tại
trang IV giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CQ456592 đối với nội dung cập
nhật sang tên ông Đ. Buộc ông Đ trả lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CQ456592 cho T.
Sau đó ông Đ lại chuyển nhượng đất cho ông Trần Xuân H, bà Nguyễn
Thị T4 nên bà T khởi kiện bổ sung yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 04/4/2024 giữa ông Đ ông H, bà T4 đối với
diện tích đất trên. Hủy cập nhật biến động tại trang IV giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số CQ456592 đối với nội dung cập nhật sang tên ông H, T4.
Buộc ông H, T4 trả lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
CQ456592 cho bà T. Ngoài ra bà T không còn yêu cầu gì khác.
2. Quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Nguyễn Trọng T1 người đại
diện theo ủy quyền của bị đơn ông Nguyễn Trong T7, ông Nguyễn Hoàng P
4
trình bày: Ông Nguyễn Trọng T1, Doãn Thị D quen biết ông Nguyễn Xuân
T8. Khi ông T8 còn m bảo vệ Ngân hàng V thì ông T1 hay đi ra giao dịch với
Ngân hàng, ông T1 gặp ông T8 thì ông T8 trình bày Phạm Thị T người
nhà ông T8 khó khăn nên nhờ ông T1 cho T vay để đáo hạn ngân hàng xong
sẽ trả nên ông T1 chuyển khoản cho ông T8 vay số tiền 350.000.000đồng để
ông T8 chuyển cho T nhưng đến hạn trả nợ ông T8 T không ai chịu trả
nợ cho ông T1. Sau đó, ông T8 T gặp ông T1 để trao đổi lập hợp đồng
chuyển nhượng đất diện tích đất 240m
2
thửa 288, tbản đồ 09 P cho ông T1
nên hai bên lập hợp đồng tại Văn phòng C1 để làm tin. Vài tháng sau hai bên
cũng không trả nợ cho ông T1 nên ông T1 mới làm thủ tục đứng tên ông T1
rao bán đất đông T8, T sợ phải trả tiền cho ông T1 nhưng ông cũng
không trả. vậy, ông T1 thay khóa cửa chuyển đđạc của bà T đến
bàn giao cho ông T8.
Khi Tòa án đang giải quyết, do các bên không thỏa thuận được với nhau
nên ông Trung chuyển N tài sản trên cho ông Nguyễn Đức Đ với g
350.000.000đồng, hai bên đã hoàn tất thủ tục chuyển nhượng nhưng chưa bàn
giao nhà đất trên thực tế. Đến ngày 04/4/2024 ông Nguyễn Đức Đ chuyển
nhượng đất cho ông Trần Xuân H, Nguyễn Thị T4, hai bên đã hoàn tất thủ
tục chuyển nhượng nhưng chưa bàn giao nhà đất trên thực tế.
Nay các bên đã thỏa thuận được với nhau nên phía bđơn đồng ý để Tòa
án hủy 03 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên. Đồng ý hủy
cập nhật biến động tại trang IV giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
CQ456592. Đồng thời, bị đơn không yêu cầu giải quyết hậu qucủa hợp
đồng khi Tòa án tuyên hủy 03 hợp đồng nêu trên. Ngoài ra bị đơn không còn
yêu cầu gì khác trong vụ án này.
3. Bi đơn Doãn Thị D trình bày: Theo các yêu cầu khởi kiện của bà T
thì nay vợ chồng D, ông Đ cùng với T đã thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án nên D đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của T, đề nghị
Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà T.
4. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đặng Xuân T2 (Thuần),
Trần Thị Nguyên Q: Đã được tòa án thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng, đã
được Tòa án triệu tập đến Tòa án làm việc nhưng ông Đặng Xuân T2, Trần
Thị Nguyên Q đều vắng mặt không văn bản trình bày ý kiến gửi đến Tòa
án.
5. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đức Đ trình
bày: Ngày 27/02/2024 ông Đ có thỏa thuận nhận chuyển nhượng của ông T1, bà
5
D diện tích đất 240m
2
thửa 288, tờ bản đồ 09 P theo giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số CQ456592, giá thỏa thuận ghi tại hợp đồng là 350.000.000đồng,
việc thỏa thuận là tự nguyện và đã hoàn tất thủ tục chuyển nhượng theo quy định
nhưng ông Đ chưa nhận đất T vẫn sử dụng. Sau khi nhận chuyển nhượng
của ông T1, D tông Đ làm thủ tục chuyển nhượng thửa đất trên cho ông
Trần Xuân H, Nguyễn Thị T4. Sau đó thì ông Đ mới biết T và ông T1,
D đang khởi kiện tại Tòa án. Nay giữa ông Đ ông T1, bà D, T ông H,
T4 đã thỏa thuận được với nhau, các bên thống nhất hủy các hợp đồng
chuyển nhượng đất nêu trên để trả lại đất cho T thì ông Đ đồng ý, ông Đ
không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng khi Tòa án tuyên hủy
hợp đồng. Ngoài ra, ông Đ không còn yêu cầu gì khác trong vụ án này.
6. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Trần Xuân H, bà Nguyễn
Thị T4 trình bày: Ngày 04/4/2024 vợ chồng ông H, T4 thỏa thuận nhận
chuyển nhượng của ông Nguyễn Đức Đ diện tích đất 240m
2
thửa 288, tờ bản đồ
09 P theo giấy chứng nhận quyền sdụng đất số CQ 456592, với giá chuyển
nhượng 350.000.000đồng, việc chuyển nhượng đã hoàn tất thủ tục chuyển
nhượng đứng tên vợ chồng ông H, T4 nhưng thực tế đất này T vẫn đang
quản lý sử dụng. Ông H, bà T4 chưa nhận nhà đất T ông T1, bà D đang
tranh chấp. Nay ông H, T4 đồng ý hủy hợp đồng chuyển nhượng nêu trên
theo yêu cầu khởi kiện của bà T ông H, bà T4 không yêu cầu giải quyết hậu
quả của hợp đồng khi Tòa án hủy hợp đồng chuyển nhượng do các bên đã tự
thỏa thuận giải quyết với nhau. Bản gốc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông
H, bà T4 đồng ý trả lại cho T. Ngoài ra ông H, T4 không còn yêu cầu
khác.
7. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Văn phòng công chứng Ngô
Văn T5 do người đại diện theo pháp luật ông Ngô Văn T5 trình bày: Ngày
13/01/2023 T cùng với ông T1, D đến Văn phòng C1 yêu cầu công chứng
hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất. Hai bên đã xuất trình những Giấy
tờ liên quan đến hồ chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Sau khi kiểm tra
các giấy tờ liên quan đầy đủ, hợp lệ đủ các điều kiện hiệu lực của
giao dịch dân sự tại Điều 117 Bộ luật dân sự 2015, Điều 41, 42 Luật công chứng
2014. Ngoài ra, đã kiểm tra các điều kiện khác, các bên giao kết năng lực
hành vi dân sđầy đủ, các bên tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện, mục
đích nội dung của hợp đồng không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức
hội nên Văn phòng soạn thảo hợp đồng, T ông T1, bà D đọc lại toàn bộ
nội dung dự thảo hợp đồng chuyển nhượng. Sau khi đã đọc đồng ý toàn bộ
nội dung trong hợp đồng, các bên không thêm ý kiến khác nên đã đồng ý
6
điểm chỉ vào hợp đồng chuyển nhượng nói trên phát nh hợp đồng
theo đúng quy trình của luật công chứng. Nay T yêu cầu tuyên hiệu đối
với Hợp đồng chuyển nhượng ngày 13/01/2023 giữa T vợ chồng ông T1,
D thì văn phòng công chứng yêu cầu Tòa án xử theo quy định của pháp
luật.
8. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng C1 (nay Văn
phòng C1) do người đại diện theo pháp luật ông Nguyễn Mậu T6 trình bày:
Ngày 27/02/2024 Văn phòng C1 nhận được yêu cầu công chứng của ông T1
D ông Đ, đối với quyền sử dụng đất số CQ 456592 diện tích 240m
2
,
thửa đất số 288, tờ bản đồ số 9 P, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Sau khi kiểm tra
sở dữ liệu công chứng tỉnh Lâm Đồng Công chứng viên xác định quyền sử
dụng đất này đủ điều kiện để thực hiện quyền chuyển nhượng theo quy định của
Điều 188 Luật Đất Đai năm 2013. Công chứng viên kiểm tra giấy tờ của các bên
cung cấp trong hồ sơ yêu cầu công chứng nhận thấy đã đầy đủ, phù hợp với quy
định tại Điều 40, Điều 41 Luật Công chứng năm 2014 nên đã thụ lý và soạn thảo
hợp đồng chuyển nhượng, sau đó cho các bên tđọc hợp đồng chuyển nhượng,
hai bên đồng ý tiến hành ký hợp đồng và tiến hành chứng nhận hợp đồng chuyển
nhượng số 435 quyển số 02/2024 ngày 27 tháng 02 năm 2024 hoàn toàn đúng
theo quy định của pháp luật. vậy, Văn phòng C1 yêu cầu tòa án giải quyết
theo đúng quy định của pháp luật.
Quá trình giải quyết ván, Tòa án đã tiến hành mở phiên họp tiếp cận,
công khai chứng cứ hòa giải nhưng các bên không thỏa thuận được với nhau
về việc giải quyết vụ án nên Tòa án triển khai đưa vụ án ra xét xử.
Tại phiên tòa, phía nguyên đơn vẫn giữ nguyên ý kiến của mình như trên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm tham gia phiên tòa phát
biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét
xử, cụ thể: Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng Dân
sự trong quá trình thụ giải quyết vụ án. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng
xét xử đã tuân thủ đúng trình tự phiên tòa thẩm theo quy định của Bộ luật tố
tụng Dân sự; các đương sự có mặt tại phiên tòa đã chấp hành đúng nội quy phiên
tòa theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét
xử:
Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của T vviệc buộc ông T1, D di dời
toàn bộ tài sản của ông bà trên đất đi nơi khác, trả lại nguyên hiện trạng ban đầu
của thửa đất 288 căn nhà trên đất cho T; Đình chỉ yêu cầu trả lại bản gốc
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CQ 456592.
7
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của T v việc tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với ông T1, D. Tuyên bố hiệu hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 13/01/2023 giữa T ông T1,
bà D đối với diện tích đất 240m
2
thửa 288, tờ bản đồ 09 xã P.
Tuyên bố hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
27/02/2024 giữa ông T1, bà D và ông Đ đối với diện tích đất trên.
Tuyên bố hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
04/4/2024 giữa ông Đ và ông H, bà T4 đối với diện tích đất trên;
Phạm Thị T được quyền liên hệ với quan nhà nước thẩm quyền
để điều chỉnh biến động Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tài sản trên đất
theo quy định của pháp luật.
Về chi phí tố tụng: Phạm Thị T tự nguyện nhận chịu số tiền
10.885.000đồng nên cần ghi nhận
Về án phí: Buộc bị đơn phải chịu án phí dân sự thẩm do Tòa án hủy
các hợp đồng chuyển nhượng theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Qua các chứng cứ, tài liệu được thhiện trong hồ kết quả thẩm tra
tại phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh luận của đương stại phiên tòa, Hội
đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, T ông C mặt. Ông T1,
D, ông P, ông Đ, ông H, T4, ông T5, ông T6 vắng mặt nhưng có đơn yêu cầu
giải quyết vắng mặt.
Ông T2, Q vắng mặt mặc đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai.
vậy, căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự, Tòa án vẫn
xét xử vắng mặt các đương sự nêu trên là phù hợp.
[2]. Về quan htranh chấp: Phạm Thị T cho rằng không việc
chuyển nhượng diện tích đất 240m
2
thửa 288, tờ bản đ09 P cho ông T1,
D nên bà T khởi kiện yêu cầu tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ngày 13/01/2023 giữa T với ông T1, D hiệu. Đồng thời, T khởi
kiện yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 27/02/2024
giữa ông T1, D và ông Nguyễn Đức Đ; Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ngày 04/4/2024 giữa ông Đ ông Trần Xuân H, Nguyễn Thị
T4; Yêu cầu hủy cập nhật biến động tại trang IV giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CQ456592 đối với nội dung cập nhật sang tên nêu trên. vậy, căn
cứ khoản 3 Điều 26, Điều 34 Bộ luật tố tụng Dân sự; Điều 116, Điều 500 Bộ
8
luật Dân sự xác định đây vụ án dân sự về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sdụng đất yêu cầu hủy quyết định biệt của quan, tổ
chức”. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà,
tỉnh Lâm Đồng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39 Bộ luật tố tụng Dân sự.
[3]. Đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất công chứng số
180, quyển số 01/2023 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 13/01/2023 giữa Phạm Thị
T với ông Nguyễn Trọng T1, bà Doãn Thị D thì:
Theo các tài liệu chứng cứ trong hồ vụ án lời thừa nhận của các
bên đương sự thì ngày 13/01/2023 T hợp đồng chuyển nhượng diện
tích đất 240m
2
thửa 288, tờ bản đồ 09 P theo giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số CQ 456592 cho ông T1, D, giá chuyển nhượng 350.000.000đồng, hợp
đồng chuyển nhượng được công chứng hợp pháp nên xét về mặt hình thức thì
hợp đồng chuyển nhượng thực hiện đúng theo quy định.
Bà T cho rằng khi ký hợp đồng, ý chí của T là ký hợp đồng để cho ông
T2, Q thế chấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất để vay vốn Ngân hàng
chứ không phải chuyển nhượng, nhưng bà T không chứng cứ chứng minh
T là người có năng lực trách nhiệm dân sự nên bà T cho rằng T không biết
T vào hợp đồng chuyển nhượng không đúng. Phía ông T2, Q không
hợp tác nên Tòa án không đối chất làm được bản chất sự việc. Quá trình giải
quyết vụ án ông T1 khai T biết tự nguyện ký vào hợp đồng chuyển
nhượng nhưng bản chất không có việc chuyển nhượng thửa đất trên giữa bà T và
ông T1 D việc lập hợp đồng chuyển nhượng chỉ để làm tin, cam kết cho
khoản vay 350.000.000đồng ông T1 cho ông T2 vay, ông T1 cũng không giao
tiền cho T (BL33). Đồng thời, ông T1 nộp bản phô giấy vay tiền giữa
ông T1 T2 đối với số tiền 350.000.000đồng (BL29), tại biên bản đối chất
ngày 19/01/2024 (BL47-48) một lần nữa ông T1 khẳng định bản chất không
việc chuyển nhượngviệc lập hợp đồng chuyển nhượng để làm tin cho khoản
vay trên. Ngoài ra, giá chuyển nhượng ghi trong hợp đồng chuyển nhượng cũng
không phù hợp với giá trị đất thực tế tại thời điểm chuyển nhượng, toàn bộ tài
sản T đang quản sử dụng, các đương sự đều thừa nhận chưa bàn giao đất
trên thực tế. Nay ông T1, bà D cũng đồng ý tuyên bố hợp đồng trên vô hiệu
(BL347, 353-356). Như vậy, căn cứ khẳng định Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 13/01/2023 giữa bà T với ông T1, D hợp đồng giả
tạo nhằm đảm bảo cho việc ông T1 cho ông T2 vay tiền nên hợp đồng giả tạo vô
9
hiệu. vậy, căn cứ Điều 124 Bộ luật Dân sự tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 13/01/2023 vô hiệu.
[4]. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất công chứng số
435, quyển số 02/2024/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 27/02/2024 tại Văn phòng C1
giữa ông Nguyễn Trọng T1, bà Doãn Thị D ông Nguyễn Đức Đ đối với diện
tích đất 240m
2
thửa 288, tờ bản đồ 09 xã P thì thấy rằng:
Tòa án thụ vụ án số 301/2023/TLST-DS ngày 15/12/2023 (BL 21),
ngày 11/01/2024 ông T1 đã bản tự khai thừa nhận không việc chuyển
nhượng đất giữa bà T và ông T1 (BL33). Ông T1 cam kết giữ nguyên hiện trạng,
cam kết không chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp để chờ Tòa án giải quyết (BL
32). Tuy nhiên, đến ngày 27/02/2024 ông T1, D lại lập hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất trên cho ông Đ. Như vậy, hợp đồng chuyển nhượng
giữa ông T1, D ông Đ được thực hiện sau khi Tòa án đang thụ giải
quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng thửa đất 288 giữa T và ông T1,
D vi phạm điểm b khoản 1 Điều 188, khoản 1 Điều 191 Luật Đất đai năm
2013.
Đến ngày 20/01/2025 bà T, ông T1, bà D ông Đ thừa nhận đã tự thỏa
thuận giải quyết được với nhau nên thống nhất theo yêu cầu khởi kiện của T.
Từ những nhận định phân tích nêu trên cần tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 27/02/2024 giữa ông T1, bà D và ông Đ là vô hiệu do vi
phạm điều cấm của luật.
[5]. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất công chứng số
877, quyển 04/2024/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 04/4/2024 tại Văn phòng C1 giữa
bên chuyển nhượng ông Nguyễn Đức Đ bên nhận chuyển nhượng ông Trần
Xuân H, Nguyễn Thị T4 đối với diện tích đất 240m
2
thửa 288, tờ bản đồ 09
xã P thì thấy rằng:
Như đã nhận định phân tích nêu trên, hợp đồng chuyển nhượng ngày
27/02/2024 giữa ông T1, D ông Đ hiệu nên ngày 04/4/2024 ông Đ lại
lập hợp đồng chuyển nhượng thửa 288 cho ông Trần Xuân H, bà Nguyễn Thị T4
không đúng quy định của pháp luật. Ngày 20/01/2025 ông H, T4 cũng đã
đơn trình bày đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của T (BL340). vậy, chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của T tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền s
dụng đất ngày 04/4/2024 giữa ông Đ và ông H, bà T4 là vô hiệu do vi phạm điều
cấm của luật.
10
[6]. Đối với việc giải quyết hậu quả khi tuyên bố hiệu đối với Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 13/01/2023 giữa T ông T1,
D; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 27/02/2024 giữa ông
T1, D ông Đ; Hợp đồng chuyển nhượng quyền s dụng đất ngày
04/4/2024 giữa ông Đ và ông H, bà T4 thì:
Tại phiên tòa, T xác định để giải quyết việc của T thì T đã tự
thỏa thuận giải quyết với ông T1, ông Đ, ông H, T4 cụ thể, trong stiền
350.000.000đồng ông T2, Q vay của ông T1 thì T đã thanh toán cho ông
T1 100.000.000đồng để các bên hủy các hợp đồng chuyển nhượng nêu trên. Ông
H, bà T4 đã trả lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho T, hiện
nay các bên không tranh chấp nên T không yêu cầu Tòa án giải quyết về hậu
quả khi Tòa án tuyên hiệu 03 hợp đồng nêu trên. Việc giữa T ông T2,
Q thì T cũng sẽ tự thỏa thuận giải quyết với ông T2, Q sau nên T
không yêu cẩu Tòa án giải quyết. vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra để xem
xét giải quyết.
Phía ông T1, D, ông Đ, ông H, T4 cũng trình bày đã tự thỏa thuận
giải quyết xong với T nên ông T1, D, ông Đ, ông H, T4 đồng ý theo
yêu cầu khởi kiện của T, các ông bà không yêu cầu giải quyết hậu quả
pháp của giao dịch dân sự hiệu (BL340, 343, 347, 353-356). Đây sự tự
nguyện định đoạt của các bên đương sự, không trái với đạo đức xã hội, không
trái với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải
quyết đối với hậu quả của hợp đồng vô hiệu.
[8] Đối với yêu cầu khởi kiện của T buộc ông T1, D di dời toàn bộ
tài sản của ông trên đất đi nơi khác, trả lại nguyên hiện trạng ban đầu của
thửa đất 288 và căn nhà trên đất cho T yêu cầu trả lại bản gốc giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số CQ 456592 thì T xác định lâu nay T đã sử
dụng nhà đất nêu trên T xác định ông H, bà T4 đã trả lại bản gốc giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CQ 456592 cho bà T nên bà T xin rút 02 yêu
cầu khởi kiện này (BL365). vậy, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố
tụng Dân sự cần đình chỉ yêu cầu khởi kiện nêu trên của bà T là phù hợp.
[9]. Đối với yêu cầu hủy đăng biến động tại trang IV của giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số CQ 456592 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh L
cấp ngày 17/01/2019 thì thấy rằng: Do tuyên bố hiệu đối với Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 13/01/2023 giữa T ông T1, D;
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 27/02/2024 giữa ông T1,
D ông Đ; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 04/4/2024 giữa
11
ông Đ và ông H, T4 nên lẽ ra phải hủy các phần đã đăng biện động sang
tên cho ông T1, D; ông Đ, ông H, T4 tại trang IV của giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số CQ 456592. Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại Công văn
64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao thì không cần
tuyên hủy phần điều chỉnh trang IV của giấy chứng nhận quyền sdụng đất số
CQ 456592 Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện L căn cứ vào Bản
án của Tòa án để giải quyết, điều chỉnh lại đăng biến động đã đăng cho
ông T1, D ngày 12/4/2023; đã đăng biến động sang tên ông Đ vào ngày
11/3/2024 và đã đăng ký biến động sang tên cho ông H, T4 vào ngày
15/5/2024.
[10]. Về chi phí tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án T yêu cầu xem
xét thẩm định tại chỗ, đo đạc, định giá tài sản tranh chấp nên bà T nộp chi phí tố
tụng 10.885.000đồng, tại phiên tòa phía nguyên đơn tự nguyện nhận chịu,
không yêu cầu giải quyết nên cần ghi nhận.
[11]. Về án phí: Do chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên
buộc bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm do tuyên bố hiệu 03 Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, Điều 34, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản
1 Điều 39, Điều 147, Điều 157, Điều 165, Điều 217, Điều 227, Điều 228, Điều
235 và Điều 266 Bộ luật tố tụng Dân sự;
Căn cứ Điều 116, Điều 117, Điều 122, Điều 123, Điều 124, Điều 131,
Điều 500, Điều 501, Điều 502, Điều 503 Bộ luật Dân sự;
Căn cứ Điều 166, Điều 188, Điều 191 Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ Điều 12, Điều 26, Điều 27 Ngh quyết 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Phạm Thị T về việc
tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Tuyên bố hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất công
chứng số 180, quyển số 01/2023 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 13/01/2023 được
công chứng tại Văn phòng C1 giữa bên chuyển nhượng Phạm Thị T bên
nhận chuyển nhượng ông Nguyễn Trọng T1, bà Doãn Thị D đối với diện tích đất
12
240m
2
thửa 288, tờ bản đồ 09 xã P.
Tuyên bố hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất công
chứng số 435, quyển số 02/2024/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 27/02/2024 tại Văn
phòng C1 giữa bên chuyển nhượng vợ chồng ông Nguyễn Trọng T1, Doãn
Thị D bên nhận chuyển nhượng ông Nguyễn Đức Đ đối với diện tích đất
240m
2
thửa 288, tờ bản đồ 09 xã P.
Tuyên bố hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền s dụng đất công
chứng số 877, quyển 04/2024/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 04/4/2024 tại Văn
phòng C1 giữa bên chuyển nhượng ông Nguyễn Đức Đ bên nhận chuyển
nhượng ông Trần Xuân H, bà Nguyễn Thị T4 đối với diện tích đất 240m
2
thửa
288, tờ bản đồ 09 xã P.
Phạm Thị T được quyền liên hệ với quan nhà nước thẩm quyền
để đăng điều chỉnh biến động sang tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và tài sản trên đất theo quy định của pháp luật.
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của Phạm Thị T về việc buộc ông
Nguyễn Trọng T1, Doãn Thị D di dời toàn bộ tài sản của ông trên đất đi
nơi khác, trả lại nguyên hiện trạng ban đầu của thửa đất 288 căn nhà trên đất
cho Phạm Thị T; Đình chỉ yêu cầu trả lại bản gốc giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CQ 456592.
3. Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện L căn cứ vào Bản án của
Tòa án để giải quyết xóa điều chỉnh các đăng biến động (phần đăng biến
động sang tên ông Nguyễn Trọng T1, Doãn Thị D ngày 12/4/2023; phần
đăng ký biến động sang tên cho ông Nguyễn Đức Đ vào ngày 11/3/2024 và phần
đăng biến động sang tên cho ông Trần Xuân H, Nguyễn Thị T4 vào ngày
15/5/2024) đã đăng ký tại trang IV giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CQ
456592 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp ngày 17/01/2019.
4. Về chi phí tố tụng: Bà Phạm Thị T tự nguyện nhận chịu số tiền
10.885.000đồng (Mười triệu, tám trăm tám mươi lăm ngàn đồng) và đã được
quyết toán xong.
5. Về án phí: Hoàn trả cho Phạm Thị T 300.000đồng (Ba trăm ngàn
đồng) tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí
Tòa án số 0004354 ngày 15/12/2023; 600.000đồng (Sáu trăm ngàn đồng) tạm
ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
0004623 ngày 10/4/2024; 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí dân
sự thẩm theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004714 ngày
13
21/5/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.
Buộc ông Nguyễn Trọng T1, bà Doãn Thị D phải chịu 900.000đồng (Chín
trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều
6,7,7a,7b 9 Luật thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện
theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án Dân sự”.
Trong thời hạn 15 ngày kể tngày tuyên án (28/02/2025), các đương sự
có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo. Riêng các đương sự vắng mặt tại phiên
tòa quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án
hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm
Đồng xét xử phúc thẩm.
Nơi nhận: T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Lâm Đồng (02); THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND huyện Lâm Hà; (Đã ký)
- Chi cục THADS huyện Lâm Hà;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, BP.
Trịnh Đoàn Hạnh Trang
Tải về
Bản án số 13/2025/DS-ST Bản án số 13/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 13/2025/DS-ST Bản án số 13/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất