Bản án số 51/2024/DS-ST ngày 28/09/2024 của TAND tỉnh Hà Tĩnh về tranh chấp hợp đồng ủy quyền

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 51/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 51/2024/DS-ST ngày 28/09/2024 của TAND tỉnh Hà Tĩnh về tranh chấp hợp đồng ủy quyền
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng ủy quyền
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hà Tĩnh
Số hiệu: 51/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Công ty Hoàng Gia Long kiện tranh chấp hợp đồng bảo lãnh
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HÀ TĨNH
Bản án số: 51/2024/DS-ST
Ngày: 28-9-2024
V/v Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Bùi Quang Năng
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Tất Thể
Ông Bùi Văn Hồng.
- Thư phiên toà: Thanh Huyền Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Tĩnh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tĩnh tham gia phiên tòa:
Dương Thị Thanh Hiền- Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 9 năm 2024, tại Trụ sTòa án nhân dân tỉnh Tĩnh xét xử
thẩm công khai vụ án Dân sự sơ thẩm thụ số 25/2024/TLST-DS ngày 10
tháng 5 năm 2024 vviệc “Tranh chấp về hợp đồng bảo lãnh”; theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử thẩm số 60/2024/QĐXX-ST ngày 10 tháng 9 năm 2024
Quyết định hoãn phiên tòa số 57/2024/TB-TA ngày 23 tháng 9 năm 2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần Q. Địa chỉ: Tầng A, Tòa nhà A, phố Đ,
phường Đ, quận H, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Hoàng Thế S, sinh năm 1973; Chức vụ:
Tổng Giám đốc; Có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Trần Thị Lệ H, sinh năm 1978; Chức vụ:
Phó Tổng giám đốc; Vắng mặt.
Doãn Thị Mỹ L, sinh năm 2002; địa chỉ: Số A Đ, Đ, quận H, thành phố
Hà Nội; Vắng mặt.
- Bị đơn: Ông Phan Đặng C, sinh năm 1955; Địa chỉ: Xóm T, T, huyện Đ,
tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.
- Ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Chị Phan Đặng Thị V, sinh năm 1994; Địa chỉ: Xóm T, T, huyện Đ, tỉnh
Tĩnh; Có mặt.
Thị H1, sinh năm 1956; Địa chỉ: Xóm T, xã T, huyện Đ, tỉnh Tĩnh;
Xin xét xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của chị Phan Đặng Thị V: Phạm
Quang V1, Phạm Văn L1 luật Văn phòng L2, Đoàn luật thành phố
H; Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung, bản tự khai, quá trình giải
quyết vụ án người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Ngày 01/8/2022,
ông Phan Đặng C đã ký Hợp đồng bão lãnh với Công ty cổ phần Q để cho chị Phan
Đặng Thị V đi lao động tại Đài Loan với nội dung: - Ngay khi biết bên B (Phan
Đặng Thị V) bỏ trốn, lập tức kêu gọi, động viên bên B sớm quay trở về đầu thú;
cam kết bồi thường cho bên C (Công ty Cổ phần Q) số tiền 100.000.000 đồng nếu
bên B bỏ trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp, thời gian bồi thường trong vòng 10-
15 ngày kể từ khi nhận được văn bản thông báo bên B đã bỏ trốn của bên C; không
yêu cầu bên C phải chịu bất cứ trách nhiệm với bên A và bên B khi bên B vi
phạm nội dung hợp đồng này, miễn mọi trách nhiệm về dân sự, hình sự, kinh tế
cho bên C; Dùng toàn bộ tài sản nđất dùng bảo lãnh nêu trên để đảm bảo cho
việc bồi thường cho bên C nếu bên B bỏ trốn hoặc vi phạm hợp đồng này hết
07 ngày bên A không có đủ tiền để bồi thường cho bên C số tiền 100.000.000 đồng
thì bên C quyền yêu cầu các quan chức năng thẩm quyền để xử lý, khởi
kiện bên A ra Tòa án nhân dân thẩm quyền yêu cầu giải quyết theo pháp luật,
phát mại tài sản bảo lãnh để bồi thường cho bên C, trong trường hợp tiền phát mại
chưa đủ, bên A vẫn phải trách nhiệm tiếp tục trả đủ tiền bồi thường như đã cam
kết trong hợp đồng này; Cam kết khi bên B chưa hết hạn hợp đồng về nước thì tài
sản bên A đang dùng bảo lãnh cho bên C không được sang tên, chuyển nhượng,
cầm cổ cho bất ai, nếu vi phạm bên A hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp
luật."
Ngày 15/8/2022 Phan Đặng Thị V Hợp đồng đi làm việc tại Đài Loan.
Ngày 30/8/2022 Phan Đặng Thị V bay đến Đài Loan để thực hiện hợp đồng. Ngày
21/9/2022, Phan Đặng Thị V đã bỏ trốn. Sau khi nhận được tin lao động Phan
Đặng Thị V bỏ trốn tại Đài Loan, Công ty cổ phần Q đã tìm mọi cách liên lạc
nhưng không được. Ngày 24/9/2022, Công ty Cổ phần Q đã văn bản thông báo
tới gia đình ông Phan Đặng C gửi về UBND, Công an T, Đ, Tĩnh để
thông báo về việc Phan Đặng Thị V đã bỏ trốn đề nghị gia đình địa phương
phối hợp giúp đỡ kêu gọi Phan Đặng Thị V quay lại nơi làm việc (gửi bưu điện
ngày 9/11/2022). Nhưng đến nay gia đình ông C và lao động V vẫn không có phản
hồi về Công ty Cổ phần Q. Ngày 24/10/2022, Bộ L3 Công văn số 1110523260
gửi Công ty Cổ phần Q, kèm theo Công văn là danh sách 40 lao động bỏ trốn trong
đó có Phan Đặng Thị V với số hộ chiếu C5160397, ngày bỏ trốn 21/9/2022.
Việc công dân Phan Đặng Thị V bỏ trốn tại Đài Loan là việc làm vi phạm
pháp luật rất nghiêm trọng, trú bất hợp pháp tại nước sở tại sẽ phải chịu hình
phạt rất nghiêm khắc, đặc biệt về tính mạng, sức khỏe, tài sản và các quyền lợi của
công dân đều không được bảo đảm. Mặt khác còn làm thiệt hại nghiêm trọng đến
tài sản và uy tín của Công ty Cổ phần Q.
Lao động Phan Đặng Thị V btrốn thì coi đã đơn phương chấm dứt hợp
đồng, tự ý lại nước ngoài trái pháp luật vi phạm khoản 14, Điều 7 Luật Người
lao động Việt Nam đi làm việc nước ngoài theo hợp đồng năm 2020 quy định
như sau:“ Các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực người lao động Việt Nam đi
làm việc nước ngoài theo hợp đồng:14. Tự ý lại nước ngoài trải pháp luật sau
khi chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng đào tạo nghề." Theo quy định tại khoản
1, Điều 46 Nghị định 12/2022/NĐ-CP ngày 17/01/2022 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm hội, người lao
động Việt Nam đi làm việc nước ngoài theo hợp đồng thì vi phạm của người lao
động đi làm việc nước ngoài thể bị xử phạt vi phạm hành chính như sau:"1.
Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với người lao động
hành vi tự ý lại nước ngoài trái pháp luật sau khi chấm dứt Hợp đồng lao động
hoặc hợp đồng đào tạo nghề mà không phải do bị đe dọa, ép buộc dưới bất kỳ hình
thức nào TH không thuộc trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự”. Lao
động Phan Đặng Thị V còn phải nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho công ty cổ
phần Q theo quy định tại điểm e, khoản 2, Điều 6, Luật người lao động Việt Nam
đi làm việc nước ngoài theo hợp đồng năm 2020 quy định nsau: 2. Người
lao động Việt Nam đi làm việc nước ngoài theo hợp đồng các nghĩa vụ sau
đây: e) Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng đã theo quy định của pháp
luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận lao động." Người bảo lãnh cho lao
động ông Phan Đặng C phải thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm đã thỏa thuận
(100.000.000₫) bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 3, Điều 56 Luật
người lao động Việt Nam đi làm việc nước ngoài theo hợp đồng năm 2020 quy
định như sau: " 3. Việc bảo lãnh được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự.
Trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì doanh
nghiệp D, đơn vị sự nghiệp có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa
vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại."
Từ nội dung sviệc như trên, Công ty Cổ phần Q đề Tòa án nhân dân tỉnh
Hà Tĩnh giải quyết theo quy định của pháp luật đối với những yêu cầu:
- Buộc người bảo lãnh ông Phan Đặng C thực hiện đúng nội dung hợp
đồng bảo lãnh biên bản làm việc chống bỏ trốn đã kết với Công ty cổ phần
Q, bồi thường cho Công ty cổ phần Q 100.000.000 đồng do người được bảo lãnh vi
phạm hợp đồng.
Tại biên bản lấy lời khai, bị đơn ông Phan Đặng Công trình B: Tôi con
gái tên Phan Đặng Thị V, sinh năm 1994 hợp đồng đi lao động nước
ngoài với công ty Cổ phần Q vào tháng 8/2022. Quá trình làm thủ tục đi lao động
tại Đài Loan, V mượn tôi Giấy chứng nhận quyền sdụng đất để đảm bảo tài
sản để V đi xuất khẩu lao động. tôi có ký vào giấy bảo lãnh để làm thủ tục thế chấp
GCNQSD đất. Tôi được cán bộ Tòa án đọc cho xem hợp đồng bảo lãnh ngày
01/8/2022 và biên bản làm việc về cam kết bảo lãnh lao động không trốn ngày
31/8/2022, có chữ ký chữ viết của tôi nhưng tôi xác định tôi không ký hay viết vào
hai văn bản này. Quá trình làm thủ tục V đi xuất khẩu lao động tôi không hề ra làm
việc tại công ty cổ phần Q. V đi xuất khẩu lao động làm việc theo hợp đồng được 3
tháng thì không lương, công việc áp lực, vất vả nên ra ngoài làm. Việc Công ty
cổ phần Q khởi kiện yêu cầu tôi bồi thường số tiền 100.000.000 đồng do V bỏ trốn
không thực hiện hợp đồng lao động, tôi không đồng ý vì không liên quan tới tôi, đ
nghị công ty làm việc với chị V.
Tại biên bản lấy lời khai, tại phiên tòa người quyền lợi nghĩa vụ liên
quan chị Phan Đặng Thị V trình bày: Tôi không nhớ thủ tục nội dung tôi
hợp đồng đi làm việc ở nước ngoài (cụ thể ở Đài Loan) với công ty cổ phần Q, mọi
giấy tờ thủ tục Công ty tự làm đưa cho tôi ký. Tôi bắt đầu xuất cảnh sang Đài
Loan ngày 30/8/2024, phải cách ly 7 ngày mới được đi làm. Tôi làm việc tại Công
ty Đ địa chỉ tại G, Đ. Tại đây tôi không được làm việc như thỏa thuận, theo hợp
đồng lao động, tôi sẽ được làm việc về việc cắt da, nhưng tại Đài Loan tôi bị
chuyển sang công việc giặt da, đứng máy ép da. Tôi không nhớ thời điểm nào tôi
không làm việc tại công ty này nữa, do tôi không được bố trí việc như hợp đồng
nên tôi nghỉ, tôi báo với công ty về việc tôi nghỉ làm, vậy theo tôi, tôi không
vi phạm thỏa thuận đối với hợp đồng đã ký với Công ty cổ phần Q. Tôi không
đồng ý bồi thường cho Công ty cổ phần Q số tiền 100.000.000 đồng như cam kết.
Bố tôi Phan Đặng C không hợp đồng bảo lãnh nào với Công ty cổ phần Q. Tôi
không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần Q bố tôi không ký vào
hợp đồng bảo lãnh đó bản thân tôi không vi phạm hợp đồng, do Công ty cổ
phần Q không bố trí đúng việc làm cho tôi như hợp đồng.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị H1 (vợ ông C) trình bày:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần Q, bởi quyền sử dụng
đất tại thửa đất số 135, tờ bản đồ số 24 tại thôn T, T, Đ, Tĩnh đã được cấp
GCNQSD đất số BY 368826 mang tên Phan Đặng C Thị H1, nên việc ông
C một mình ký hợp đồng bảo lãnh, đưa tài sản này để đảm bảo thanh toán nghĩa vụ
bảo lãnh không được ông C không thể tự định đoạt. Nhà các công trình
trên đất còn công sức đống góp của các con chúng tôi vậy một mình ông C
không thể đứng ra xử không s đồng thuận của tôi các con. Tôi chưa
bao giờ thấy chồng tôi ra Nội gặp Công ty cổ phần Q để kết hợp đồng bảo
lãnh và các cam kết. Ông C khẳng định chữ trên bản hợp đồng bảo lãnh
không phải là chữ ký, chữ viết của ông C.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị Phan Đặng Thị V trình bày:
nghĩa vụ bảo lãnh theo Hợp đồng bảo lãnh, cam kết bảo lãnh phía nguyên đơn
đang yêu cầu không hiệu lực pháp bắt buộc ông Phan Đặng Công P thực
hiện. Thứ nhất: Về các tài liệu mang nội dung bảo lãnh: Theo nhận biết bằng mắt
thường đặc biệt theo khẳng định của ông Phan Đặng C thì chữ ký, chữ viết của
Phan Đặng C trong các tài liệu Hợp đồng bảo lãnh, cam kết bảo lãnh đều là giả mạo.
Các tài liệu này đều do phía khởi kiện chủ động cung cấp, nhưng phía khởi kiện
không đưa ra đủ tài liệu, chứng cứ để chứng minh sự thật chữ ký, chữ viết của bị đơn.
Thứ hai: Chủ thể phía “bên bảo lãnh” được ghi trong Hợp đồng bảo lãnh bao gồm
cả vợ ông C là bà H1, các thành viên khác từ 16 tuổi nhưng trong Hợp đồng không có
chữ của họ. Thứ ba: Qua thể hiện của hồ tài liệu thì quyền sử dụng đất do vợ
chồng ông Phan Đặng C và bà Võ Thị H1 đứng tên trên Chứng thư pháp lý
(GCNQSDĐ) được Nhà nước công nhận. Đây là tài sản chung hợp nhất của vợ chồng.
Cạnh đó, tài sản trên đất còn thể sự đóng góp công sức của các thành viên khác
trong gia đình. Vì vậy, giả sử đặt giả thiết chữ ký trong hợp đồng là đúng thì việc một
mình ông Phan Đặng C đứng ra kết hợp đồng, cam kết đưa tài sản ra để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ trái luật, xâm phạm đến quyền lợi của các thành viên khác,
không thể chấp nhận. Thứ tư: Phần chứng thực của UBND xã vào Hợp đồng bảo lãnh
không đúng với quy định về công chứng, chứng thực. Thứ năm: Tài sản bảo đảm
quyền sử dụng đất trong hợp đồng chưa được đăng tại quan quản lý đất đai.
Phía nguyên đơn Công ty Q vi phạm nghĩa vụ trước mới dẫn đến phát sinh việc vi
phạm của Phan Đặng Thị V, bố trí công việc không đúng thỏa thuận. Yêu cầu của
phía nguyên đơn không có một tài liệu nào chứng minh về thiệt hại thực tế. Vì vậy đề
nghị Tòa án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh sau khi nhận xét về việc tuân theo pháp
luật của Thẩm phán chủ tọa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự đã
đề xuất quan điểm giải quyết vụ án như sau:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 37, Điều 91; khoản 1, khoản
2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 335,
Điều 336 của Bộ luật n sự; Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị hội đồng xét xử: Bác yêu cầu khởi
kiện của Công ty cổ phần Q buộc người bảo lãnh ông Phan Đặng C bồi thường
cho Công ty Cổ phần Q số tiền 100.000.000 đồng và miễn trừ mọi trách nhiệm cho
Công ty Cổ phần Q đối với bên bảo lãnh chị Phan Đặng Thị V do vi phạm hp
đồng.
Về án phí: Công ty cổ phần Q phải chịu án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh (bồi thường thay) cho người đi lao động nước ngoài. Hội
đồng xét xử xác định đây vkiện tranh chấp hợp đồng dân sự (Hợp đồng bảo
lãnh) theo khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 37 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[1.2] Tại phiên tòa bị đơn ông Phan Đặng C đã được triệu tập hợp lệ lần thứ
hai nhưng vắng mặt, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Thị H1 đơn
đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228
Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn
ông Phan Đặng C và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Thị H1 theo thủ
tục chung.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần Q buộc ngƣời bảo lãnh
ông Phan Đặng C bồi thƣờng cho Công ty Cổ phần Q số tiền 100.000.000 đồng
miễn trừ mọi trách nhiệm cho Công ty Cổ phần Q đối với bên bảo lãnh
chị Phan Đặng Thị V do vi phạm hợp đồng.
[2.1] Xét hợp đồng bảo lãnh: Theo tài liệu Công ty Cổ phần Q1, ngày
01/8/2024, giữa Công ty Cổ phần Q và ông Phan Đặng C, chị Phan Đặng Thị V
hai hợp đồng bảo lãnh. Thứ nhất Hợp đồng bảo lãnh về việc hợp đồng bảo
lãnh cho lao động đi làm việc tại Đài Loan cam kết bồi thường nếu lao động bỏ
trốn lập tại Văn phòng Công ty L4. Trong đó bên A là Công ty Cổ phần Q, bên B
bên bảo lãnh là ông Phan Đặng C, sinh năm 1955 và bà Võ Thị H1, sinh năm 1956,
bên C ch Phan Đặng Thị V. Tài sản đảm bảo của bên B dùng bảo lãnh cho lao
động là toàn bộ nhà đất đứng tên Phan Đặng CThị H1 địa chỉ tại thôn T,
T, Đ, Tĩnh diện tích 1114,7m
2
, số thửa 135 tờ bản đồ số 24, GCNQSD
đất do UBND huyện Đ cấp ngày 31/12/2015. Hợp đồng đơn vị chứng kiến
Công ty L4. Thứ hai hợp đồng bảo lãnh của gia đình người lao động bảo lãnh
cho người lao động trước đại diện của chính quyền địa phương. Trong đó bên A:
người bảo lãnh cho lao động: Ông Phan Đặng C thay mặt gia đình (gồm Phan
Đặng C, Thị H1, Phan Đặng Thị N, Phan Đặng Thị V) xin được dùng toàn bộ
giá trị tài sản bên A cùng những người có tên trên đồng sở hữu bảo lãnh cho bên B
chị Phan Đặng Thị V, bên C Công ty cổ phần Q. Hợp đồng này được chính
quyền địa phương xác nhận: Nội dung khai của người bảo lãnh về hộ khẩu
thường trú, tài sản mang ra bảo lãnh tại địa phương đúng, nếu lao động bỏ trốn
chính quyền địa phương phối hợp cùng Công ty trong việc xử lý bảo lãnh bỏ trốn.
[2.2] Quá trình giải quyết vụ án, tại biên bản lấy lời khai ông Phan Đặng C
ngày 6/6/2024, ông Phan Đặng C khẳng định ông không ký, không viết vào hợp
đồng bảo lãnh, biên bản làm việc về việc cam kết và bảo lãnh lao động không trốn,
đồng thời ông cung cấp 3 mẫu chữ ký và ghi rõ họ tên vào văn bản. Ngày
29/7/2024, Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định tại Phòng K Công an tỉnh đ
giám định chữ của ông Phan Đặng C tại hợp đồng bảo lãnh biên bản làm
việc về việc cam kết bảo lãnh lao động không trốn. Ngày 08/8/2024, Phòng K
văn bản số 273/PC09 về việc từ chối giám định do không đủ sở kết luận các
nội dung được trưng cầu giám định. Để căn cgiải quyết vụ án, Tòa án nhân
dân tỉnh đã ủy thác cho UBND xã, Công an T trực tiếp làm việc với ông C. Tuy
nhiên tại biên bản làm việc ngày 26/8/2024 do UBND T Công an xã lấy lời
khai: ông C khẳng định ông không liên quan đến nội dung khởi kiện của Công ty
cổ phần Q, ông không hề văn bản nào liên quan đến việc bảo lãnh với công ty
nên không đồng ý viết vào bản tự khai, biên bản làm việc. Tòa án văn bản yêu
cầu Công ty cổ phần Q1 thêm mẫu chữ ký, chviết của ông Phan Đặng C tại các
năm 2021 đến năm 2024, tuy nhiên ng ty Cổ phần Q không cung cấp được.
[2.3] Trong 02 hợp đồng bảo lãnh ngày 1/8/2022, hợp đồng của gia đình
người lao động bảo lãnh cho người lao động trước đại diện chính quyền địa
phương. Bản hợp đồng này xác nhận của UBND T, huyện Đ, tỉnh Tĩnh.
Tuy nhiên, ngày 09/9/2024, UBND xã T đã có văn bản trả lời, nội dung: Thời điểm
hồ sơ xác nhận bảo lãnh của ông Phan Đặng C đã khá lâu nên UBND xã không
còn nhớ. Hợp đồng bảo lãnh văn bản xác nhận nên UBND không mở sổ
theo dõi lưu hồ sơ, thực tế các hợp đồng được của các công ty đều do
người dân mang đến UBND xã để ký, các công ty xuất khẩu lao động không thông
báo mẫu chữ ký và niêm yết chữ ký tại UBND xã.
[2.4] So sánh hai Hợp đồng Bảo lãnh, thì cả hai Hợp đồng này đều cùng
ngày 1/8/2022. Một hợp đồng xác nhận của chính quyền địa phương UBND
T, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh; 01 hợp đồng được ký tại V công ty L4, quận H, Hà Nội.
Như vậy, trong một ngày bản thân ông Phan Đăng C1 ký hợp đồng tại hai địa điểm
Hà Tĩnh – Hà Nội là không phù hợp.
[2.5] Theo quy định tại Điều 91 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Công ty cổ phần Q
phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho
yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn
Công ty cổ phần Q1 hợp đồng bảo lãnh nhưng bị đơn không thừa nhận, hợp đồng
chỉ chữ ký của ông Phan Đặng C không có chữ của bà Thị H1các
thành viên khác, không các mẫu chữ so sánh đxác định chữ ông C,
UBND T không xác nhận về chữ của ông Phan Đặng Công . Công ty cổ
phần Q, thời điểm làm các thủ tục để cho người lao động chị Phan Đặng Thị V đi
lao động tại Đài Loan thiếu chặt chẽ, không tiến hành lập vi bằng hp đồng Bảo
lãnh, không tài liệu chứng cứ chứng minh chữ ký, chữ viết của ông Phan Đăng
C1 do một người cùng ký, viết ra. Tại phiên tòa ông Hoàng Thế S, Tổng giám
đốc của Công ty cổ phần Q thừa nhận tại thời điểm hợp đồng bảo lãnh công ty
không trực tiếp với ông C1 tại công ty giao cho người lao động tự cầm hợp
đồng về ký. vậy không căn cchứng minh buộc ông Phan Đăng C1 phải
thực hiện nghĩa vphải bồi thường số tiền 100.000.000 đồng cho Công ty cổ phần
Q. Do dó, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần Q không căn
cứ chấp nhận.
[3] Về án phí thẩm: Nguyên đơn không được chấp nhận yêu cầu khởi
kiện nên phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
[4] Về chi phí tố tụng: Trả lại cho nguyên đơn Công ty Cổ phần Q số tiền
3.000.000 đồng nộp tạm ứng chi phí trưng cầu giám định theo biên bản giao nhận
ngày 31/7/2024 tại cán bộ Tòa án. Ông Hoàng Thế S Tổng Giám đốc Công ty đã
nhận lại đủ số tiền này.
[5] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn, người quyền lợi nghĩa vụ
liên quan có quyền kháng cáo theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 37, Điều 91; khoản 2 Điều
227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 335, Điều 336 của Bộ
luật Dân sự; Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng
12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án,
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần Q về việc Buộc
người bảo lãnh ông Phan Đặng C nghĩa vụ bồi thường cho Công ty Cổ phần
Q số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) và miễn trừ mọi trách nhiệm
cho Công ty Cổ phần Q đối với bên bảo lãnh chị Phan Đặng Thị V do vi phạm
hợp đồng.
2. Về án pthẩm: Buộc Công ty Cổ phần Q phải chịu 5.000.000 đồng
(năm triệu đồng) tiền tạm ứng án phí nhưng được trừ số tiền 2.500.000 đồng tiền
tạm ứng áp phí đã nộp tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh theo Biên lai thu số
0000867 ngày 09/5/2024. Công ty Cổ phần Q phải nộp tiếp số tiền 2.500.000 đồng.
3. Về chi phí tố tụng: Trả lại cho nguyên đơn Công ty Cổ phần Q số tiền
3.000.000 đồng nộp tạm ứng chi phí trưng cầu giám định theo biên bản giao nhận
ngày 31/7/2024 tại cán bộ Tòa án. Ông Hoàng Thế S Tổng Giám đốc Công ty đã
nhận lại đủ số tiền này.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, người quyền lợi nghĩa vụ liên
quan quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể tngày tuyên án. Bị đơn,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn
15 ngày từ từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Nơi nhận:
- TAND Cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh;
- Cục THADS tỉnh Hà Tĩnh;
- Các đương sự;
- Lưu HSVA; VP; TDS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bùi Quang Năng
Tải về
Bản án số 51/2024/DS-ST Bản án số 51/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 51/2024/DS-ST Bản án số 51/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất