Bản án số 142/2025/DS-PT ngày 28/02/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 142/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 142/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 142/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 142/2025/DS-PT ngày 28/02/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Tiền Giang |
Số hiệu: | 142/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ngày 02/10/2024, bị đơn Nguyễn Thị M có đơn kháng cáo với nội dung |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TIỀN GIANG
Bản án số: 142/2025/DS-PT
Ngày: 28 - 02 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng chuyển
đổi quyền sử dụng đất và hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trương Thị Tuyết Linh
Các Thẩm phán: Ông Trần Văn Đạt
Bà Nguyễn Ái Đoan
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thúy Phương - Thư ký Tòa án nhân
dân tỉnh Tiền Giang.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang
tham gia phiên tòa:
Ông Võ Trung Hiếu- Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 02 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 22/2025/TLPT-DS ngày 14 tháng 01
năm 2025 về tranh chấp “Hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất và hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 193/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 43/2025/QĐ-PT ngày
20 tháng 01 năm 2025 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1961 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp L, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Mỹ H, sinh năm 1979. Địa chỉ: A
L, phường F, thành phố M, tỉnh Tiền Giang (Có mặt).
(Theo văn bản ủy quyền ngày 18/8/2022).
Bị đơn: Cụ Nguyễn Thị M, sinh năm 1939 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp L, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1967 (Có mặt).
Địa chỉ: Ấp L, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
2
(Theo văn bản ủy quyền ngày 28/11/2023).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cụ M: Luật sư Nguyễn Thanh
T, Văn phòng luật sư Cao Minh T1 - Thuộc đoàn luật sư tỉnh T (Có mặt).
Người có quyền lợi nghĩa, vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1967 (Có mặt).
Địa chỉ: Ấp L, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
2. Bà Lê Thị Hồng T2, sinh năm 1961 (Xin vắng mặt);
Địa chỉ: Ấp Long Thuận B, xã Long Hưng, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền
Giang
3. Ủy Ban nhân dân xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang (Xin vắng mặt).
Trụ sở: Ấp L, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang
Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn C - Chức vụ: Chủ tịch
- Người kháng cáo: Bị đơn cụ Nguyễn Thị M.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo án sơ thẩm, nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Đ và đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Mỹ H trình bày:
Ông Nguyễn Văn Đ là chủ sử dụng diện tích đất 5.630m
2
gồm hai thửa
đất, thửa 1884 diện tích 3.230m
2
loại đất TQ và thửa 1889 diện tích 2.400m
2
loại
đất lúa, cùng tờ bản đồ 03, toạ lạc tại ấp L, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang theo
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 26/12/1997.
Cụ Nguyễn Thị M (là mẹ ruột của ông Đ) là chủ sử dụng tổng diện tích
đất 4.220m
2
gồm hai thửa đất: thửa 1885 diện tích 2.180m
2
loại đất Q và thửa
1887 diện tích 2.040m
2
loại đất Q cùng tờ bản đồ số 3, toạ lạc tại ấp L, xã L,
huyện C, tỉnh Tiền Giang, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày
24/05/1997.
Thửa đất 1884 của ông Đ có tiếp giáp với đường đi, thửa 1885 của cụ M
nằm phía sau thửa 1884 và không có lối đi vào. Vì vậy vào năm 1997 ông Đ và
cụ M có chuyển đổi cho nhau một phần của diện tích đất thửa 1884 và một phần
của diện tích đất thửa 1885, mục đích để cho cụ M có đất tiếp giáp đường đi
công cộng thuận tiện cho việc đi lại. Do là mẹ con ruột với nhau, nên hai bên
thoả thuận miệng không có làm hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất theo
qui định pháp luật. Và từ năm 1997 hai bên trực tiếp canh tác trồng trọt cây trái
trên phần đất chuyển đổi cho đến nay.
Vào năm 2020 Ủy ban nhân dân huyện C ban hành Quyết định số 3216 và
quyết định 3217 ngày 18 tháng 6 năm 2020 về việc thu hồi đất để thực hiện công
trình hạ tầng phát triển và bảo vệ vùng cây ăn trái Thuộc Nhiêu - M; hạng mục
3
Đê bờ tây kênh Nguyễn Tấn T3 và các cống dưới đê. Theo Quyết định số 3216
ông Nguyễn Văn Đ bị thu hồi diện tích đất 615,2m
2
(một phần của thửa 1884 là
119,9m
2
và một phần của thửa 1885 là 495,3m
2
theo
phiếu xác nhận kết quả đo
đạc năm 2019) thuộc bản đồ địa chính số 3 tại xã L với số tiền được bồi thường
là 534.363.200 đồng; Tại Quyết định số 3217 cụ Nguyễn Thị M bị thu hồi diện
tích đất 1.165,5m
2
(thuộc một phần của thửa 1884 diện tích 922,0m
2
và một phần
của thửa 1885 diện tích 598,2m
2
theo
phiếu xác nhận kết quả đo đạc năm 2019)
thuộc bản đồ địa chính số 3 tại xã L, tổng số tiền bà M đã nhận bồi thường là
1.160.225.500 đồng.
Để hợp thức hoá nhận tiền bồi thường đất, ông Đ và cụ M phải làm hợp
đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình và cá nhân
được lập tại Ủy ban nhân dân xã L vào ngày 20/5/2020, tại Điều 1 của hợp đồng
bà M chuyển đổi cho ông Đ diện tích đất 615,1m
2
(nhưng thực tế chỉ có chuyển
đổi 495,3m
2
thuộc thửa 1885, diện tích còn lại 119,9m
2
thuộc thửa 1884) và ông
Đ chuyển đổi diện tích 922m
2
thuộc thửa 1884 cho cụ M. Từ khi chuyển đổi đất
vào năm 1997, ông Nguyễn Văn Đ và cụ Nguyễn Thị M đã sử dụng đất và canh
tác theo ranh giới do hai bên tự xác định chứ không biết thực tế sử dụng với diện
tích cụ thể là bao nhiêu. Khi thu hồi đất để làm dự án và có đền bù Nhà nước
tiến hành đo đạc theo phiếu xác nhận kết quả đo đạc năm 2019 thì phần ông Đ
sử dụng canh tác với tổng diện tích là 3.567,2m
2
trong đó phần đất bị Nhà nước
thu hồi là 615,1m
2
(gồm thửa 1884 là 119,9m
2
và thửa 1885 là 495,3m
2
) và phần
diện tích đất còn lại là 2.952,1m
2
(thửa 1884 diện tích 1966,8m
2
và thửa 1885 là
985,2m
2
); Đối với phần đất của cụ M sau khi chuyển đổi từ năm 1997 sử dụng
canh tác với tổng diện tích đất là 2.134,8m
2
, trong đó phần diện tích đất bị thu
hồi là 1.165,5m
2
(gồm thửa 1884 diện tích 922,0m
2
và thửa 1885 diện tích
598,2m
2
) và phần diện tích đất còn lại là 969,3m
2
(trong đó thửa 1884 có hai
diện tích là 89,2m
2
và 281,9m
2
, thửa 1885 là 589,2m
2
).
Sau khi nhận tiền đền bù xong, ông Đ có nhiều lần đến gặp cụ M yêu cầu
đưa giấy tờ đất để ông đi làm thủ thục chuyển đổi quyền sử dụng đất đối với hai
diện tích đất là 89,2m
2
và 281,9m
2
thuộc thửa 1884 cho cụ M đứng tên và diện
tích đất 985,2m
2
thuộc thửa 1885 để ông đứng tên, nhưng chị H1 ở chung với cụ
M không đồng ý và kéo dài đến nay.
Ngày 10/07/2023 ông Đ nộp đơn khởi kiện yêu cầu Toà án công nhận hợp
đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Văn Đ với cụ Nguyễn Thị
M được thoả thuận bằng miệng vào năm 1997 đối với diện tích đất 985,2m
2
thuộc thửa 1885 và hai diện tích đất là 89,2m
2
và 281,9m
2
thuộc thửa 1884, cùng
loại đất Q, thuộc tờ bản đồ số 03, cùng toạ lạc tại ấp L, xã L, huyện C, tỉnh Tiền
Giang có hiệu lực pháp luật. Và công nhận diện tích đất 985,2m
2
thuộc thửa
1885 là thuộc quyền sử dụng đất của ông Đ. Theo phiếu xác nhận kết quả đo đạc
năm 2019
4
Toà án đã tiến hành đo đạc, ông Đ thống nhất kết quả đo đạc hiện trạng
thửa đất ngày 13/03/2024 như sau:
+ Thửa 1884 có diện tích còn lại 300m
2
đất thổ cư và 1.888,1m
2
đất trồng
cây lâu năm, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 26/12/1997 do
ông Nguyễn Văn Đ đứng tên được cập nhật tại trang 4. Qua đo đạc thực tế có
tổng diện tích 2.161,6m
2
trong đó ông Đ đang quản lý sử dụng là 1.836,8m
2
(S1)
và phần diện tích đất của cụ M hiện nay bà Nguyễn Thị H1 đang canh tác quản
lý sử dụng là 108,3m
2
(S2) và 216,5m
2
(S3);
+ Thửa 1885 có diện tích còn lại 1.441,2m
2
theo giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cấp ngày 24/5/1997 do cụ Nguyễn Thị M đứng tên được cập nhật tại
trang 4. Qua đo đạc thực tế có tổng diện tích 1.722,2m
2
, trong đó phần diện tích
đất của cụ M hiện bà Nguyễn Thị H1 canh tác là 630,4m
2
(S4) và ông Đ đang
quản lý canh tác là 1.091,8m
2
(S5).
Tổng diện tích đất thực tế ông Đ đang quản lý canh tác là 2.928,6m
2
trong
đó thửa 1884 là 1.836,8m
2
(S1) và thửa 1885 là 1.091,8m
2
(S5); Tổng diện tích
đất của cụ Nguyễn Thị M là 995,2m
2
trong đó thửa 1884 có diện tích 108,3m
2
(S2) và diện tích 216,5m
2
(S3), thửa 1885 diện tích 630,4m
2
(S4).
Đối với biên thẩm định và định giá tài sản trên đất ngày 28/03/2024 ông Đ
thống nhất.
Tại phiên tòa sơ thẩm, chị H đại diện theo ủy quyền của ông Đ yêu cầu
Toà án công nhận hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất giữa ông Đ và cụ M
được thỏa thuận miệng vào năm 1997 đối với diện tích 1.091,8m
2
(S5) thuộc
một phần của thửa 1885 và diện tích 108,3m
2
(S2), diện tích 216,5m
2
(S3) thuộc
một phần thửa 1884.
Quá trình giải quyết vụ án bà Nguyễn Thị Hoàng cung C1 hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất giữa cụ Nguyễn Thị M với bà Nguyễn Thị H1 được lập
vào ngày 25/11/2021 có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã L đối với toàn bộ
diện tích đất còn lại của thửa 1885 là 1.441,2m
2
theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cấp cho cụ Nguyễn Thị M ngày 24/5/1997 được cập nhật trang 4. Việc
tặng cho đất trên ông Đ hoàn toàn không biết. Qua đo đạc thực tế thửa 1885 có
tổng diện tích 1.722,2m
2
, trong đó bà H1 đang quản lý canh tác là 630,4m
2
(S4)
và ông Đ đang quản lý canh tác là 1.091,8m
2
(S5). Ngày 22/05/2024 ông Đ có
đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu Toà án huỷ một phần hợp đồng tặng cho quyền
sử dụng đất nêu trên, cụ thể là hủy đối với diện tích đất 1.091,8m
2
(S5).
Đối với yêu cầu phản tố của mẹ là cụ Nguyễn Thị M, buộc ông Đ trả lại
diện tích đất 1.091,8m
2
(S5) thuộc thửa 1885, ông Đ1 không đồng ý. Bởi vì
phần diện tích đất này ông Đ đã nhận chuyển đổi từ năm 1997 và đã canh tác
liên tục từ đó cho đến nay đã hơn 14 năm.
Trường hợp yêu cầu của ông Đ được chấp nhận thì ông Đ không yêu cầu
tòa án giải quyết đối với tài sản trên các phần đất tranh chấp.
5
Nếu yêu cầu phản tố của cụ Nguyễn Thị M được Tòa án chấp nhận, thì
ông Đ yêu cầu cụ M và bà Hoàng liên Đ2 bồi thường các khoản như sau:
1. Giá trị cây trồng trên đất và giá trị bức tường rào là 169.211.000 đồng
theo biên bản định giá ngày 28/3/2024; tiền bơm cát sang lấp mặt bằng 1.000m
3
cát là 220.000.000 đồng, hai đường ống nước qua đê để lấy nước tưới cây có
chiều dài 23m là 9.278.000 đồng, công đào đặt ống là 10.000.000 đồng; Tiền
công sức giữ gìn tôn tạo phần đất mới có giá trị như hiện nay là 1.000.000.000
đồng.
2. Buộc cụ M giao lại diện tích đất hoán đổi còn lại của thửa 1884 cho
ông Đ được ký hiệu S2 là 108,3m
2
và S3 là 216,5m
2
và số tiền bồi thường đối
với diện tích đất 922m
2
cụ M và bà H1 đã nhận là 725.614.000 đồng (gồm bồi
thường hỗ trợ đất trồng cây lâu năm 722.000đồng /m
2
x 922m
2
+ tiền hỗ trợ
chuyển đổi nghề 65.000đ/m
2
x 922m
2
). Đồng thời ông Đ đồng ý trả lại cho cụ M
số tiền bồi thường đối với phần quyền sử dụng đất của thửa 1885 ông Đ đã nhận
là 357.606.600 đồng (trong đó bồi thường hỗ trợ đất trồng cây lâu năm là
722.000 đồng/m
2
x 495,3m
2
), yêu cầu cấn trừ vào số tiền trên, cụ M phải hoàn
lại cho ông Đ là 368.007.400 đồng (725.614.000 đồng - 357.606.600 đồng).
Yêu cầu cụ Nguyễn Thị M và bà Nguyễn Thị H1 phải liên đới bồi thường
cho ông Đ với tổng số tiền là 1.776.496.400 đồng (trong đó số tiền bồi thường
trên diện tích S5 là 1.408.489.000 đồng và tiền do Nhà nước thu hồi đất có bồi
thường là 368.007.400 đồng).
Bị đơn cụ Nguyễn Thị M và đại diện theo ủy quyền của bị đơn là chị
Nguyễn Thị H1 trình bày:
Cụ Nguyễn Thị M (là mẹ ruột của ông Đ) đứng tên quyền sử dụng đất
diện tích 4.220m
2
gồm hai thửa đất: thửa 1885 diện tích 2.180m
2
loại đất Q và
thửa 1887 diện tích 2.040m
2
loại đất Q, cùng tờ bản đồ số 3, toạ lạc tại ấp L, xã
L, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Để đi từ đường công cộng đến thửa đất 1885 phải đi qua đất của ông Đ là
thửa 1884, nên vào năm 1997 cụ M và ông Đ có thoả thuận miệng chuyển đổi
một phần quyền sử dụng đất của thửa 1884 và thửa 1885 cho nhau. Mục đích để
cụ M thuận tiện cho việc đi lại. Sau đó hai bên đã giao đất cho nhau, thống nhất
ranh đất là các trụ xi măng, hàng cây cau nhưng không biết diện tích chuyển đổi
cho nhau cụ thể là bao nhiêu.
Trước khi Nhà nước ra thông báo thu hồi đất cụ M đã nhiều lần yêu cầu
ông Đ đưa giấy tờ đất để làm thủ tục chuyển đổi nhưng ông Đ không đưa. Đến
năm 2008 Nhà nước thông báo thu hồi đất để làm dự án công trình hạ tầng phát
triển và bảo vệ vùng cây ăn trái Thuộc N - M; hạng mục Đê bờ tây kênh Nguyễn
Tấn T3 và các cống dưới đê. Bà được biết Nhà nước chỉ đền bù cây trái còn đất
không có giấy chứng nhận thì sẽ không được đền bù, nên bà có thông báo cho
ông Đ biết nhưng ông Đ không làm và còn nói “đất của mày thì tao trả cho mày,
6
cây của mày tao trả cho mày” nên vào năm 2012 cụ M đã làm tờ di chúc tặng
cho con gái là Nguyễn Thị H1.
Năm 2019 Nhà nước tiến hành đo đạc để thu hồi đất làm đường và tại
phiếu xác nhận kết quả đo đạc năm 2019, phần đất thực tế của cụ M được thể
hiện: Diện tích đất bị thu hồi là 1.165,5m
2
(gồm thửa 1884 diện tích 922,0m
2
và
thửa 1885 diện tích 598,2m
2
); phần diện tích đất còn lại là 969,3m
2
(trong đó
thửa 1884 có hai diện tích là 89,2m
2
và 281,9m
2
, thửa 1885 là 589,2m
2
). Đây là
diện tích đất canh tác sau khi chuyển đổi từ năm 1997. Việc ký hợp đồng chuyển
đổi đất giữa cụ Nguyễn Thị M với ông Nguyễn Văn Đ vào ngày 20/5/2020 bà
không biết. Tuy nhiên phần diện tích đất bị thu hồi 1.165,5m
2
được Nhà nước
đền bù với tổng số tiền 1.160.225.500 đồng trong đó 1.158.225.500 đồng là tiền
chi trả đền bù ký nhận vào ngày 26/6/2020, còn 2.000.000 đồng là tiền chi trả
giao mặt bằng sớm ký nhận ngày 13/01/2021. Trên giấy tờ nhận tiền do cụ
Nguyễn Thị M ký, người trực tiếp nhận tiền là Nguyễn Thị H1. Lý do bà được
trực tiếp nhận số tiền này là do cụ M đã tặng cho bà.
Đến ngày 25/11/2021 cụ Nguyễn Thị M và bà đến Ủy ban nhân dân xã L
ký hợp đồng tặng cho bà toàn bộ diện tích đất 1.441,2m
2
thuộc thửa đất số 1885
trong đó có luôn phần diện tích đất của ông Đ đang quản lý canh tác. Việc ký
hợp đồng tặng cho này ông Đ hoàn toàn không biết.
Sau khi ký hợp đồng chuyển đổi đối với phần đất bị thu hồi, ông Đ có đến
yêu cầu cụ M ký hợp đồng chuyển đổi đất phần còn lại thì bà có báo cho ông Đ
biết toàn bộ diện tích đất thửa 1885 cụ M đã tặng cho bà. Sau đó ông Đ đã nộp
đơn thưa ra Ủy ban nhân dân xã L và được hòa giải ngày 05/8/2022 nhưng
không thành và ông Đ tiếp tục nộp đơn khởi kiện ra Tòa.
Nay bà đại diện theo ủy quyền cho cụ Nguyễn Thị M bà không đồng ý với
yêu cầu khởi kiện và yêu cầu khởi kiện bổ sung của ông Nguyễn Văn Đ. Đồng
thời cụ M có đơn phản tố ngày 02/07/2024 yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn
Văn Đ trả lại cho cụ Nguyễn Thị M diện tích 1.091,8m
2
(S5) thuộc thửa 1885 tờ
bản đồ số 3 tọa lạc tại ấp L, xã L huyện C, tỉnh Tiền Giang, bởi vì giữa cụ M và
ông Đ không có làm thủ tục chuyển đổi đất đúng theo qui định pháp luật. Về tài
sản trên diện tích 1.091,8m (S5) đồng ý bồi thường cho ông Đ cây trồng theo
biên bản định giá ngày 28/3/2024. Không đồng ý bồi thường cho ông Đ giá trị
bức tường mà ông Đ xây dựng và các khoản tiền khác, tổng cộng là
1.776.496.400 đồng. Đồng ý hoàn trả lại diện tích đất S2 là 108,3m
2
và S3 là
216,5m
2
cho ông Đ. Đối với cây trồng trên hai diện tích đất này, yêu cầu ông Đ
hoàn trả lại giá trị theo biên bản định giá ngày 28/03/2024. Cụ thể giá trị cây
trồng trên diện tích đất S2 là 2.410.000 đồng + giá trị cây trồng trên S3 là
9.989.000 đồng = 12.399.000 đồng. Đối với 10 cây ca cao do bà trồng tại diện
tích diện tích 216,5m
2
(S3) bà không yêu cầu định giá lại và cũng không yêu cầu
Tòa án giải quyết.
7
Đối với phần đất đã bị thu hồi và đền bù xong, cụ M và ông Đ đã làm thủ
tục chuyển đổi đất đúng theo qui định pháp luật nên không đồng ý hoàn trả số
tiền bồi thường chênh lệch cho ông Đ là 368.007.400 đồng.
Bà H1 thống nhất biên bản thẩm định, định giá tài sản trên đất ngày
28/03/2024 và phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất ngày
13/03/2024, không yêu cầu đo đạc thẩm định và định giá lại.
Nếu yêu cầu khởi kiện của ông Đ được chấp nhận, không yêu cầu giải
quyết tài sản trên đất.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị H1 trình bày: Bà
thống nhất với ý kiến của cụ Nguyễn Thị M, không trình bày gì thêm.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Lê Thị Hồng T2 trình bày: Bà và
ông Nguyễn Văn Đ cưới nhau vào năm 1977, đến năm 1980 mẹ chồng là bà
Nguyễn Thị M có cho con trai là Nguyễn Văn Đ thửa đất số 1884 diện tích
3.230m
2
toạ lạc tại ấp L, huyện C, tỉnh Tiền Giang và ông Đ đã được Nhà nước
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vào năm 1997 cụ M có yêu cầu ông Đ
chuyển đổi đất cho nhau, cụ thể ông Đ nhận một phần diện tích đất của thửa
1885 và giao một phần diện tích đất của thửa 1884 cho bà M và ngược lại bà M
cũng như vậy. Sau khi nhận một phần đất chuyển đổi của thửa 1885 thì hai vợ
chồng bà đã trực tiếp canh tác trên thửa đất này, bà M canh tác một phần đất của
thửa 1884. Sau đó Nhà nước đo đạc thu hồi đất để mở đường kênh Nguyễn Tấn
T3. Quá trình sử dụng đất ông Đ có yêu cầu cụ M làm thủ tục chuyển đổi đất,
nhưng chị H1 là người ở chung với cụ M không chịu đưa giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất để đi làm và cũng do ông Đ bận đi làm nên mới kéo dài đến
nay. Đối với căn nhà do vợ chồng xây cất trên diện tích đất còn lại của thửa
1884 không liên quan đến thửa đất đã chuyển đổi cho cụ M.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân xã L, huyện C,
tỉnh Tiền Giang trình bày: Không có ý kiến đối với vụ kiện tranh chấp trên, đề
nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật và xin được vắng mặt.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 193/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang đã áp dụng: điểm b,
khoản 1 Điều 688; khoản 2 Điều 129; Điều 130 của Bộ luật dân sự năm 2015;
Điều 73 Luật đất đai năm 1993; khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 227; Điều 228
Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 3 Điều 26; Điều 27; điểm đ khoản 1 Điều 12
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Toà án.
Xử:
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Đ
Công nhận giao dịch chuyển đổi quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Văn
Đ với cụ Nguyễn Thị M vào năm 1997, đối với một phần diện tích đất thuộc
thửa số 1885 có diện tích thực tế 1.091,8m
2
(S5) và một phần diện tích đất thửa
1884 có diện tích thực tế 108,3m
2
(S2) và phần đất diện tích 216,5m
2
( S3),
8
cùng tờ bản đồ số 3, loại đất Q; tọa lạc ấp L, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang,
theo các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0014905 cấp ngày 24/5/1997 do
cụ Nguyễn Thị M đứng tên và số 0014860 cấp ngày 26/12/1997 do ông Nguyễn
Văn Đ đứng tên, có hiệu lực pháp luật.
Ông Nguyễn Văn Đ được quyền đăng ký kê khai để được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, đối
với phần đất diện tích 1.091,8m
2
(ký hiệu S5), thuộc thửa 1885, tờ bản đồ số 3,
tọa lạc ấp L, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang, vị trí tứ cận như sau:
- Hướng Bắc giáp với đất của ông Nguyễn Văn Đ thửa 1884 (S1)
- Hướng Nam giáp với đất bà Nguyễn Thị Q (thửa 1977)
- Hướng Đông giáp với ông Nguyễn Văn S (thửa 1883)
- Hướng Tây giáp với đường T – kênh Nguyễn Tấn T3.
Cụ Nguyễn Thị M được quyền đăng ký kê khai để được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, đối
với các phần tọa lạc ấp L, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang, như sau:
+ Phần diện tích đất 108,3m
2
(ký hiệu S2), vị trí tứ cận như sau:
- Hướng Bắc giáp với đường M – bê tông;
- Hướng Nam giáp với đường T – kênh Nguyễn Tấn T3
- Hướng Đông giáp với đất của ông Nguyễn Văn Đ thửa 1884 (S1)
- Hướng Tây giáp với đường T – kênh Nguyễn Tấn T3
+ Phần diện tích đất 216,5m
2
(ký hiệu S3), vị trí tứ cận như sau:
- Hướng Bắc giáp với đường T – kênh Nguyễn Tấn T3
- Hướng Nam giáp với giáp với phần đất còn lại thửa 1885 của cụ
Nguyễn Thị M (S4);
- Hướng Đông giáp với đường T – kênh Nguyễn Tấn T3
- Hướng Tây giáp với đất của ông Nguyễn Văn S thửa 1886;
Theo phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất ngày 13/3/2024.
Thực hiện khi bản án có hiệu lực pháp luật.
2/ Hủy một phần hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa cụ Nguyễn
Thị M với bà Nguyễn Thị H1 được lập ngày 25/11/2021 đối với phần diện tích
đất 1.091,8m
2
(S5) thuộc thửa 1885, tọa lạc tại ấp L, xã L, huyện C, tỉnh Tiền
Giang do cụ Nguyễn Thị M đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp
ngày 24/5/1997.
3/ Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn, về việc yêu cầu ông
Nguyễn Văn Đ trả lại diện tích đất 1.091,8m
2
(S5) thuộc thửa 1885 tờ bản đồ số
3 tọa lạc tại ấp L, xã L huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của đương sự.
9
Ngày 02/10/2024, bị đơn Nguyễn Thị M có đơn kháng cáo với nội dung:
Đề nghị Tòa phúc thẩm xét xử theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị
đơn giữ nguyên yêu cầu phản tố và yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa
thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn trình bày: Việc hoán
đổi đất giữa ông Đ và cụ M là thực tế có xảy ra nhưng chị H1 đã nhiều lần yêu
cầu ông Đ thực hiện theo qui định của pháp luật nhưng ông Đ không thực hiện.
Đến năm 2020 có việc thu hồi đất để làm đường thì ông Đ cũng chỉ thực hiện
hợp đồng chuyển đổi đối với diện tích đất bị thu hồi, chứng tỏ ông Đ không còn
tha thiết trong việc hoán đổi đất. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điều luật để công
nhận giao dịch này là không đúng. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của ông Đ, chấp nhận yêu cầu phản tố cũng như yêu cầu
kháng cáo của cụ M.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang tại phiên tòa phát biểu ý
kiến về việc tuân theo pháp luật từ khi thụ lý phúc thẩm cho đến khi xét xử
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã tuân
thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Cụ M
kháng cáo nhưng không bổ sung được chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu
cầu kháng cáo của mình, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu
kháng cáo của cụ M, giữ nguyên án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Châu
Thành, tỉnh Tiền Giang.
Qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được
thẩm tra tại phiên tòa, nội dung yêu cầu kháng cáo của cụ Nguyễn Thị M lời
trình bày của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, ý kiến
phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật trong vụ án
là “Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất và hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất” là có căn cứ và phù hợp.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Ủy ban nhân dân xã L, huyện C,
tỉnh Tiền Giang và bà Lê Thị Hồng T2 có đơn xin vắng mặt, Hội đồng xét xử
căn cứ vào khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự xử vắng mặt đối với các
đương sự.
10
[2] Về nội dung vụ án: Ông Nguyễn Văn Đ, cụ Nguyễn Thị M và bà
Nguyễn Thị H1 cùng thống nhất trình bày: ông Nguyễn Văn Đ được Ủy ban
nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0014860 ngày 26/12/1997 với tổng
diện tích là 5.630m
2
, tại ấp L, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang gồm 02 thửa:
Thửa 1884 diện tích 3.230m
2
, loại đất thổ quả (TQ) và thửa 1889 diện tích
2.400m
2
, loại đất lúa (2L) cùng tờ bản đồ số 3. Cụ Nguyễn Thị M là mẹ ruột của
ông Đ có tổng diện tích đất là 4.220m
2
tại ấp L, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang,
được Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0014905 ngày 24/5/1997
gồm 02 thửa: Thửa 1885, diện tích 2.180m
2
và thửa 1887, diện tích 2.040m
2
cả
hai cùng loại đất quả (Q) cùng tờ bản đồ số 03.
Từ thửa đất 1885 của cụ M, để đi ra đường công cộng cụ M phải đi qua
thửa đất 1884 của ông Đ, nên vào năm 1997 cụ M và ông Đ thỏa thuận miệng là
chuyển đổi một phần quyền sử dụng đất của thửa 1884 và thửa 1885 cho nhau
mục đích là để cụ M thuận tiện trong việc đi lại. Sau đó cụ M và ông Đ giao đất
cho nhau nhưng không đo đạc diện tích cụ thể, thống nhất ranh đất là các trụ xi
măng và hàng cau.
Năm 2020, Nhà nước có dự án thực hiện công trình hạ tầng phát triển và
bảo vệ vùng cây ăn trái Thuộc Nhiêu - M; Hạng mục Đê bờ Tây kênh Nguyễn
Tấn T3 và các cống dưới đê nên thửa đất 1884 và 1885 bị thu hồi một phần diện
tích. Ngày 18/6/2020 Ủy ban nhân dân huyện C ban hành Quyết định số
3216/QĐ-UBND thu hồi diện tích 119,9m
2
thuộc thửa 1884 của ông Đ và diện
tích 495,3m
2
thuộc thửa 1885 của cụ M đã chuyển đổi cho ông Đ và Quyết định
số 3217/QĐ-UBND thu hồi diện tích 922m
2
thuộc thửa 1884 của ông Đ và thu
hồi diện tích 243,5m
2
thuộc thửa 1885 của cụ M. Để hợp thức hóa trong việc
nhận tiền bồi thường đối với diện tích đất chuyển đổi, ngày 20/5/2020 cụ M và
ông Đ đến Ủy ban nhân dân xã L lập hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
với nội dung cụ M đổi diện tích 615,1m
2
đất thuộc thửa 1885 cho ông Đ, ông Đ
đổi diện tích 922m
2
thuộc thửa 1884 cho cụ M, hai bên đã nhận tiền hỗ trợ, bồi
thường xong.
Thửa đất 1884 của ông Đ sau khi trừ diện tích đã bị thu hồi, phần diện tích
đất còn lại theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 2.188,1m
2
(trong đó đất ở
nông thôn là 300m
2
, đất trồng cây lâu năm là 1.888,1m
2
) đã được Chi nhánh văn
phòng đăng ký đất đai huyện C cập nhật chỉnh lý biến động trang 4.
Thửa đất 1885 của cụ M sau khi trừ diện tích đã bị thu hồi, phần diện tích
đất còn lại theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 1441,2m
2
đã được Chi
11
nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện C cập nhật chỉnh lý biến động trang 4.
Ngày 25/11/2021 cụ Nguyễn Thị M lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
đối với thửa đất 1885, tờ bản đồ số 03 diện tích 1441,2m
2
cho bà Nguyễn Thị
H1 trong đó có luôn phần diện tích đất của ông Đ đang quản lý canh tác. Hợp
đồng được Ủy ban nhân dân xã L chứng thực số 342, quyển số:1-SCT/HĐ, GD
ngày 25/11/2021.
Ông Đ khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển đổi quyền sử
dụng đất giữa ông Đ và cụ M được thỏa thuận miệng vào năm 1997 đối với diện
tích 1.091,8m
2
thuộc một phần của thửa 1885 và diện tích 108,3m
2
, diện tích
216,5m
2
thuộc một phần của thửa 1884. Yêu cầu hủy một phần hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất được lập vào ngày 25/11/2021 giữa cụ Nguyễn Thị M
với bà Nguyễn Thị H1 đối với diện tích đất 1.091,8m
2
. Cụ Nguyễn Thị M không
đồng ý và có yêu cầu phản tố, yêu cầu ông Đ trả lại diện tích 1.091,8m
2
thuộc
thửa 1885, tờ bản đồ số 3 tại ấp L, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang vì giữa ông Đ
và cụ M không làm thủ tục chuyển đổi đất đúng theo qui định của pháp luật.
[3] Xét nội dung kháng cáo và yêu cầu kháng cáo của cụ Nguyễn Thị M,
Hội đồng xét xử nhận thấy:
[3.1] Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như lời trình bày của cụ M và
bà Nguyễn Thị H1 thể hiện vào năm 1997 giữa cụ M và ông Đ có thực hiện việc
chuyển đổi quyền sử dụng đất cho nhau tại thửa đất 1884 của ông Đ và 1885 của
cụ M, tuy hai bên không lập thành văn bản nhưng cả hai đã thực hiện việc giao
đất, xác định ranh và canh tác ổn định từ năm 1997 cho đến nay. Trong phần
diện tích đất chuyển đổi cho nhau cụ M, ông Đ cũng đã được nhận tiền hỗ trợ
bồi thường đối với một phần diện tích của thửa 1884 và thửa 1885 và thực tế
thửa 1884 ông Đ đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất qua đo đạc thực
tế có diện tích là 2.161,6m
2
trong đó ông Đ sử dụng là 1.836,8m
2
, cụ M đang
quản lý sử dụng gồm 02 phần: phần thứ nhất có diện tích là 108,3m
2
, phần thứ
hai có diện tích 216,5m
2
. Trên hai phần đất này cụ M và bà H1 đã trồng các loại
cây như dừa, mít, ca cao từ năm 1997 đến nay. Thửa đất 1885 do cụ M đứng tên
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất qua đo đạc thực tế có diện tích là 1.722,2m
2
trong đó cụ M đang quản lý sử dụng diện tích là 630,4m
2
, ông Đ đang quản lý sử
dụng diện tích là 1.091,8m
2
. Trên diện tích 1.091,8m
2
ông Đ đã xây hàng rào và
trồng các loại cây như Mận, sapô, vú sữa, mít, bưởi. Như vậy, tuy hợp đồng
chuyển đổi quyền sử dụng đất giữa ông Đ và cụ M không tuân thủ về mặt hình
thức nhưng hai bên đã thực hiện việc giao đất cho nhau và đã canh tác ổn định
27 năm nay, việc ông Đ yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng
đất nêu trên là có căn cứ, phù hợp với điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015.
12
[3.2] Xét hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được lập ngày 25/11/2021
giữa cụ M với bà Nguyễn Thị H1, theo nội dung hợp đồng cụ M tặng cho bà H1
quyền sử dụng đất thửa số 1885, tờ bản đồ số 03 diện tích 1441,2m
2
tại ấp L, xã
L, huyện C, tỉnh Tiền Giang. Như nhận định trên, thửa đất 1885 thực tế cụ M chỉ
sử dụng diện tích 630,4m
2
còn lại diện tích 1.091,8m
2
là do ông Đ quản lý sử
dụng, cụ M cho bà H1 luôn phần diện tích này khi không có sự đồng ý của ông
Đ là không phù hợp, việc ông Đ yêu cầu hủy một phần hợp đồng tặng cho quyền
sử dụng đất nêu trên đối với diện tích 1.091,8m
2
là hoàn toàn phù hợp.
[3.3] Từ những phân tích nêu trên, xét thấy yêu cầu phản tố của cụ M là
không có căn cứ và không phù hợp.
[4] Xét thấy cụ M kháng cáo nhưng không bổ sung được chứng cứ tài liệu
gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình, vì vậy Hội đồng xét xử
không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của cụ M.
[5] Xét lời bào chữa của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cụ M
là không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp
nhận.
[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ phù hợp với nhận
định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[7] Về án phí: Cụ M là người cao tuổi nên được miễn tiền án phí dân sự
phúc thẩm.
[8] Về áp dụng điều luật: Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ điều 130 Bộ luật dân
sự năm 2015 và điều 73 Luật đất đai năm 1993 là chưa chính xác nên cần điều
chỉnh lại.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 2 điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ điều 693 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 129, điều 500 và điểm b
khoản 1 điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 95 Luật đất đai năm 2013;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của cụ Nguyễn Thị M. Giữ nguyên
bản án dân sự sơ thẩm số 193/2024/DS-ST ngày 27/9/2024 của Tòa án nhân
dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Đ.
13
Công nhận giao dịch chuyển đổi quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Văn
Đ với cụ Nguyễn Thị M vào năm 1997 đối với một phần diện tích đất thuộc thửa
số 1885 có diện tích thực tế 1.091,8m
2
được ký hiệu (S5) và một phần diện tích
đất thửa 1884 có diện tích thực tế 108,3m
2
được ký hiệu (S2) và phần đất diện
tích 216,5m
2
được ký hiệu ( S3), cùng tờ bản đồ số 3, loại đất Q; tại ấp L, xã L,
huyện C, tỉnh Tiền Giang, theo các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
0014905 cấp ngày 24/5/1997 do cụ Nguyễn Thị M đứng tên và số 0014860 cấp
ngày 26/12/1997 do ông Nguyễn Văn Đ đứng tên, có hiệu lực pháp luật.
2.1. Ông Nguyễn Văn Đ được quyền đăng ký kê khai để được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất, đối với phần đất diện tích 1.091,8m
2
(ký hiệu S5), thuộc thửa 1885, tờ bản
đồ số 3, tọa lạc ấp L, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang, vị trí tứ cận như sau:
- Hướng Đông giáp với đất ông Nguyễn Văn S (thửa 1883)
- Hướng Tây giáp với đường T – kênh Nguyễn Tấn T3.
- Hướng Nam giáp với đất bà Nguyễn Thị Q (thửa 1977)
- Hướng Bắc giáp với đất của ông Nguyễn Văn Đ thửa 1884 (S1)
2.2. Cụ Nguyễn Thị M được quyền đăng ký kê khai để được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất, đối với các phần tại ấp L, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang, như sau:
+ Phần diện tích đất 108,3m
2
(ký hiệu S2), vị trí tứ cận như sau:
- Hướng Đông giáp với đất của ông Nguyễn Văn Đ thửa 1884 (S1)
- Hướng Tây giáp với đường T – kênh Nguyễn Tấn Thành
- Hướng Nam giáp với đường T – kênh Nguyễn Tấn T3
- Hướng Bắc giáp với đường M – bê tông;
+ Phần diện tích đất 216,5m
2
(ký hiệu S3), vị trí tứ cận như sau:
- Hướng Đông giáp với đường T – kênh Nguyễn Tấn T3
- Hướng Tây giáp với đất của ông Nguyễn Văn S thửa 1886;
- Hướng Nam giáp với giáp với phần đất còn lại thửa 1885 của cụ
Nguyễn Thị M (S4);
- Hướng Bắc giáp với đường T – kênh Nguyễn Tấn T3
Theo phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất ngày 13/3/2024.
Thực hiện khi bản án có hiệu lực pháp luật.
3. Hủy một phần hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa cụ Nguyễn
Thị M với bà Nguyễn Thị H1 được lập ngày 25/11/2021 đối với phần diện tích
đất 1.091,8m
2
(S5) thuộc thửa 1885, tại ấp L, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang do
cụ Nguyễn Thị M đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày
24/5/1997.
14
4. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của cụ Nguyễn Thị M về việc yêu
cầu ông Nguyễn Văn Đ trả lại diện tích đất 1.091,8m
2
(ký hiệu S5) thuộc thửa
1885 tờ bản đồ số 3 tại ấp L, xã L huyện C, tỉnh Tiền Giang.
5. Về án phí: Miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm và dân sự phúc thẩm cho cụ
Nguyễn Thị M. H3 lại cho cụ Nguyễn Thị M 300.000đồng tiền tạm ứng án phí
theo biên lai thu số 0011504 ngày 02/7/2024 của Chi cục thi hành án dân sự
huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án
dân sự; thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật
thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại TP.HCM;
- VKSND tỉnh Tiền Giang;
- TAND huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang;
- Chi cục THADS huyện Châu Thành, Tiền Giang
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trương Thị Tuyết Linh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 11/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 16/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 02/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm