Bản án số 56/2025/DS-PT ngày 26/03/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 56/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 56/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 56/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 56/2025/DS-PT ngày 26/03/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Lâm Đồng |
Số hiệu: | 56/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chấp nhận một phần kháng cáo của anh Nguyễn Đức L; không chấp nhận kháng cáo của vợ chồng ông Đặng Văn H1, bà Nguyễn Hồng Nguyên T2; sửa Bản án Dân sự sơ thẩm số 117/2024/DS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân dân huyện Lâm Hà. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 56/2025/DS-PT
Ngày: 26-3-2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất
và yêu cầu hủy Quyết định cá biệt
của cơ quan, tổ chức”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Huỳnh Châu Thạch
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Thành Tâm
Bà Huỳnh Nguyễn Thanh Trúc
- Thư ký phiên toà: Ông Nguyễn Đạt Nguyên – Thư ký Tòa án, Toà án nhân
dân tỉnh Lâm Đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng: Bà Nguyễn Thị Thanh
Hương – Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 26 tháng 3 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 256/2024/TLPT-DS ngày 05 tháng 11 năm
2024 về tranh chấp: “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy Quyết định cá biệt của cơ quan,
tổ chức”.
Do Bản án Dân sự sơ thẩm số 117/2024/DS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 513/2024/QĐ-PT ngày 02
tháng 12 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 53/2025/QĐ-PT ngày
24 tháng 3 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Quốc C, sinh năm: 1974; cư trú tại thôn Q, xã P,
huyện L, tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp: Chị Nguyễn Mộng Thanh V, sinh năm: 2000; cư trú
tại tổ dân phố G, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng, là người đại diện theo ủy
quyền (Văn bản ủy quyền số 893, quyển số 01/2023TP/CC-SCC/HĐGD do Văn
phòng C1 chứng nhận ngày 12/4/2023); có mặt.
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Bà Trà Thị Thu T, sinh năm: 1995;
địa chỉ liên hệ: P.602A, tầng 6, số B, đường M, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ
Chí Minh. Luật sư của Công ty L2 - Đoàn Luật sư Thành phố H; có mặt.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Đức L, sinh năm: 1999; cư trú tại thôn Y, xã Đ, huyện
L, tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp: Anh Đặng Trọng K, sinh năm: 1991; anh Hán Đôn
Gia H, sinh năm: 1999; địa chỉ liên hệ: số A, đường Y, Phường I, thành phố Đ, tỉnh
Lâm Đồng, là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền số 2639, quyển số
05/2023TP/CC-SCC/HĐGD
T.O
do Văn phòng C1 chứng nhận ngày 18/5/2023);
anh K vắng mặt, anh H có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Văn phòng C1; địa chỉ: số F, đường H, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện hợp pháp: Ông Ngô Văn T1, là người đại diện theo pháp luật
(Trưởng Văn phòng); có đơn đề nghị vắng mặt.
2. Văn phòng C1; địa chỉ: số G, đường H, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm
Đồng.
Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Mậu A, là người đại diện theo pháp
luật (Trưởng Văn phòng); có đơn đề nghị vắng mặt.
3. Anh Nguyễn Đình Đ, sinh năm: 1994; địa chỉ liên lạc: số H Y, Phường I,
thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.
4. Chị Nguyễn Thị Bích L1, sinh năm: 2001; cư trú tại số A, đường T,
Phường H, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.
5. Vợ chồng ông Nguyễn Hòa K1, sinh năm: 1939, bà Đặng Thị M, sinh năm:
1948; cư trú tại số B, đường H, khu phố Đ, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng;
vắng mặt.
6. Vợ chồng ông Đặng Văn H1, sinh năm: 1973, bà Nguyễn Hồng Nguyên
T2, sinh năm: 1984; cư trú tại số B, đường N, Phường I, thành phố Đ, tỉnh Lâm
Đồng; có đơn đề nghị vắng mặt.
7. Bà Phùng Thị H2, sinh năm: 1982; cư trú tại thôn Q, xã P, huyện L, tỉnh
Lâm Đồng; vắng mặt.
- Người kháng cáo:
+ Anh Nguyễn Đức L – Bị đơn.
+ Vợ chồng ông Đặng Văn H1, bà Nguyễn Hồng Nguyên T2 - Người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
3
- Theo nội dung đơn khởi kiện ghi ngày 03/4/2023 của ông Nguyễn Quốc C,
lời trình bày tại các bản tự khai và trong quá trình tham gia tố tụng tại giai đoạn sơ
thẩm của chị Nguyễn Mộng Thanh V, người đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn, thì: do cần tiền để làm ăn nên vào ngày 08/11/2022 ông C có hỏi vay của anh
Nguyễn Đức L 200.000.000đ, lãi suất 5.000đ/1.000.000đ/ngày. Để đảm bảo cho
khoản vay nói trên, anh L yêu cầu ông C thế chấp diện tích đất 587m
2
, thửa TD9,
tờ bản đồ mảnh trích đo 16/2017 xã P, huyện L theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CH521811 đứng tên ông Nguyễn Quốc C, bà Phùng Thị H2 nên hai
bên đã viết hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thể hiện anh L đặt
cọc 100.000.000đ để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng thực tế là anh
L cho vay số tiền 200.000.000đ; trừ tiền lãi là 30.000.000đ nên ông C chỉ nhận
170.000.000đ. Đến ngày 09/11/2022 hai bên làm hợp đồng đặt cọc theo mẫu; ghi
số tiền đặt cọc là 200.000.000đ.
Sau đó, do cần thêm vốn để làm ăn nên ông C có hỏi vay thêm anh L
1.000.000.000đ, lãi suất 5.000đ/1.000.000đ/ngày; anh L đã yêu cầu ông C phải thế
chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khác để đảm bảo cho khoản vay này. Vì
vậy, ông C về trao đổi với cha, mẹ là ông Nguyễn Hòa K1, bà Đặng Thị M để
mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng của lô đất có diện tích 410,7m², thửa 174,
tờ bản đồ số 62, tọa lạc tại thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng để mang đi thế
chấp. Vợ chồng ông K1, bà M đã lập hợp đồng tặng cho ông C diện tích đất nói
trên để mang giấy tờ đi thế chấp; lúc này anh L yêu cầu ký hợp đồng chuyển
nhượng thửa 174 thì mới đồng ý cho vay. Vì vậy, ngày 13/12/2022 hai bên đến
Văn phòng C1 để ký hợp đồng chuyển nhượng diện tích đất nói trên, giá chuyển
nhượng 1.200.000.000đ; trong đó bao gồm 1.000.000.000đ vay ngày 13/12/2022
và 200.000.000đ vay ngày 08/11/2022. Sau khi ký hợp đồng xong thì anh L đã trả
lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH521811 tại xã P, huyện L cho ông C.
Ông C đưa bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng của diện tích đất 410,7m²,
thửa 174, tờ bản đồ số 62, tọa lạc tại thị trấn Đ, huyện L cho anh L giữ, dù cho vay
với số tiền là 1.000.000.000đ nhưng do trừ trước tiền lãi nên anh L chỉ đưa cho
ông C 756.000.000đ, việc đưa tiền không viết giấy tờ gì.
Đến ngày 05/01/2023 ông C tiếp tục vay 145.000.000đ và ngày 13/02/2023
vay thêm 170.000.000đ; việc giao tiền của cả hai lần vay này đều bằng hình thức
chuyển khoản. Như vậy, tổng cộng ông C vay của anh L 1.241.000.000đ.
Ngày 05/3/2023 ông C thấy anh L có đăng chuyển nhượng quyền sử dụng
thửa đất 174 nên đã liên hệ để trả tiền cho anh L nhưng bị đơn không đồng ý. Ngày
04/4/2023 anh L lập hợp đồng chuyển nhượng thửa 174 cho anh Nguyễn Đình Đ
nên nay ông C khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông C với anh L lập ngày 13/12/2022 đối với diện tích 410,7m
2
thuộc thửa
174 tờ bản đồ 62, tọa lạc tại tổ dân phố Đ, thị trấn Đ, huyện L và toàn bộ tài sản
trên đất; yêu cầu hủy việc điều chỉnh biến động sang tên cho anh L ngày
4
26/12/2022, buộc anh L phải trả lại bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho ông C và ông C sẽ trả lại số tiền 1.241.000.000đ đã vay của anh L; yêu cầu
hủy hợp đồng chuyển nhượng thửa 174 lập ngày 04/4/2023 giữa vợ chồng anh L,
chị L1 và anh Đ.
Trong khi Tòa án đang thụ lý, giải quyết vụ án (thụ lý ngày 13/4/2023) thì
ngày 12/6/2023 anh L lại chuyển nhượng thửa đất 174 nói trên cho bà Nguyễn
Hồng Nguyên T2 nên ông C có đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu hủy hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng ngày 12/6/2023 giữa vợ chồng anh L, chị L1 và bà
T2, yêu cầu bà T2 trả lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên.
- Theo lời trình bày của anh Đặng Trọng K và anh Hán Đôn Gia H, người đại
diện theo ủy quyền của anh Nguyễn Đức L, thì: Ngày 08/11/2022 anh L chuyển
khoản 100.000.000đ cho ông Nguyễn Quốc C để đặt cọc nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng diện tích đất 587m
2
thuộc thửa TD9, tờ bản đồ mảnh trích đo
16/2017 xã P, huyện L, đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
CH521811 đứng tên ông C, bà H2. Ngày 09/11/2022 anh L và ông C ký hợp đồng
đặt cọc ghi giá chuyển nhượng là 500.000.000đ, trong đó đặt cọc 200.000.000đ
(anh L đã chuyển khoản 100.000.000đ vào ngày 08/11/2022 và 100.000.000đ tiền
mặt vào ngày 09/11/2022), hẹn đến ngày 09/01/2023 hai bên sẽ ra công chứng
chuyển nhượng. Sau đó ông C đề nghị anh L đổi qua chuyển nhượng diện tích đất
410,7m², thửa 174 tờ bản đồ số 62, thị trấn Đ, huyện L với giá cao hơn thì anh L
đồng ý vì lô đất có diện tích 587m² thửa TD9 có đến 369m² bị quy hoạch đất giao
thông.
Ngày 13/12/2022 tại Văn phòng C1, hai bên kí kết hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng lô đất có diện tích 410,7m² thửa 174, tờ bản đồ số 62 nói trên với
giá chuyển nhượng ghi trong hợp đồng là 1.200.000.000đ, nhưng giá chuyển
nhượng thực tế là 1.550.000.000đ. Tại văn phòng công chứng, anh L đã thanh toán
cho ông C 1.000.000.000đ tiền mặt cộng với 200.000.000đ đặt cọc ngày
08/11/2022; thuế, phí công chứng và sang tên 35.000.000đ do anh L trả và số tiền
này được trừ vào giá chuyển nhượng, còn lại số tiền 315.000.000đ khi nào anh L
thanh toán đủ thì ông C sẽ giao đất. Ngày 26/12/2022 anh L đã được cập nhật biến
động sang tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 05/01/2023 anh L
chuyển khoản cho ông C 145.000.000đ, ngày 13/02/2023 tiếp tục chuyển khoản
cho ông C 170.000.000đ. Như vậy, anh L đã thanh toán 100% giá chuyển nhượng.
Vì vậy, bị đơn không đồng ý hủy hợp đồng chuyển nhượng nói trên theo yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn. Đối với hợp đồng chuyển nhượng ngày 04/4/2023 giữa
anh L và anh Đ thì hai bên đã thỏa thuận hủy hợp đồng vào ngày 12/6/2023 nên
hợp đồng này không còn tồn tại.
Đến ngày 12/6/2023 vợ chồng anh L, chị L1 lập hợp đồng chuyển nhượng
diện tích đất nói trên cho bà Nguyễn Hồng Nguyên T2, giá chuyển nhượng là
5
3.540.000.000đ và đã nhận tiền, việc chuyển nhượng đã hoàn tất thủ tục theo quy
định. Nay ông C yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu
trên thì anh L không đồng ý. Đồng thời, anh L cũng không đồng ý hủy hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất ngày 29/11/2022 giữa vợ chồng ông K1, bà M và ông
C.
- Theo lời trình bày của ông Lê Trung K2, người đại diện hợp pháp của Văn
phòng đăng ký đất đai tỉnh L, thì: trình tự, thủ tục giải quyết hồ sơ tặng cho quyền
sử dụng đất từ ông Nguyễn Hòa K1, bà Đặng Thị M sang ông Nguyễn Quốc C đối
với thửa đất số 174, tờ bản đồ số 62, thị trấn Đ, huyện L theo hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất số 9607, quyển số 11/2022 TP/CC – SCC/HĐGD ngày
29/11/2023 do Văn phòng C1 công chứng. Đối với việc hủy cập nhật biến động tại
trang 4 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 887895 do Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai huyện L thực hiện ngày 13/12/2022 thì: Chi nhánh thực hiện
giải quyết hồ sơ tặng cho quyền sử dụng đất nêu trên đúng theo quy định tại Điều
79 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Đất đai và trong quá trình giải quyết hồ sơ không
phát sinh tình tiết bị hạn chế quyền theo Điều 188 Luật Đất đai 2013. Khi Tòa án
xem xét có đủ cơ sở tuyên hủy việc cập nhật biến động, Chi nhánh sẽ thực hiện
theo quy định của pháp luật.
- Theo lời trình bày của ông Ngô Văn T1, người đại diện hợp pháp của Văn
phòng C1, thì: Ngày 29/11/2022 vợ chồng ông Nguyễn Hòa K1, bà Đặng Thị M và
ông Nguyễn Quốc C đến Văn phòng công chứng yêu cầu công chứng hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất. Sau khi kiểm tra các giấy tờ liên quan đến hợp đồng
công chứng, Văn phòng công chứng thấy đầy đủ, hợp lệ và có các điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự, các bên tham gia giao kết có đầy đủ năng lực hành
vi dân sự, tự nguyện nên Văn phòng công chứng đã giao cho nhân viên văn phòng
soạn thảo hợp đồng. Sau khi hợp đồng được soạn thảo Văn phòng công chứng đã
cho vợ chồng ông K1, bà M và ông C đọc lại toàn bộ nội dung dự thảo hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất. Hai bên đã đọc và đồng ý, ký tên và điểm chỉ vào hợp
đồng. Văn phòng C1 đã chứng nhận và phát hành hợp đồng theo đúng quy trình
quy định tại Luật Công chứng.
- Theo lời trình bày của ông Nguyễn Mậu A, người đại diện hợp pháp của
Văn phòng C1, thì: Ngày 12/6/2023 vợ chồng anh L, chị L1 và bà T2 có đến Văn
phòng công chứng Nguyễn Mậu A yêu cầu công chứng hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 887895 do Ủy
ban nhân dân huyện L cấp năm 2010 đứng tên hộ ông bà K1, M; đã được Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L cập nhật tặng cho ông C và ông C
chuyển nhượng cho anh L. Sau khi kiểm tra giấy tờ liên quan, kiểm tra thông tin
trên hệ thống của Sở Tư pháp thấy không bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời,
không có văn bản hạn chế chuyển dịch nên Văn phòng công chứng đã soạn thảo
6
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, sau khi dự thảo xong văn bản đã cho
các bên đọc lại và giải thích quyền và nghĩa vụ pháp lý, sau đó các bên đã đồng ý
và ký vào hợp đồng, văn phòng đã chứng thực hợp đồng và phát hành. Về trình tự,
thủ tục công chứng, văn phòng công chứng đã thực hiện theo quy định tại Điều 40,
41 Luật Công chứng. Việc công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa vợ chồng anh L, chị L1 và bà T2 là đúng quy định.
- Theo lời trình bày của anh Nguyễn Đình Đ thì: Ngày 04/4/2023 anh có nhận
chuyển nhượng diện tích đất 410,7m
2
thuộc thửa 174, tờ bản đồ 62 tọa lạc tại thị
trấn Đ, huyện L của vợ chồng anh L, chị L1 với giá chuyển nhượng là
2.000.000.000đ, hai bên đã ra Văn phòng công chứng Ngô Văn T1 làm hợp đồng
chuyển nhượng, tuy nhiên sau đó có văn bản của Tòa án và có đơn yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; cấm làm thủ tục chuyển nhượng nên ngày
12/6/2023 tại Văn phòng C1 hai bên thống nhất hủy hợp đồng nêu trên. Hai bên
chưa giao nhận tiền, chưa tiến hành giao đất cho nhau nên chưa phát sinh quyền và
nghĩa vụ liên quan đến thửa đất vừa nêu. Do đó, anh không có yêu cầu gì trong vụ
án này.
- Theo lời trình bày của chị Nguyễn Thị Bích L1 thì: Ngày 13/12/2022 anh L
và ông C ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có diện tích 410,7m²
thuộc thửa 174, tờ bản đồ số 62 tọa lạc tại thị trấn Đ, huyện L; giá chuyển nhượng
ghi trên hợp đồng là 1.200.000.000đ nhưng chị được biết giá chuyển nhượng thực
tế là 1.550.000.000đ. Ngày 13/02/2023 anh L đã hoàn tất việc thanh toán
1.550.000.000đ cho ông C và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cập
nhật biến động sang tên anh L. Tuy nhiên sau đó ông C không bàn giao đất dù anh
L cũng đã nhiều lần yêu cầu nhưng không có kết quả. Nay ông C cho rằng hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh L và ông Công lập ngày
13/12/2022 giả tạo là không có căn cứ vì hai bên đã ra Văn phòng công chứng ký
hợp đồng chuyển nhượng, hai bên đều thống nhất việc chuyển nhượng và việc
giao, nhận tiền cũng đã được hoàn tất. Ông C không bàn giao đất là xâm phạm
quyền và lợi ích hợp pháp của anh L. Vì vậy, chị cho rằng yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn là không có căn cứ.
- Theo lời trình bày của vợ chồng ông Nguyễn Hòa K1, bà Đặng Thị M thì:
Năm 1989 vợ chồng ông, bà được cấp lô đất có diện tích 410,7m² thuộc thửa 174,
tờ bản đồ 62, tọa lạc tại thị trấn Đ, huyện L. Đến năm 2010 thì Ủy ban nhân dân
huyện L cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông, bà. Do vợ
chồng ông, bà và hộ giáp ranh tranh chấp quyền sử dụng đất nhưng do đã già, đi lại
khó khăn nên đã ủy quyền cho con trai là Nguyễn Quốc C đi làm giấy tờ, kiện
tụng. Năm 2022 ông C yêu cầu vợ chồng ông, bà đến Văn phòng công chứng Ngô
Văn T1 ký giấy tờ nên vợ chồng ông, bà đã ký. Đầu năm 2023 anh Nguyễn Đức L
đến nhà vợ chồng ông, bà yêu cầu bàn giao nhà và đất vì lý do đã chuyển nhượng
diện tích đất này cho anh L thì vợ chồng ông, bà mới biết ông C đã làm thủ tục
7
đứng tên cho ông C đối với diện tích đất mà vợ chồng ông, bà đang ở. Vợ chồng
ông, bà khẳng định không tặng cho thửa đất 174 cho ông C, việc ký giấy tờ tặng
cho ở Văn phòng công chứng là do vợ chồng ông, bà không được đọc. Hiện nay vợ
chồng ông, bà vẫn ở tại lô đất này, ngoài ra không còn nơi ở nào khác. Việc ông C
làm thủ tục để đứng tên và sau đó chuyển nhượng cho anh L là không đúng; làm
ảnh hưởng đến quyền lợi của vợ chồng ông, bà nên nay vợ chồng ông, bà yêu cầu
hủy hợp đồng tặng cho giữa vợ chồng ông, bà và ông C để trả lại tên quyền sử
dụng đất cho vợ chồng ông, bà.
- Theo lời trình bày của bà Phùng Thị H2 thì: Bà là vợ của ông C nhưng đã
sống ly thân khoảng một năm nay. Việc ông C vay tiền của ai thì bà không biết; vợ
chồng ông K1, bà M có lập hợp đồng tặng cho ông C diện tích đất 410,7m² thuộc
thửa 174 nói trên sau đó ông Công lập hợp đồng chuyển nhượng cho anh L; anh L
lập hợp đồng chuyển nhượng cho anh Đ; sau đó anh L tiếp tục lập hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà T2 thì toàn bộ các sự việc này bà đều
không biết. Nay các bên tranh chấp thì bà xác định không liên quan trong vụ án
này nên không có yêu cầu gì.
- Theo lời trình bày của vợ chồng ông Đặng Văn H1, bà Nguyễn Hồng
Nguyên T2 thì: Năm 2023 vợ chồng ông, bà có nhu cầu nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất nên biết thông tin anh L chuyển nhượng diện tích đất 410,7m
2
thuộc thửa 174, tờ bản đồ 62 tọa lạc tại thị trấn Đ, huyện L. Anh L khẳng định đất
không có tranh chấp, vợ chồng ông, bà cũng xuống thực tế hỏi người dân xung
quanh nhưng không có thông tin gì về việc đất có tranh chấp nên ngày 12/6/2023
vợ chồng ông, bà và vợ chồng anh L, chị L1 lập hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất tại Văn phòng C1 đối với thửa 174, giá chuyển nhượng là
3.540.000.000đ, vợ chồng ông, bà đã giao đủ tiền chuyển nhượng và đã hoàn tất
thủ tục đăng ký biến động sang tên bà T2. Sau đó thì vợ chồng ông, bà mới được
Tòa án thông báo thửa đất trên đang bị ông C và anh L đang tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng. Vì vậy, nếu trong trường hợp Tòa án hủy hợp đồng chuyển
nhượng nêu trên thì vợ chồng ông, bà yêu cầu vợ chồng anh L, chị L1 phải trả lại
số tiền 3.540.000.000đ đồng thời xác định lỗi dẫn đến việc hủy hợp đồng thuộc về
vợ chồng anh L, chị L1 nên buộcvợ chồng anh L, chị L1 phải thanh toán số tiền
chênh lệch trượt giá là 1.460.000.000đ, tổng cộng là 5.000.000.000đ. Bản gốc Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên hiện đang do vợ chồng ông, bà giữ; cam
kết không thế chấp trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại Bản án số 117/2024/DS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2024; Toà án nhân dân
huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng đã xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Quốc C về việc
tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
8
Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển
nhượng ông Nguyễn Quốc C và bên nhận chuyển nhượng anh Nguyễn Đức L,
công chứng số 9942, quyển số 12/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 13/12/2022 tại Văn
phòng C1 đối với diện tích 410,7m
2
thuộc thửa 174 tờ bản đồ 62 thị trấn Đ tại tổ
dân phố Đ, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng là vô hiệu.
Buộc ông Nguyễn Quốc C phải có nghĩa vụ trả cho anh Nguyễn Đức L số tiền
1.779.811.000đ gồm tiền nợ gốc là 1.515.000.000đ và tiền nợ lãi là 264.811.000đ.
Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất công chứng số 2662,
quyển 02/2023/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 12/6/2023 tại Văn phòng C1 giữa bên
chuyển nhượng anh Nguyễn Đức L, chị Nguyễn Thị Bích L1 và bên nhận chuyển
nhượng bà Nguyễn Hồng Nguyên T2 đối với diện tích đất 410,7m
2
thuộc thửa 174
tờ bản đồ 62 thị trấn Đ tại tổ dân phố Đ, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng là vô
hiệu.
Buộc bà Nguyễn Hồng Nguyên T2 phải trả lại cho ông Nguyễn Hòa K1, bà
Đặng Thị M bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA887895 do Ủy ban
nhân dân huyện L, tỉnh Lâm Đồng cấp ngày 04/02/2010 cho ông Nguyễn Hòa K1,
bà Đặng Thị M.
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Quốc C về việc yêu cầu hủy
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất công chứng số 1547, quyển
04/2023/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 04/4/2023 tại Văn phòng C1 giữa bên chuyển
nhượng vợ chồng anh Nguyễn Đức L, chị Nguyễn Thị Bích L1 và bên nhận
chuyển nhượng anh Nguyễn Đình Đ.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện độc lập của bà Nguyễn Hồng
Nguyên T2.
Buộc anh Nguyễn Đức L, chị Nguyễn Thị Bích L1 phải thanh toán cho bà
Nguyễn Hồng Nguyên T2 số tiền 4.050.475.000đ.
Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Hồng Nguyên
T2 về việc yêu cầu anh Nguyễn Đức L, chị Nguyễn Thị Bích L1 phải thanh toán số
tiền 949.525.000đ.
4. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện độc lập của vợ chồng ông Nguyễn Hòa K1,
bà Đặng Thị M về việc tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất.
Tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất công chứng số 9607, quyển
11/2022/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 29/11/2022 tại Văn phòng C1 giữa bên tặng
cho ông Nguyễn Hòa K1, bà Đặng Thị M và bên nhận tặng cho ông Nguyễn Quốc
C đối với diện tích đất 410,7m
2
thuộc thửa 174, tờ bản đồ 62 thị trấn Đ tại tổ dân
phố Đ, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng là vô hiệu.
Ông Nguyễn Hòa K1, bà Đặng Thị M được quyền liên hệ với cơ quan nhà
9
nước có thẩm quyền để điều chỉnh biến động Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
và tài sản trên đất theo quy định của pháp luật.
5. Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L căn cứ vào Bản án của Tòa
án để giải quyết xóa điều chỉnh các đăng ký biến động (phần đăng ký biến động
sang tên ông Nguyễn Quốc C ngày 13/12/2022, đăng ký biến động sang tên anh
Nguyễn Đức L vào ngày 26/12/2022 và phần đăng ký biến động sang tên cho bà
Nguyễn Hồng Nguyên T2 ngày 05/7/2023) đã đăng ký tại trang IV giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số BA887895 do Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Lâm
Đồng cấp ngày 04/02/2010 cho hộ ông Nguyễn Hòa K1, bà Đặng Thị M.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo và
trách nhiệm thi hành án của các bên đương sự.
Ngày 23/9/2024 anh Nguyễn Đức L kháng cáo đề nghị sửa Bản án sơ thẩm
theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu độc lập
của vợ chồng ông Nguyễn Hòa K1, bà Đặng Thị M.
Ngày 07/10/2024 vợ chồng ông Đặng Văn H1, bà Nguyễn Hồng Nguyên T2
đề nghị không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu tuyên
bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 2662, quyển số 02/2023TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 12/6/2023 giữa anh Nguyễn Đức L, chị Nguyễn Thị Bích L1 với
vợ chồng ông, bà là vô hiệu. Trường hợp Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng nói trên là vô hiệu thì đề nghị giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu;
xác định lỗi hoàn toàn thuộc về vợ chồng anh L, chị L1. Buộc vợ chồng anh L, chị
L1 phải trả lại số tiền chuyển nhượng là 3.540.000.000đ và số tiền chênh lệch theo
kết quả thẩm định giá là 1.020.950.000đ; tổng cộng là 4.560.950.000đ.
Tại phiên tòa,
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Quốc C là chị Nguyễn Mộng
Thanh V và người đại diện theo ủy quyền của anh Nguyễn Đức L là anh Hán Đôn
Gia H thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án; cụ thể ông C đồng ý
thanh toán cho anh L số tiền 2.500.000.000đ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng phát biểu về việc tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các
đương sự tại giai đoạn phúc thẩm cũng như phiên tòa hôm nay: đã chấp hành đúng
quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Về nội dung: đề nghị không chấp
nhận kháng cáo của vợ chồng ông Đặng Văn H1, bà Nguyễn Hồng Nguyên T2;
chấp nhận một phần kháng cáo của anh Nguyễn Đức L, sửa Bản án sơ thẩm theo
hướng ghi nhận sự thỏa thuận của nguyên đơn và bị đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Quan hệ tranh chấp giữa các bên đã được Tòa án cấp sơ thẩm xác định
theo đúng quy định của pháp luật; đơn kháng cáo của anh Nguyễn Đức L và vợ
10
chồng ông Đặng Văn H1, bà Nguyễn Hồng Nguyên T2; thủ tục kháng cáo được
thực hiện theo đúng quy định tại các Điều 271, 272, 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự
năm 2015 nên đủ điều kiện để Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo thủ tục
phúc thẩm.
[2] Theo hướng dẫn tại đoạn 5 mục 2 phần II của Công văn số 64/TANDTC-
PC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao về "Thông báo kết quả giải đáp
trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính" thì "khi
giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất mà hợp đồng đó bị vô
hiệu, nhưng người nhận chuyển quyền đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất hoặc đã được xác nhận nội dung biến động thì không đưa cơ quan có
thẩm quyền trong việc cấp giấy tham gia tố tụng và không cần phải tuyên hủy Giấy
chứng nhận cấp cho người nhận chuyển nhượng. Khi Tòa án tuyên hợp đồng
chuyển quyền sử dụng đất vô hiệu thì Văn phòng đăng ký đất đai, cơ quan Tài
nguyên và môi trường căn cứ vào Bản án, quyết định của Tòa án để giải quyết điều
chỉnh biến động hoặc cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phù hợp với kết
quả giải quyết của Tòa án".
Cấp sơ thẩm xác định Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh L tham gia tố tụng
trong vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không cần thiết
nên cấp phúc thẩm xác định lại tư cách tham gia tố tụng của các đương sự và
không đưa Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Lâm Đồng tham gia tố tụng trong vụ án
này.
[3] Xét kháng cáo của anh Nguyễn Đức L thì thấy rằng:
[3.1] Diện tích đất thuộc thửa 174, tờ bản đồ số 62 tọa lạc tại thị trấn Đ, huyện
L được Ủy ban nhân dân huyện L cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BA 887895 cho vợ chồng ông
Nguyễn Hòa K1, bà Đặng Thị M vào năm 2010.
Ngày 29/11/2022 vợ chồng ông K1, bà M lập hợp đồng tặng cho ông Nguyễn
Quốc C đối với diện tích đất vừa nêu theo hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số
9607, quyển số 11/2022 TP/CC – SCC/HĐGD; được Văn phòng C1 chứng nhận.
Đến ngày 13/12/2022 cũng tại Văn phòng C1 ông C đã ký hợp đồng chuyển
nhượng diện tích đất này cho anh L với giá chuyển nhượng theo hợp đồng là
1.200.000.000đ. Do bị đơn cho rằng việc lập hợp đồng chuyển nhượng nói trên chỉ
nhằm mục đích đảm bảo cho việc vay tiền của mình nên các bên phát sinh tranh
chấp.
[3.2] Ngoài hợp đồng nói trên thì ông C còn nộp 01 bản gốc viết tay “Đặt cọc
mua đất” ghi ngày 08/11/2022 (BL96) và hợp đồng đặt cọc theo mẫu lập ngày
09/11/2022 (BL 97) thể hiện anh L đặt cọc cho ông C để nhận chuyển nhượng diện
tích đất 587m
2
thuộc thửa TD9, tờ bản đồ mảnh trích đo 16/2017 tại xã P, huyện L
đứng tên ông C, bà H2 với giá 500.000.000đ, đã đặt cọc 200.000.000đ.
11
Anh L cho rằng đến ngày 13/12/2022 ông C đề nghị anh đổi qua chuyển
nhượng diện tích 410,7m² thuộc thửa 174 với giá cao hơn nên hai bên đã lập hợp
đồng chuyển nhượng đối với thửa đất này nhưng không xuất trình được chứng cứ
chứng minh; ông C lại không thừa nhận nên không có cơ sở xem xét.
Bên cạnh đó, mặc dù hợp đồng chuyển nhượng thửa 174 ghi giá trị là
1.200.000.000đ nhưng ông C thừa nhận có nhận của anh L 1.241.000.000đ; bị đơn
cho rằng số tiền 1.550.000.000đ là tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng của
thửa đất số 174 nhưng cũng không xuất trình được giấy tờ chứng minh cụ thể các
lần giao tiền này là để thanh toán tiền nhận chuyển nhượng thửa đất vừa nêu.
[3.3] Mặt khác qua kết quả xác minh thì thời điểm năm 2022 thì thửa 174 có
giá trị từ khoảng 6.000.000.000đ đến 7.000.000.000đ; đến năm 2023 thị trường bất
động sản có xu hướng giảm nên thửa đất này còn có giá khoảng 5.000.000.000đ.
Theo Chứng thư thẩm định giá số 3006/2024/CT-STANFINA ngày 30/6/2024 của
Công ty trách nhiệm hữu hạn C2 thì tài sản tranh chấp có giá 4.560.950.000đ. Như
vậy, việc anh L cho rằng số tiền 1.550.000.000đ giao cho ông C là tiền nhận
chuyển nhượng của thửa đất 174 là không phù hợp với giá trị thực tế tại thời điểm
chuyển nhượng. Hơn nữa, trên thửa đất 174 có các công trình xây dựng gồm hàng
rào, nhà chính, phía sau là công trình phụ và nhà bếp, 01 giếng đào, 01 ao nước;
toàn bộ tài sản này từ trước đến nay do vợ chồng ông K1, bà M trực tiếp quản lý,
sử dụng ổn định; thực tế thì vợ chồng ông K1, bà M cũng không bàn giao khối tài
sản vừa nêu và quyền sử dụng đất cho anh L.
Do đó, có căn cứ để khẳng định việc ông C và anh L lập hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 13/12/2022 là hợp đồng giả tạo nhằm đảm bảo
cho việc anh L cho ông C vay tiền nên cấp sơ thẩm đã căn cứ Điều 124 Bộ luật
Dân sự tuyên bố hợp đồng nêu trên vô hiệu là có căn cứ.
[3.4] Tại phiên tòa hôm nay, chị Nguyễn Mộng Thanh V, người đại diện theo
ủy quyền của nguyên đơn và anh Hán Đôn Gia H, người đại diện theo ủy quyền
của bị đơn, thỏa thuận được với nhau về toàn bộ nội dung vụ án, cụ thể như sau:
ông Nguyễn Quốc C đồng ý trả cho anh Nguyễn Đức L số tiền 2.500.000.000đ; hai
bên thống nhất hủy các hợp đồng chuyển nhượng, hợp đồng tặng cho như Bản án
sơ thẩm đã tuyên.
Xét việc thỏa thuận của các đương sự về giải quyết vụ án là hoàn toàn tự
nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội
nên cần công nhận. Tuy nhiên, do một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
vắng mặt nên Hội đồng xét xử không thể sửa Bản án để công nhận sự thỏa thuận
của cá đương sự mà chỉ ghi nhận sự thỏa thuận này là phù hợp.
[4] Đối với kháng cáo của vợ chồng ông Đặng Văn H1, bà Nguyễn Hồng
Nguyên T2 thì thấy rằng:
12
[4.1] Như đã phân tích, do xác định việc chuyển nhượng thửa đất 174 giữa
anh L và ông C là giả tạo nhằm che dấu việc vay tiền nên vô hiệu. Bên cạnh đó,
khi vợ chồng anh L, chị L1 thực hiện việc chuyển nhượng thửa đất này cho bà T2
thì trước đó giữa nguyên đơn và bị đơn đã phát sinh tranh chấp và đang được Tòa
án nhân dân huyện Lâm Hà thụ lý, giải quyết nên diện tích đất này cũng không đủ
điều kiện để chuyển nhượng theo quy định tại Điều 188 Luật Đất đai năm 2013;
cấp sơ thẩm đã tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ
chồng anh L, chị L1 và bà T2 ngày 12/6/2023 vô hiệu là đúng đắn.
[4.2] Về giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu: do hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng anh L, chị L1 và bà T2 ngày 12/6/2023
vô hiệu; cấp sơ thẩm đã xác định lỗi của hai bên là ngang nhau; buộc vợ chồng anh
L, chị L1 phải trả lại cho bà T2 số tiền 4.050.475.000đ (cả tiền nhận chuyển
nhượng và tiền trượt giá tương ứng với tỷ lệ lỗi của mỗi bên) là phù hợp với quy
định của pháp luật.
[4.3] Đối với hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất lập ngày 29/11/2022 giữa
vợ chồng ông Nguyễn Hòa K1, bà Đặng Thị M với ông Nguyễn Quốc C; các bên
tham gia giao dịch của hợp đồng này cũng tự nguyện và thống nhất yêu cầu Tòa án
tuyên vô hiệu nên cấp sơ thẩm đã tuyên bố hợp đồng vô hiệu do giả tạo là có căn
cứ.
[4.4] Do hiện nay bà Nguyễn Hồng Nguyên T2 đang giữ bản chính Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
số BA 887895 của thửa đất 174, tờ bản đồ 62 tọa lạc tại thị trấn Đ, huyện L nên
cần buộc bà T2 phải trả lại cho vợ chồng ông K1, bà M để đương sự thực hiện các
thủ tục đăng ký biến động, điều chỉnh lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo
quy định.
[5] Từ những phân tích trên, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của vợ
chồng ông H1, bà T2; chấp nhận một phần kháng cáo của anh Nguyễn Đức L để
sửa Bản án sơ thẩm theo hướng đã nhận định.
[6] Về chi phí tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án ông Nguyễn Quốc C có yêu
cầu xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc, định giá tài sản tranh chấp với chi phí
3.393.600đ (đã tạm nộp và được Tòa án quyết toán xong); tại phiên tòa sơ thẩm
ông C tự nguyện nhận chịu, không yêu cầu giải quyết nên cần ghi nhận.
Bà T2 có yêu cầu thẩm định giá lại với chi phí là 28.000.000đ (đã tạm nộp và
được quyết toán xong), do yêu cầu độc lập của bà T2 được chấp nhận một phần
nên cần buộc anh L phải chịu và có trách nhiệm trả lại cho bà T2 chi phí này là có
căn cứ.
[7] Các phần khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
13
[8] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên vợ chồng ông H1, bà
T2 phải chịu án phí Dân sự phúc thẩm. Các đương sự phải chịu án phí Dân sự sơ
thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 2 Điều 308, các Điều 157, 165 và 300 Bộ luật Tố tụng Dân
sự năm 2015;
- Căn cứ các Điều 116, 117, 122, 124, 131, 500, 501, 502, 503 Bộ luật Dân sự
năm 2015;
- Căn cứ các khoản 1, 2, 4, 5, 6 Điều 26, khoản 3 Điều 27, khoản 2 Điều 29
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và
lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần kháng cáo của anh Nguyễn Đức L; không chấp nhận
kháng cáo của vợ chồng ông Đặng Văn H1, bà Nguyễn Hồng Nguyên T2; sửa Bản
án Dân sự sơ thẩm số 117/2024/DS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân
dân huyện Lâm Hà.
Tuyên xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Quốc C về việc: “Tranh chấp
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” với anh Nguyễn Đức L.
- Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Hồng Nguyên T2
“Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” với vợ chồng anh
Nguyễn Đức L, chị Nguyễn Thị Bích L1.
- Chấp nhận yêu cầu độc lập của vợ chồng ông Nguyễn Hòa K1, bà Đặng Thị
M về việc “Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất” với ông Nguyễn
Quốc C.
1. Ghi nhận sự thỏa thuận giữa ông Nguyễn Quốc C và anh Nguyễn Đức L
như sau:
1.1. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn
Quốc C và anh Nguyễn Đức L, số công chứng 9942, quyển số 12/TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 13/12/2022 tại Văn phòng C1 đối với diện tích đất 410,7m
2
,
thuộc thửa 174, tờ bản đồ 62, tọa lạc tại tổ dân phố Đ, thị trấn Đ, huyện L là vô
hiệu.
1.2. Buộc ông Nguyễn Quốc C phải có nghĩa vụ trả cho anh Nguyễn Đức L số
tiền 2.500.000.000đ (hai tỷ năm trăm triệu đồng).
1.3. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng anh
14
Nguyễn Đức L, chị Nguyễn Thị Bích L1 và bà Nguyễn Hồng Nguyên T2, số công
chứng 2662, quyển số 02/2023/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 12/6/2023 tại Văn phòng
C1 đối với diện tích đất 410,7m
2
, thuộc thửa 174, tờ bản đồ 62, tọa lạc tại tổ dân
phố Đ, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng là vô hiệu.
2. Tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Nguyễn
Hòa K1, bà Đặng Thị M và ông Nguyễn Quốc C, số công chứng 9607, quyển số
11/2022/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 29/11/2022 tại Văn phòng C1 đối với diện tích
đất 410,7m
2
, thuộc thửa 174, tờ bản đồ 62 tọa lạc tại tổ dân phố Đ, thị trấn Đ,
huyện L là vô hiệu.
2.1. Buộc vợ chồng anh Nguyễn Đức L, chị Nguyễn Thị Bích L1 phải thanh
toán cho bà Nguyễn Hồng Nguyên T2 số tiền 4.050.475.000đ (bốn tỷ không trăm
năm mươi triệu bốn trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).
2.2. Buộc bà Nguyễn Hồng Nguyên T2 phải trả lại cho vợ chồng ông Nguyễn
Hòa K1, bà Đặng Thị M bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BA887895 do Ủy ban nhân dân
huyện L, tỉnh Lâm Đồng cấp cho hộ gia đình ông K1, bà M ngày 04/02/2010.
Trường hợp đương sự không thực hiện việc giao Giấy chứng nhận nói trên thì cơ
quan có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật Đất đai năm 2024.
2.3. Vợ chồng ông Nguyễn Hòa K1, bà Đặng Thị M được quyền liên hệ với
cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục điều chỉnh biến động Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
3. Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L căn cứ vào Bản án của Tòa
án để giải quyết xóa điều chỉnh các đăng ký biến động tại trang 4 Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số
BA887895 do Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Lâm Đồng cấp ngày 04/02/2010 cho
hộ ông Nguyễn Hòa K1, bà Đặng Thị M; cụ thể phần đăng ký biến động sang tên
ông Nguyễn Quốc C ngày 13/12/2022, sang tên anh Nguyễn Đức L vào ngày
26/12/2022 và sang tên cho bà Nguyễn Hồng Nguyên T2 ngày 05/7/2023.
4. Các phần khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Về chi phí tố tụng:
+ Ông Nguyễn Quốc C tự nguyện chịu 3.393.600đ chi phí xem xét, thẩm định
tại chỗ, đo vẽ và định giá tài sản (đã tạm nộp và được Tòa án cấp sơ thẩm quyết
toán xong).
+ Anh Nguyễn Đức L phải chịu 28.000.000đ chi phí thẩm định giá tài sản.
Anh L có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Hồng Nguyên T2 số tiền 28.000.000đ
(hai mươi tám triệu đồng).
15
6. Về án phí:
- Án phí sơ thẩm:
+ Buộc ông Nguyễn Quốc C phải chịu 82.000.000đ án phí Dân sự sơ thẩm;
được trừ vào số tiền 900.000đ tạm ứng án phí Dân sự sơ thẩm đã nộp theo các
Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0013466 ngày 13/4/2023; số
0013545 ngày 22/5/2023 và số 0004359 ngày 15/12/2023; tất cả đều của Chi cục
Thi hành án Dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Ông C còn phải nộp
81.100.000đ.
+ Buộc anh Nguyễn Đức L phải chịu 300.000đ án phí Dân sự sơ thẩm; được
trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí Dân sự phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu
tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005087 ngày 07/10/2024 của Chi cục Thi hành
án Dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Anh L đã nộp đủ số tiền này.
+ Buộc vợ chồng anh Nguyễn Đức L, chị Nguyễn Thị Bích L1 phải chịu
112.350.000đ án phí Dân sự sơ thẩm.
+ Buộc bà Nguyễn Hồng Nguyên T2 phải chịu 40.486.000đ án phí Dân sự
sơ thẩm; được trừ vào số tiền 56.500.000đ tạm ứng án phí Dân sự sơ thẩm đã nộp
theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004502 ngày 11/3/2024
của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Bà T2 được nhận
lại số tiền 16.014.000đ tạm ứng án phí Dân sự sơ thẩm còn thừa.
- Án phí phúc thẩm:
+ Anh Nguyễn Đức L không phải chịu án phí Dân sự phúc thẩm.
+ Vợ chồng ông Đặng Văn H1, bà Nguyễn Hồng Nguyên T2 phải chịu
600.000đ án phí Dân sự phúc thẩm; được trừ vào số tiền 600.000đ tạm ứng án phí
Dân sự phúc thẩm đã nộp theo các Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
0005168 và số 0005169; cùng ngày 21/10/2024 của Chi cục Thi hành án Dân sự
huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Vợ chồng ông H1, bà T2 đã nộp đủ án phí Dân sự
phúc thẩm.
7. Về nghĩa vụ thi hành án:
Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật và kể từ ngày có đơn yêu cầu thi
hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người
được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều
357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi
16
hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án Dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lâm Đồng (01);
- Phòng Ttr, Ktr & THA (01);
- TAND huyện Lâm Hà (01);
- Chi cục THADS huyện Lâm Hà (01);
- Các đương sự (09);
- Lưu: bộ phận lưu trữ, hồ sơ vụ án (03).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Châu Thạch
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm